Em có nhận xét gì về việc ra đời của nhà Trần lúc bấy giờ

Đây cũng là điều mà Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, khi trả lời vua Trần Anh Tông lúc vương sắp lâm chung về nguyên nhân chiến thắng của đất nước trước quân xâm lược nhà Nguyên hùng mạnh, đã nhấn mạnh: “Vua tôi cùng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức, giặc tự bị bắt, đó là trời xui nên vậy”. Đoàn kết, hòa thuận và giản dị, đó chính là những nét văn hóa đặc trưng của sinh hoạt trong triều đình nhà Trần.

Chất phác, giản dị

Nếu bỏ qua tục hôn nhân nội tộc, cận huyết, mà góc nhìn chung cho là loạn luân, thì trong mối quan hệ giữa vua với vương hầu và các quan, với dân của nhà Trần có rất nhiều nét độc đáo, khác biệt với tất cả các triều đại phong kiến khác ở Việt Nam.

Ảnh: L.G.

Ví dụ, gần như chúng ta không tìm thấy ở triều đại phong kiến nào khác có chuyện sau khi thiết triều thì tổ chức ăn uống ngay tại cung điện, rồi các vương hầu cùng ngủ với nhau. Thế mà vua Trần Thánh Tông từng bảo người tôn thất rằng: “Ta cùng các khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui, các khanh nên lấy câu nói ấy mà truyền cho con cháu để nhớ lâu đừng quên, thế là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc vậy”. Rồi vua xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, xong buổi chầu thì vào trong điện và lan đình, cùng nhau ăn uống; hoặc có khi trời tối không về thì đặt gối dài chăn rộng cùng ngủ liền giường với nhau, để tỏ hết lòng yêu nhau. Chỉ khi lễ lớn chầu mừng, tân khách, yến tiệc, mới phân biệt ngôi thứ cao thấp. Vì thế, các vương hầu bấy giờ không ai là không hòa thuận kính sợ, mà không có lỗi lệch vì sự nhờn mặt kiêu căng.

Có lẽ, trừ triều tiền Lê, khi phong tục thuần phác còn có những yến tiệc mở ven sông mà Vua Lê Hoàn vui vẻ ca hát, còn từ triều Lý về sau, ta không thấy cảnh tượng triều đình nào mà lúc liên hoan thì vua tôi cùng gõ chén ca hát, đến cả sử quan là Ngự sử trung tướng Trần Chu Phổ, người chịu trách nhiệm quan sát các hoạt động của vua và triều đình để ghi lại mà cũng cầm dùi gõ hát nghêu ngao “sử quan ca rằng, sử quan ca rằng...”.

Cũng chỉ ở thời Trần mới có chuyện nửa đêm chị vua, công chúa Thụy Bà có thể đến gấp gõ cửa điện vua để bày tỏ việc riêng, khi biết chuyện Trần Quốc Tuấn vào phòng công chúa Thiên Thành ngay trong phủ của Trung Thành vương.

Có triều đình nào mà vua đêm lang thang phố phường đi chơi, đến mức bị bọn vô lại ném cho vỡ đầu? Đó là Vua Trần Anh Tông, tính thích lẻn đi chơi đêm với hơn mười người thị vệ khiêng kiệu đi khắp trong kinh kỳ, đến gà gáy mới về cung. Lần đó đi đến quân phường, bọn vô lại ném gạch trúng đầu vua. Người theo hầu thét rằng: “Kiệu vua đấy!”, bọn đấy biết là vua, mới bỏ chạy. Đến khi Thượng hoàng Nhân Tông thấy đầu vua có vết thương, hỏi chuyện, vua cứ thực trả lời, Thượng hoàng giận nói hồi lâu.

Các thời đại sau, ta thấy chuyện các vương hầu, công tử nhà quyền quý cậy quyền làm càn làm bậy ngoài dân gian thì nhiều. Nhưng, ở triều Trần thì mới có chuyện bọn vương hầu quyền quý ra chợ đánh nhau với người dân hoặc ăn cướp để nhận là dũng cảm. Vũ Uy vương [con Vua Trần Thái Tông] cũng làm thế. Một hôm Vũ Uy vương đánh nhau tay không ở bến Đông, vua vi hành đi chơi trông thấy, hỏi rằng: “Người béo trắng ấy là ai, bắt lại đây để sai bảo”, khiến Vũ Uy vương nghe thấy chạy trốn.

Pháp luật thời Trần tuy chặt khi thi hành ngoài dân chúng nhưng vẫn lỏng với vương tôn, nên mới có chuyện một vị hoàng thân giữ trọng trách lớn [Hiển Hoàng Trần Liễu] chèo thuyền vào chầu mùa nước lụt, rồi hiếp dâm cung nữ triều trước ở trong cung. Thế mà nhà vua chỉ trách phạt nhẹ, lại cho đổi tên cung điện ấy thành cung Thưởng Xuân như một sự ủng hộ vậy.

Cũng chỉ ở triều Trần, ta mới thấy nhà vua công khai nhận con ngoài giá thú ngay trước dân chúng như Vua Trần Thái Tông nhận Trần Bà Liệt trong cuộc đấu vật.

Gần dân

Cũng hiếm có triều đại nào mà vua cất công ra xem chữa cháy ở ngoài khu nhà dân, như Vua Trần Thái Tông. Nhà vua còn bỏ công tìm hiểu xem người nào đến chữa cháy trước, người nào đến sau.

Ta cũng không đọc được chuyện có triều đại nào mà khi đám ma vua, dân chúng tràn hết cả vào cung điện để xem di quan, khiến tể tướng đích thân cầm roi dẹp cũng không được, tướng quân phải cho quân lính sang chỗ khác hát bài đưa ma để thu hút dân chúng sang xem, mới di quan được. Đó là chuyện khi Trần Nhân Tông qua đời, linh cữu tạm quàn ở điện Diên Hiền, khi sắp phát dẫn, đã đến giờ rồi mà quan liêu dân chúng đứng đầy khắp cung điện, tể tướng cầm roi xua đuổi, cũng không thể giãn ra được. Vua phải cho gọi Chi hậu chánh chưởng Trịnh Trọng Từ đến bảo tìm cách. Trọng Tử mới gọi các quân mình trông coi là quân Hải khẩu và quân Hổ dực đến thềm Thiên Trì, ngồi la liệt ở thềm, hát mấy câu Long ngâm, mọi người kéo sang xem, cung điện mới giãn người, mới rước quan tài về lăng Quy Đức được.

Viết về chuyện này, Ngô Sĩ Liên bình luận: Triều đình cốt phải nghiêm, khi linh cữu phát dẫn, cần gì phải đến tể tướng đi dẹp người và hữu ti phải dùng mưu kế mới di quan ra được? Là bởi nhà Trần khoan hậu thì có thừa mà về nghiêm trọng thì không đủ.

Có triều đình nào mà khi quyết vấn đề quan trọng của đất nước lại tổ chức mời các bô lão về kinh họp, hỏi ý kiến? Đó là sự kiện tháng 12-1284, Thượng hoàng cho gọi các phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, cho ăn và hỏi kế sách đánh giặc. Các phụ lão đều nói là nên đánh, muôn người cùng lời như một. Ngô Sĩ Liên bàn rằng: “Giặc Nguyên xâm lấn là tai nạn lớn của nước, hai vua hiệp mưu, bầy tôi họp bàn, há không có kế sách gì chống giặc mà phải ban yến hỏi kế các phụ lão ư? Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng yêu nước của nhân dân và để nhân dân nghe lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó là giữ ý người xưa nuôi người già mà xin lời hay vậy”.

Cũng chỉ ở triều Trần mới có chuyện mỗi khi vua ra đường gặp gia đồng của các vương hầu thì “gọi rõ tên mà hỏi và dặn vệ sĩ không được thét đuổi”, như vua Trần Nhân Tông, vì cảm tình với bọn họ luôn phò giúp khi có giặc.

Hòa thuận

Chuyện anh em, họ hàng trong hoàng tộc nhà Trần hòa thuận, thân ái ở trên cũng đã đề cập. Nhưng, còn nhiều chi tiết khác thể hiện cái văn hóa giao tiếp đặc biệt của triều đại này. Điển hình như chuyện Trần Quang Khải và Trần Quốc Tuấn vì có thù nhà [vụ Trần Thái Tông cướp vợ của Trần Liễu], trước vốn không ưa nhau nhưng sau đó Quang Khải vẫn xuống thuyền đánh cờ với Quốc Tuấn cả ngày mới về, Quốc Tuấn lại đích thân lấy nước thơm tắm cho Quang Khải, từ đấy, vui chơi với nhau, tình thân càng mặn.

Hay như vụ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư thông dâm với công chúa Thiên Thụy, là vợ Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con dâu Hưng Đạo vương. Vua sợ phật ý Hưng Đạo vương, đã sai đánh chết Khánh Dư nhưng lại hạ lệnh chúc đầu gông đánh để cho sống, rồi đuổi về Chí Linh làm nghề bán than. Đến khi quân Nguyên sang xâm lược, sau hội nghị Bình Than, vua Trần thấy Trần Khánh Dư chèo thuyền qua, lại cho gọi đến, phong làm phó tướng dưới quyền Hưng Đạo vương. Trần Khánh Dư chỉ huy quân dân ở vùng cửa biển, có công đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ khiến quân Nguyên nhanh chóng thất bại trong lần xâm lược thứ ba. Đến khi Hưng Đạo vương soạn cuốn “Vạn kiếp tông bí truyền thư”, rõ ràng những hiềm khích trước đó đều được Hưng Đạo vương xóa bỏ hết.

Chế độ nhà Trần cho các vương hầu lập thái ấp ở địa phương, tự xây dựng hương binh cũng được đời sau nhận là có lợi khi chiến tranh. Đó là khi giặc đến, triều đình kêu gọi thì các vương hầu đem người nhà và hương binh làm quân giúp vua. Khi triều đình có biến loạn, như lúc Dương Nhật Lễ muốn đổi sang họ Dương, các vương hầu đem người trong thôn trang đánh đuổi quân triều đình, đưa Vua Nghệ Tông lên ngôi, cũng là làm cho thế nước vững mạnh.

Không chỉ đoàn kết các vương hầu tôn thất cùng họ, các vua Trần cũng nỗ lực gắn kết những bề tôi, thuộc hạ quanh mình. Thế nên Hành khiển Trần Khắc Chung mới giao du với khắp hạng quan lại. Vua Trần Nhân Tông cũng từng bảo Tả phụ Lê Tòng Giáo giao hảo với Hàn lâm phụng chỉ Đinh Củng Viên, việc này được Ngô Sĩ Liên khen là thể hiện sự trung hậu của nhà Trần nhưng có nguy cơ gây ra mối tệ là bề tôi tư giao với nhau.

Sự hòa thuận giữa anh em, giữa bề tôi cũng là nhờ các vua Trần luôn giữ lượng khoan dung. Như khi có viên Tiểu hiệu là Hoàng Cự Đà buông lời trách cứ về chuyện mình không được ăn muỗm khi chia thưởng, Vua Trần Thánh Tông muốn đem giết nhưng Thượng hoàng Trần Thái Tông tự nhận là do lỗi của mình chia quà không đều, cho hắn đi đánh giặc để chuộc tội. Khi quân giặc đến, nhiều bậc tôn thất, quan lại từng gửi thư xin hàng giặc, đến khi giặc tan, dù bắt được cả hòm thư, Vua Trần Thánh Tông cho đem đốt hết để yên lòng những người từng lung lay tinh thần dưới sức mạnh của quân giặc.

Mặc dù vậy, sự bao dung này đã dẫn đến một chuyện đặc biệt trong lịch sử nước ta là ở triều Trần, số vương tôn hàng giặc, mong được làm vua rất nhiều, từ Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Trần Di Ái, Trần Lộng, rồi con cháu, thuộc hạ của họ nữa...

Nói gì thì nói, sự đoàn kết, hòa thuận và khoan dung là những vũ khí đặc biệt giúp nhà Trần 3 lần liên tiếp đánh bại quân Nguyên Mông hùng mạnh.

Lê Tiên Long

09:04, 27/06/2021

Triều đại nhà Lý bắt đầu từ năm 1010, khi Thái tổ Lý Công Uẩn được tôn lên ngôi vua và dời đô từ Hoa Lư [Ninh Bình] về Thăng Long. Đó là giai đoạn đất nước phát triển mạnh mẽ, mở đầu thời kỳ thế nước vươn cao, lòng dân đồng thuận đánh bại cuộc xâm lăng lần thứ hai của nhà Đại Tống.

Thế nhưng những năm tháng cuối cùng của thời nhà Lý lại là những bức tranh u ám đối lập hoàn toàn với thuở sơ khai. Những vị vua sau tài hèn đức mọn, đặc biệt Lý Cao Tông hoang chơi sa đọa, con trai Thái tử Lý Hạo Sảm u tối, nhu nhược. Đất nước Đại Việt bấy giờ lâm vào tình cảnh rối ren, vua Lý Cao Tông còn đang loay hoay không tìm ra lối thoát để đối phó sự nổi loạn của Quách Bốc [giặc nổi dậy]. Cuộc chiến giữa các sứ quân, hào trưởng địa phương ngày càng hỗn loạn và nhà Lý không còn khả năng trấn áp. Cuối cùng Lý Cao Tông bỏ kinh thành Thăng Long chạy trốn về Thiên Trường trú nhờ nhà dân làm nghề đánh cá. Trong thời gian này thái tử Sảm [con vua Cao Tông] lấy cô gái họ Trần [Trần Thị Dung] người vùng này làm vợ. Từ đó, anh em họ Trần chiêu mộ binh sĩ giúp Thái tử Sảm về kinh trừng trị bọn Quách Bốc, đón vua cha Lý Cao Tông về lại kinh thành, ông làm vua thêm một năm thì lâm bệnh rồi băng hà ở tuổi 38.

Vì sao Lý Chiêu Hoàng không được thờ trong tôn miếu nhà Lý?

Trong 9 vị vua nhà Lý, 8 vị được thờ tại đền Đô ở phía đông làng Cổ Pháp [nay là đền Lý Bát Đế thuộc khu phố Thượng, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh] để ngày ngày đón hào quang bình minh; còn vua Lý Chiêu Hoàng thờ tại đền Rồng ở phía tây để hoàng hôn rọi vào rồi nhạt dần dành cho màn đêm buông xuống, bóng tối bao phủ ngôi đền ảm đạm như mang theo nỗi u uẩn số phận của một nữ vương. Có nhiều ý kiến khác nhau nhưng phần lớn cho rằng vì vua bà đã để mất ngôi nhà Lý, là mang tội với dòng họ, vì vậy không được thừa nhận và phải thờ riêng; cũng có ý kiến, do bà đã đi lấy chồng nên thuộc tôn thất nhà Trần, không được thờ chung với các bậc tiên vương. Tuy là một vị vua chính thức của vương triều nhà Lý nhưng Lý Chiêu Hoàng đã không được sử sách công nhận một cách công bằng.

Ngược dòng lịch sử, năm 1211 Thái tử Lý Hạo Sảm kế vị ngôi vua, lấy hiệu Huệ Tông. Bấy giờ các thế lực chống đối nổi lên như ong vỡ tổ, đói kém triền miên năm này qua năm khác; nói chung cơ nghiệp mà Lý Huệ Tông kế thừa từ vua cha là một vương triều đang lâm vào thời kỳ suy thoái.

Huệ Tông lúc 15 tuổi làm vua, quản triều chính mà tài đức thì kém cỏi, tính tình lại nhu nhược, u mê. Tháng 12-1216, Trần Thị Dung được phong làm Hoàng hậu. Kể từ đó, anh em, thân thuộc họ Trần chiếm hết các chức văn võ quan trọng trong triều. Trần Tự Khánh làm Phụ chính Thái úy, Trần Thừa làm Nội thị Phán thủ, họ là các anh trai của Hoàng hậu; chưa kể còn người em họ Trần Thủ Độ và hơn 500 anh em dòng tộc Trần nắm giữ những công việc quan trọng khác.

Lý Huệ Tông do không có con trai nên lập Chiêu Thánh công chúa Lý Chiêu Hoàng lên làm Thái tử và truyền ngôi báu, Lý Chiêu Hoàng tại vị ngai vàng được hai năm rồi nhường ngôi lại cho chồng là Trần Cảnh [tức Trần Thái Tông mở đầu cho vương triều Trần].

Trần Cảnh không được hậu thế gọi là Trần Thái Tổ

Triều đại nhà Trần cũng giống như nhà Lý, nhà Lê, nhà Nguyễn… nhưng sao Trần Cảnh không phải là Trần Thái Tổ? Thời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo được xem là quốc đạo, vì vậy các vua thường nắm triều chính vài năm thì nhường lại cho con để vào các chùa tu hành, phụng chức Thái Thượng hoàng, đồng thời “tu nhân tích đức” cho đời sau. Năm 1224, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, vua Lý Huệ Tông chính thức nhường ngôi cho con gái là Chiêu thánh công chúa, tức Lý Chiêu Hoàng lúc này mới 6 tuổi, và ông vào chùa Chân Giáo tu hành.

Từ khi lên làm vua, Lý Chiêu Hoàng đau ốm triền miên, kéo dài hơn sáu tháng, gầy còm, xanh xao, kém ăn, mất ngủ, nhiều lang y tài giỏi trong nước được triệu vào cung bốc thuốc, tìm bệnh, chữa bệnh nhưng không hiệu quả. Lúc này Nội thị Phán thủ Trần Thừa có cậu con trai tên Trần Cảnh cũng tầm tuổi vua, lại có dáng vẻ khôi ngô. Trần Thủ Độ bày mưu cùng Trần Thừa đưa Trần Cảnh vào cung làm Chính thủ phục vụ vua nữ. Từ ngày đưa Trần Cảnh vào triều, hai đứa bé rất hợp nhau, bệnh vua thuyên giảm dần… Sách Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết: “Một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy cái khăn trầu ném cho Trần Cảnh. Trần Cảnh lạy, nhận lấy, rồi mách với Thủ Độ. Thủ Độ liền đem gia thuộc và họ hàng vào trong cung cấm, sai đóng các cửa thành lại. Trăm quan tiến triều không vào được. Thủ Độ nhân thế, loan báo cho mọi người: "Bệ hạ đã có chồng rồi!". Các quan đều vâng lời và xin chọn ngày vào hầu để làm lễ yết kiến”.

Dưới sự “đạo diễn” của Trần Thủ Độ, vở kịch chuyển giao ngôi vị từ họ Lý sang họ Trần kết thúc vào ngày 11 tháng Chạp năm Ất Dậu [1225], tại điện Thiên An, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu “nhường ngôi cho chồng”. Trần Cảnh mở đầu cho vương triều Trần nhưng hậu thế không gọi là Trần Thái Tổ bởi vì đây là sự sắp đặt của ba người lớn nắm quyền lực của họ Trần là Trần Thừa, Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung. Việc Trần Cảnh được họ Lý nhường ngôi lên làm vua lấy hiệu là Thái Tông thì theo lẽ cha Trần Cảnh là Trần Thừa, dù chưa làm vua giây phút nào vẫn được tôn lên làm Thượng hoàng. Trần Thừa sinh năm 1184 ở làng Tức Mạc, là con trưởng của Trần Lý [sau này giúp Lý Cao Tông dẹp loạn mà chết], là anh của dũng lược tướng quân Thái úy Trần Tự Khánh, Hoàng hậu Trần Thị Dung, anh họ Thái sư Trần Thủ Độ. Trần Thừa từ nhỏ đã theo cha và cậu đem quân về kinh dẹp giặc giúp vua Lý, sau lại cùng em là Trần Tự Khánh lập nhiều công lao đánh tan dư đảng giặc ngoài cõi nên được Lý Huệ Tông phong làm quan. Khi Trần Cảnh lên ngôi, Trần Thừa được tôn là Thượng hoàng trông coi việc nước. Trong chín năm ở ngôi Thượng hoàng, ông dung hòa mọi mâu thuẫn với các bậc cựu thần thời Lý để củng cố vương triều, tái thiết đất nước.

Có thể chưa nói hết những công lao của Trần Thừa với triều Trần, với dân tộc; nhưng với những việc kể trên chứng tỏ ông là người có tầm nhìn, góp công lớn trong buổi đầu khai nghiệp. Ông mất năm Giáp Ngọ [1234], hưởng dương 51 tuổi. Sau khi ông mất 12 năm, được truy tôn làm Thái Tổ nhà Trần [tức Trần Thái Tổ].

Võ Hữu Lộc

Video liên quan

Chủ Đề