Đất ngọt ven sông Tiền và sông Hậu chiếm bao nhiêu phần trăm diện tích đất trong vùng

Diện tích đất phù sa ngọt của đồng bằng sông cửu long:


Trả lời :


Đất phù sa ngọt ven sông Tiền, sông Hậu [ thuộc đồng bằng sông Cửu Long], có diện tích 1,2 triệu ha [30% diện tích vùng] là đất tốt nhất thích hợp trồng lúa.

Đồng Bằng Sông Cửu Long [ĐBSCL] nằm ở cực Nam của Việt Nam, còn được gọi là miền Tây Nam Bộ, liền kề vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông.

Toàn vùng có 1 thành phố trực thuộc trung ương và 12 tỉnh, theo số liệu thống kê năm 2011, ĐBSCL có tổng diện tích là 40.548,2 km² và tổng dân số là 17.330.900 người.

Là một bộ phận của châu thổ sông Mekong, ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên gắn với thay đổi mực nước biển kéo theo sự hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, vùng tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau.

Đây là vùng có khí hậu cận xích đạo mưa nhiều, nắng nóng nên thuận lợi phát triển ngành nông nghiệp đặc biệt là phát triển trồng lúa nước, cây lương thực và thủy sản.

Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp và thủy sản chưa tới 30% của cả nước nhưng miền Tây đóng góp hơn 50% diện tích, sản lượng lúa, 71% diện tích nuôi trồng thủy sản, 30% giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lượng thủy sản của cả nước. Bình quân lương thực đầu người gấp 2.3 lần so với lương thực trung bình cả nước. Nhờ vậy nên ĐBSCL là nơi xuất khẩu gạo, thủy sản chủ lực của cả đất nước.

Lịch sử khai thác ĐBSCL mới được khoảng 300 năm qua các thời kỳ: móc lõm thể kỷ XIX, quảng canh đầu thế kỷ XX, thâm canh tăng vụ vào 20 năm cuối của thế kỷ XX và khai thác tổng hợp nông, lâm, thủy đầu thế kỷ XXI. Những nghiên cứu về đất ĐBSCL chưa nhiều, bước đầu chúng tôi hệ thống lại một số nghiên cứu chính, trên diện rộng để bạn đọc nghiên cứu.

1. Các kỳ điều tra khảo sát về thổ nhưỡng ở ĐBSCL

Đã có nhiều nghiên cứu đơn lẻ nhưng có một số kỳ điều tra chính, trên diện rộng như sau: [1] thời Pháp thuộc chỉ có các nghiên cứu đơn lẻ, nặng về địa chất, tới năm 1958 đến năm 1961, F.R Moormann - chuyên viên thổ nhưỡng của FAO khảo sát xây dựng bản đồ đất tổng quát miền Nam tỷ lệ 1/1.000.000. [2] năm 1972, Thái Công Tụng chi tiết hóa các nghiên cứu [1] ấn hành thuyết minh cho các bản đồ đất 1/200.000 và 1/100.000 cho ĐBSCL. [3] sau giải phóng, nhiều nghiên cứu toàn diện được tiến hành, năm 1975 đến 1978 lập bản đồ đất 1/25.000 cấp huyện và 1/100.000 cấp tỉnh [4] Chương trình 60.02 điều tra xây dựng bản đồ đất 1/100.000 cấp tỉnh và toàn bộ ĐBSCL 1/250.000 do Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp và một số Viện, Trường thực hiện. [5] năm 1988- 1989 Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp điều tra bổ sung và chỉnh lý bản đồ đất ĐBSCL tỷ lệ 1/250.000. [6] năm 1991, Tôn Thất Chiểu và một số tác giả bổ sung, chỉnh lý và xây dựng bản đồ 1/250.000 ĐBSCL [7] năm 2009, Võ Quang Minh, Lê Quang Trí... xây dựng Bản đồ đất ĐBSCL 1/250.000 theo hệ thống chú giải FAO-WRB .  

2.Các phương pháp phân loại và chú giải bản đồ đất ở ĐBSCL

- F.R đã vận dụng quan điểm phát sinh như khí hậu, đá mẹ, địa hình và tính chất đất chia đất miền Nam Việt nam thành 26 đơn vị chú dẫn bản đồ.

- Thái Công Tụng chia ĐBSCL thành 6 đơn vị tự nhiên gọi là miền với 9 nhóm đất chính và nhiều biểu loại trong từng nhóm đất chính căn cứ vào các tiêu chuẩn như thành phần cơ giới, màu sắc đất, mực thủy cấp...

- Năm 1975-1978 sử dụng phương pháp và quy trình thành lập đất của Viện Nông hóa và Thổ nhưỡng dựa vào nguồn gốc phát sinh và các quá trình hình thành đất.

- Chương trình 60.02 có nhiều phương pháp khác nhau, một số tỉnh sử dụng Soil Taxonomy - phân loại đất theo định lượng USDA của Hoa kỳ.

- Các kỳ điều tra bổ sung và phân loại sau này sử dụng hệ thống chú bản đồ đất theo phân loại đất Việt nam và phát triển trên cở sở bảng chú dẫn do Tiểu ban bản đồ đất Việt Nam soạn thảo năm 1978 và hiệu chỉnh năm 1980 có sử dụng các thuật ngữ tương ứng của USDA và FAO- UNESCO.

3.Diện tích các nhóm, loại đất

4.Đặc tính và phân bố một số nhóm, loại đất chính

4.1. Nhóm Đất cát giồng

Đất cát giồng ở ĐBSCL phần lớn phân bố ở vùng duyên hải ven biển như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu thành những giải hình vòng cung song song với bờ biển, nhô cao so với vùng đất phù sa xung quanh. Những giải cát giồng là dấu vết minh chứng cho việc tiến ra biển trong quá trình hình thành của ĐBSCL. Vật liệu hình thành các giồng cát giồng có cát thạch anh và các khoáng vật khác. Trong điều kiện nóng ẩm cao, mưa nhiều của ĐBSCL đất cát giồng tiếp tục phong hóa, có phẫu diện đất đã hình thành tầng tích tụ, thành phần đất mặt có nơi đã là thịt nhẹ.

Đất cát giồng có thành phần cơ giới nhẹ, hàm lượng cát [0,2-2mm] 60-70%, màu đất vàng sáng - vàng sẫm. Độ xốp đất 16 đến 20%. Có phản ứng chua ở tầng mặt và trung tính ở các tầng dưới. Hàm lượng hữu cơ 0,79 đến 1,2%, mức độ khoáng hóa cao C/N = 5 - 7. Độ phì nhiêu rất thấp, N = 0,03 - 0,08%, P2O5 tổng số 0,04 - 0,08%, P2O5  dễ tiêu 2 - 4 mg/100g. Một số giồng cát nằm sát ven biển bị ảnh hưởng mặn.

Đất cát giồng được khai thác sớm và triệt để. Tuổi của đất cát giồng càng gần biển càng trẻ. Các giồng cát có khả năng giữ được nước ngọt cho mùa khô và sử dụng trồng màu, cây ăn quả và có địa hình cao nên thường là những quần cư lớn.

4.2. Nhóm Đất mặn

Nhóm đất mặn có diện tích đứng thứ 3 sau đất phèn và đất phù sa. Về phân loại, đất mặn ở ĐBSCL được xếp vào mặn do triều hoặc do nước ngầm bị mặn gây ra. Vì phèn độc và cải tạo khó hơn mặn nên nếu đất mặn có cả quá trình phèn đã được đưa sang nhóm đất phèn. Đất mặn thường có thành phần cơ giới nặng, hàm lượng sét [ 4, Cl ‑  > 0,25%, pH [­K2O] trung bình là 5,5 ở tầng mặt, 6,5 ở tầng dưới, N tổng số trung bình là 0,11 ở tâng trên và 0,05 ở tầng dưới, P2O5 tổng số trung bình là 0,04 ở tầng mặt và 0,06% ở tầng dưới, C/N = 12,5 - 13. Phân bố ở Long an, Tiền giang, Trà vinh, Sóc trăng, Bạc liêu, Cà mau. Hiện đất này đang được sử dụng nuôi tôm.

- Đất mặn trung bình, ký hiệu là M, diện tích 148.934 ha, có EC[ms/cm] > 2 - 4, Cl ‑ : 0,15 - 0,25%, pH [­K2O] trung bình là 4,9 ở tầng mặt, 6,9 ở tầng dưới, N tổng số trung bình là 0,18 ở tầng trên và 0,05 ở tầng dưới, P2O5 tổng số trung bình là 0,04 ở tầng mặt và 0,05% ở tầng dưới, C/N = 11 và 9. Phân bố ở Long An, Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. Hiện đang được sử dụng nuôi tôm, trồng lúa.

- Đất mặn ít, ký hiệu là Mi, diện tích 437.488 ha, có EC[ms/cm] > 1 - 2, Cl ‑ : 0,05 -  0,15%, các chỉ số khác như đất mặn trung bình. Phân bố ở Long An, Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. Hiện đang ngọt hóa để trồng lúa hoặc nuôi tôm + lúa.

- Đất mặn dưới rừng ngập mặn, ký hiệu là Mm, diện tích 56.022 ha, phân bố ở Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau. Đất này luôn bị ngập triều quanh năm nên bị bão hòa muối, còn nếu không bị ngập triều mùa khô có độ mặn rất cao.

4.3. Nhóm Đất phèn

- Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất ở ĐBSCL. Phân loại đất phèn căn cứ vào tầng phèn và tầng sinh phèn, độ sâu xuất hiện của các tầng này trong phẫu diện đất.

Tầng sinh phèn: tầng tích lũy vật liệu chứa phèn là tầng sét hoặc hữu cơ ngập nước thường xuyên ở trạng thái yếm khí, có chứa lượng SO3 trên 1,75% [ tương đương với 0,75% S].

 Tất cả các đất chỉ có tầng sinh phèn trong phẫu diện đất được xếp vào đất phèn tiềm tàng.

Tầng phèn là một dạng của tầng B xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triên của đất phèn từ đất phèn tiềm tàng, tập trung chủ yếu là khoáng Jarosite dưới dạng đốm, vệt vàng rơm có pH thường dưới 3,5. Tầng phèn thường vẫn được gọi là tầng Jarosite, là tầng chỉ thị cho đất phèn hoạt động.

Những độc tố trong đất phèn do tầng phèn tạo ra, vì vậy sự xuất hiện nông sâu của tầng sinh phèn hoặc tầng phèn có liên quân chặt chẽ  đến mức độ phèn của tầng đất mặt. Tùy theo độ sâu xuất hiện tầng phèn hoặc tầng sinh phèn mà phân chia đất phèn thành các loại khác nhau: nếu mép trên của tầng sinh phèn hoặc tầng phèn xuất hiện ở độ sâu từ 0-50 cm thì xếp vào đất phèn tiềm tàng nông Sp1 hoặc đất phèn hoạt động nông Sj1; nếu mép trên của 2 tầng này xuất hiên ở độ sâu 50-120 cm thì xếp vào đất phèn tiềm tàng sâu Sp2 hoặc đất phèn hoạt động sâu Sj2;  nếu 2 tầng trên xuất hiện sâu dưới 120 cm, ít ảnh hưởng tới cây trồng coi như đất không bị phèn.

- Nhóm đất phèn ĐBSCL có diện tích 1.600.263 ha chiếm 41,1%, trong đó:

+ Đất phèn tiềm tàng là 421.867 ha chiếm 10,72% đất ĐBSCL và 26,36% diện tích đất phèn.  Đất phèn tiềm tàng gồm 6 đơn vị đất sau:

Đất phèn tiềm tàng nông dưới rừng ngập mặn, ký hiệu Sp1Mm, diện tích134.897 ha phân bố chủ yếu ở Cà Mau, một ít ven biển Trà Vinh.

Đất phèn tiềm tàng sâu dưới rừng ngập mặn, ký hiệu Sp2Mm, diện tích 30.754 ha phân bố ở Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh...

Đất phèn tiềm tàng nông - mặn, ký hiêu Sp1M, diện tích 50.176 ha phân bố ở Cà Mau, Kiên Giang, Trà Vinh...

Đất phèn tiềm tàng sâu - mặn, ký hiệu Sp2M, diện tích 34.467 ha phân bố nhiều ở Kiên Giang, Cà Mau, ít ở Bến Tre, Trà Vinh.

Đất phèn tiềm tàng nông, ký hiệu Sp1, diện tích 54.960 ha phân bố ở Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp...

Đất phèn tiềm tàng sâu, ký hiệu Sp2, diện tích 116.613 ha phân bố ở Long An, Đồng Tháp...

+ Đất phèn hoạt động diện tích là 1.178.396 ha chiếm 30% đất ĐBSCL và chiếm 73,64% diện tích đất phèn. Đất phèn hoạt động gồm 4 đơn vị đất sau:

Đất phèn hoạt động nông - mặn, ký hiệu Sj1M, diện tích 118.460 ha, phân bố ở Kiên Giang, Cà Mau, Hậu Giang, Vĩnh Long.

Đất phèn hoạt động sâu - mặn, ký hiệu Sj2M, diện tích 324.770 ha, phân bố ở Kiên Giang, Cà Mau, Hậu Giang, Vĩnh Long...

Đất phèn hoạt động nông, ký hiệu Sj1, diện tích 192.081 ha, phân bố ở Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Tiền Giang, Hậu Giang.

Đất phèn hoạt động sâu, ký hiệu Sj2, diện tích 543.085 ha, phân bố ở Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Long An, Đồng Tháp.

- Nhóm đất phèn thường có hàm lượng hữu cơ khá cao, nhất là loại hình tích lũy hữu cơ có hàm lượng từ 5 - 15% ở tầng mặt và ít thay đổi ở các tầng dưới. Đạm tổng số 0,15 - 0, 5%; lân tổng số rất thấp, tầng mặt 0,031 - 0,071%, các tầng dưới 0,023 - 0,043%; kali tổng số 1,0 - 1,3%; lân dễ tiêu nghèo...

Đất phèn có chứa nhiều độc tố và rất chua, hàm lượng trung bình các độc tố của tầng phèn Bj như sau: Tầng phèn rõ pH H2O 2,87; SO3- 1,59%; SO2­­- 0,25%; Fe2+ +Fe 3+ 63,04 [mg/100g]; Al3+ 38,59 [mg/100g]. Tầng phèn chưa rõ: pH H2O 3,25; SO3 1,27%; SO2­­- 0,25%; Fe2+ +Fe 3+ 47,34 [mg/100g]; Al3+ 20,72 [mg/100g]. Đặc biệt phải chú ý đến các độc tố ở tầng đất mặt trên tầng phèn hoặc trên tầng sinh phèn. Thường lợi dụng mưa hoặc thủy lợi để rửa phèn, hạ phèn.

4.4. Nhóm đất phù sa

- Nhóm đất phù sa phân bố dọc hai bờ sông Tiền và sông Hậu. Diện tích là 1.184.857 ha, chiếm 30,4% diện tích đất ĐBSCL, có diện tích đứng vị trí thứ 2 sau đất phèn. Về cơ bản nhóm đất phù sa có địa hình cao hơn đất phèn và đất mặn. Đất phù sa nhiễm phèn và nhiễm mặn đã được xếp vào đất phèn và đất mặn.

- Tùy theo các quá trình  hình thành đất mà chia ra các đơn vị sau:

Đất phù sa được bồi, ký hiệu là Pb, diện tích 83.914 ha, các tinh Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang chiếm nhiều diện tích.

Đất phù sa không được bồi, ký hiệu P, diện tích 96.885 ha, các tinh Vĩnh Long, Đồng Tháp, Bến Tre, Càn Thơ, Hậu Giang có nhiều.

Đất phù sa không được bồi glây, ký hiệu Pg, diện tích 355.646 ha, các tỉnh đều có trừ Cà Mau, Bạc Liêu.

Đất phù sa không được bổi có tầng loang lổ, ký hiệu Pf, diện tích 648.412 ha, phân bố ở tất cả các tỉnh.

- Nhìn chung đất phù sa ĐBSCL có độ phì cao. Đất phù sa không được bồi có loang lổ chua hơn các đất khác trong nhóm. Lân tổng số thường trung bình hoặc nghèo, đất phù sa mới bồi đạt gần 1%. Đất phù sa glây và đất phù sa loang lổ chiếm diện tích lớn nhất trong nhóm đất phù sa và đang được thâm canh lúa, hàm lượng lân tổng số chưa đạt 0,05%, thể hiện thiếu lân.

4.5. Nhóm Đất than bùn lầy

Nhóm đất này có 1 đơn vị chú giải bản đồ đất là đất than bùn phèn, ký hiệu là TS, diện tích là 24.027 ha, chiếm 0,6% diện tích ĐBSCL. Đất này được hình thành trên các lòng sông cổ hay trầm tích đầm nội địa. Phân bố chủ yếu ở U minh và tứ giác Long Xuyên.

Đất có nhiều nơi trồng rau, sắn, khóm, dưa hấu. Than bùn còn đước sử dụng làm chất đốt, phân bón.

4.6.Nhóm Đất xám

- Bậc thềm phù sa cổ phía Campuchia và đông nam bộ xuống vùng ĐBSCL chỉ còn rải rác một ít diện tích. Do trầm tích phù sa cổ có hàm lượng cát thạch anh nhiều nên hình thành đất xám có thành phần cơ giới nhẹ. Và cũng do đến ĐBSCL địa hình thấp đi nhiều nên trầm tích đầm mặn đã chờm lên phù sa cổ, vì vậy đất xám và đất phèn xen kẽ. Diện tích nhóm đất xám 134.656 ha.

- Nhóm đất xám có 3 đơn vị chú giải:

Đất xám trên phù sa cổ, ký hiệu X, diện tích 84.845 ha, phân bố ở Long An, Đồng Tháp, một ít ở An Giang, Kiên Giang.

Đất xám đọng mùn trên phù sa cổ, ký hiệu Xg, diện tích 31.028 ha, có ở Long An, Đồng Tháp.

Đất xám trên sản phẩm phong hóa đá macma axit và đá cát, ký hiệu Xa, diện tích 18.783 ha, phân bố ở Thất sơn.

- Nhìn chung đất xám ĐBSCL nghèo dinh dưỡng toàn diện, đất chua, tổng cation trao đổi thấp, bão hòa bazơ thấp. Đất dễ canh tác, có điều kiện thâm canh đạt năng suất cao.

4.7. Nhóm Đất đỏ vàng

Có một đơn vị chú giải bản đồ đất là đất đỏ vàng trên sản phẩm của đá macma  axit, ký hiệu là Fa. Diện tích chỉ có 2.420 ha tập trung ở Thất sơn, đất dốc hơn 250 , có nhiều đá lộ đầu. Đất thích hợp cho trồng rừng.

4.8. Đất trơ sỏi đá

Có diện tích 8.787 ha, ký hiệu E, nằm ở Thất sơn, An Giang và các đồi núi rải rác ở Kiên Giang. Đá mẹ là granit hạt thô, đất bị xói mòn mãnh liệt, trơ đá mẹ, nhiều nơi gần  như đá hoàn toàn, nhiều nơi đang khai thác đá làm vật liệu xây dựng.

Các nghiên cứu gần đây của Võ Quang Minh, Lê Quang Trí...ĐHCT sẽ được đề cập  sau./.

Tài liệu tham khảo:1. Tôn Thất Chiểu..., Đất ĐBSCL, NxbNN, HN, 1991.

                               2. Các tài liệu Hội thảo chương trình 60.02.

                               3. Các tài liệu hội thảo về Quy hoạch Nông nghiệp 1978-1979.

Đỗ Văn Phú

Liên hiệp các Hội KH&KT Sóc răng

Video liên quan

Chủ Đề