Fansipan nghĩa là gì

Để chuẩn bị cho chuyến đi, ngoài việc đợi một ngày thời tiết thuận lợi, cả tháng trước đó tôi mướt mồ hôi tập chạy. Chạy và chạy.

Theo lời khuyên của ông Trần Ngọc Lâm [người dẫn đường cho tôi  - nhân vật từng giúp Sa Pa mở đường lên đỉnh Phanxipăng và từng sống một mình 3 tháng để chữa ung thư trên cổng trời cao ngất ấy], mỗi ngày tôi phải chạy 15 phút trở lên, chỉ chạy bằng mười đầu ngón chân, như lối các võ sĩ Tàu luyện khinh công, nhằm tránh cảm giác “đôi bàn chân như muốn gẫy lìa ra” khi tiếp cận các dốc đứng trên triền núi.

 

 Nhà báo Lê Hồng Quân trên "nóc nhà" Đông Dương.

Trước khi khoác lên vai chiếc ba lô trĩu nặng túi ngủ, áo rét, lương khô cùng một ít đồ uống bằng thảo dược, tôi vẫn khá mơ hồ về Phanxipăng.

Những góp nhặt từ sách giáo khoa môn địa lý chỉ cho tôi vài con số, rằng, nước ta có 3/4 diện tích đất đai là đồi núi và cao nguyên, trong đó, chiếm đến 85% là đồi núi thấp, núi có độ cao trên 2.000 m chỉ có 1%. Các ngọn núi như Bạch Mộc Lương Tử [2.998 m], Phu Luông [2.985 m], Pu Lai Leng [2.711m]... đều rất hùng vĩ, nhưng vượt qua ngưỡng cao 3.000 m thì cả nước ta chỉ vẻn vẹn có... 3 ngọn và Phanxipăng là đỉnh cao nhất của ba đỉnh cao đó.

 

 Một bức tranh thủy mặc

Phanxipăng là khối hoa cương đột khởi từ dãy Hoàng Liên Sơn, với chiều cao 3.143m là ngọn núi cao nhất của cả ba nước Đông Dương. Đó là xét một cách thuần túy theo chiều cao hình học, so với mực nước biển. Nếu xét theo “chiều cao” của đời sống văn hóa, tâm linh thì dân gian luôn cho rằng: Nhất cao là núi Tản Viên/ Nhất xanh là sắc thần tiên Ba Vì..., vì núi thiêng Tản Viên [1.287 m] là nơi tụ linh khí của nước Nam, nơi thần tiên ở; còn danh sơn Yên Tử [1.068 m], nơi khởi phát của Thiền phái Trúc Lâm, luôn được coi là nơi giao hòa của trời đất. Người Trung Quốc cũng coi núi Thái Sơn, nơi các triều đại phong kiến đặt đàn tế trời đất là cao nhất, chứ không phải độ cao vô địch thiên hạ 8.848 m của đỉnh Everest.

Không hiểu ngày trước, lên Phanxipăng, Nguyễn Tuân có thấy chiếc chóp nào khác không, khi ông cho rằng, Phanxipăng cao 3.142 m.

Theo hồi ức của nhà văn Tô Hoài, vào năm 1964, đôi đầu gối lão luyện giang hồ của Nguyễn Tuân đã chinh phục đỉnh Phanxipăng, khi đi theo một đoàn cán bộ nghề rừng.

Thư gửi cho Tô Hoài, Nguyễn Tuân viết: “Hoài. Mình leo Hoàng Liên Sơn cả lên cả xuống mất 5 ngày. Người đang mệt và đau gối rất đau. Mình ở trên đỉnh cao nhất, được thấy hoa Đỗ Quyên nở rất đẹp. Đỗ Quyên màu hồng điều, cánh sen vàng nở giữa rừng trúc phất trần. Trong đời mình, trong mọi mùa xuân, mình chưa bao giờ thấy mây và hoa nhiều đến thế. Lên đây lạnh, mưa gió như bão, túi luôn phải có chai rượu mạnh để chống khí núi. Hết 2/3 lạng cao hổ cốt rồi. Nguyễn Tuân”..

Ngọn cao thứ hai là Phu Ta Leng [3.096m] cũng nằm trên dãy Hoàng Liên Sơn, ở phía Tây Bắc đỉnh Phanxipăng. Đỉnh núi này dường như không có lối lên, cực kỳ hoang vu, hiểm trở, từ lâu vắng dấu chân người [nhưng không hiểu vì sao và tự bao giờ mà chót vót đỉnh núi lại có một bàn cờ tướng rất lớn vạch sâu trên đá đầy rêu phong cổ kính]. Cao thứ ba là ngọn Pu Si Lung [3.076m] nằm ở Tây Bắc tỉnh Lai Châu, giữa sông Đà và sông Nậm Na, sát biên giới Việt - Trung.

Có nhiều cách giải thích về tên gọi của Phanxipăng, nhưng dường như đây vẫn là một bí mật chưa hoàn toàn được khám phá. Cách hiểu phổ biến nhất vẫn lưu truyền đến nay là dựa theo trang web của địa phương: Tên của Phanxipăng được gọi theo hình dáng của núi, do đọc trại đi từ chữ “Hủa xi pan”, theo tiếng Quan thoại nghĩa là “tảng đá khổng lồ chênh vênh”. Các tài liệu khác cơ bản đều trích dẫn nguyên từ nguồn này và không bình luận gì thêm, nên điều này nghiễm nhiên được thừa nhận [!].

 Hoa đỗ quyên bên đường

Mãi gần đây, năm 2005, mới có người rụt rè đưa ra ý kiến: Phanxipăng theo tiếng Mông nghĩa là “Núi Đỗ quyên”, vì núi này là xứ sở của hoa đỗ quyên, có tới 4 chi và hàng chục loài, quanh năm khoe sắc nhưng thường nở bạt ngàn vào mùa xuân. Điều này không hẳn đã vô lý, vì dãy Hoàng Liên Sơn, nền tảng của Phanxipăng, chẳng phải đã được đặt theo tên một loài cây thuốc đặc hữu của núi là Hoàng Liên đó sao?

Trong những ngày lang thang trên đỉnh Phanxipăng, người đồng hành của tôi lại quả quyết với cách lý giải khác, chưa từng thấy công bố chính thức ở tài liệu nào.

Dẫn lời những khách du lịch người Pháp từng là lính viễn chinh đồn trú ở Sa Pa những năm đầu thế kỷ trước, ông Trần Ngọc Lâm cho rằng: Phanxipăng thực chất là “Phan Văn Sơn”,  tên một viên quan địa lý của nhà Nguyễn, năm 1905 đã cùng người Pháp đi vẽ bản đồ, phân định biên giới nước ta với nhà Thanh [Trung Quốc].

 

 Hoa phong lan nở bạt ngàn bên đường

Phan Văn Sơn dẫn đầu một đoàn dân phu leo lên tận đỉnh núi, dùng máy móc, kỹ thuật của người Pháp đo độ cao Phanxipăng và hầu khắp các núi cao trên 2.000 m của Hoàng Liên Sơn. Người Pháp tôn trọng dấu chân đầu tiên của ông nên gọi đỉnh núi cao nhất dãy Hoàng Liên Sơn là Phan Văn Sơn. Do cách phát âm tiếng Pháp của người Mông, người Dao, người Kinh không chuẩn, lâu dần “Phan Văn Sơn” trại đi mà thành “Phan Xi Pan” hay “Phanxipăng” như ngày nay. Cũng với cách hiểu đó, Sa Pa là do đọc trại đi từ “De Chapa”, tên viên đại úy Pháp đã chiếm được vùng đất này hồi đầu thế kỷ trước.

Chúng tôi đi theo con đường từ sát đỉnh đèo núi Xẻ như đại đa số khách du lịch khác. Con đường này do ông Lâm có công khôi phục từ con đường bị lãng quên từ thời Pháp thuộc, “chỉ” hơn 12 km đồi núi, ngắn và thuận tiện hơn nhiều so với những con đường còn lại. Trong sương mù và sau các ngọn núi lớn, Phanxipăng lúc ẩn lúc hiện, như thách thức, như chào gọi, thôi thúc bước chân khám phá.

 

 Bậc tam cấp bằng các rễ cây cổ thụ

Miệt mài bước trên lối mòn mà chỉ mới dăm bảy năm trước đây còn chưa ai nhớ đến, nay đã thành con đường nhỏ, lại có các biển chỉ dẫn khiến du khách không thể lạc lối. Khi mở con đường này, ông Lâm từng phải ăn rau dại cả tuần vì hết gạo. Có lẽ do đã quá nhiều năm lủi thủi một mình trong thâm sơn cùng cốc, ông Lâm đặc biệt cẩn thận, lo lắng... cho tôi.

Đề phòng chúng tôi có thể lạc nhau giữa rừng, ông dặn: “Nhìn các ngọn trúc kìa, chúng đều ngả hết về hướng Đông đón ánh mặt trời, là hướng về Sa Pa đó. Lạc sang hướng Lai Châu thì toàn rừng nguyên sinh cả, cây cối chằng chịt không có lối đi đâu”. Ông Lâm còn chỉ cho tôi nhiều loại hoa, quả, lá cây và dây leo có thể ăn, uống được, thứ rôn rốt chua, thứ thơm phức ngọt ngào, thứ giòn tan mát dịu..., “phòng khi đã ăn hết lương khô mà vẫn chưa tìm được lối về”.

Kỳ sau: Sống nương dưới bóng đại hùng sơn

Lê Hồng Quân

kimvan

Gió vẫn cứ ràn rạt thổi từ sống lưng Ô Quy Hồ, thốc thẳng vào căn lều ọp ẹp nằm lưng chừng đại ngàn Hoàng Liên. Trịnh Văn Hà – gã kỹ sư trắc đạc khẽ rùng mình, chăm chắm nhìn lên nóc chiếc lều lợp tạm bằng trúc núi. Đã hơn 1 tháng, anh vẫn chưa thể quen với thời tiết đỏng đảnh và khắc nghiệt tại Fansipan.

Dòng ký ức về những ngày đầu tiên vạch núi, mở đường định vị tuyến cáp treo Fansipan 5 năm về trước trong một phút chốc khiến người đàn ông rắn rỏi trước mắt chúng tôi bần thần. Anh bảo: Với anh và rất nhiều cán bộ, kỹ sư từng ăn rừng, ngủ núi nhằm dựng lên tuyến cáp 3 dây kỳ vĩ ngày ấy, Fansipan còn lớn hơn cả một giấc mơ hoang đường.

Giấc mơ chạm đỉnh Hủa Xi Pan

Fansipan, trong tiếng bản địa còn có một tên gọi khác là Hủa Xi Pan, nghĩa là phiến đá khổng lồ chênh vênh. Theo tư liệu của Viện địa chất Việt Nam, toàn bộ đỉnh núi anh cả của Đông Dương là một khối đá hoa cương kỳ vĩ đột khởi từ sâu trong lòng đất hơn 250 triệu năm về trước. Đây cũng là dãy núi có địa hình phức tạp bậc nhất Tây Bắc, nên việc chinh phục Fansipan chưa bao giờ là chuyện dễ.

Đỉnh Fansipan kỳ vỹ là giấc mơ chinh phục của biết bao người.

Năm 1964, trong bức thư gửi Tô Hoài từ Fansipan, nhà văn Nguyễn Tuân có viết: “Hoài. Mình leo Hoàng Liên Sơn cả lên cả xuống mất 5 ngày. Người đang mệt và đầu gối rất đau. Mình ở trên đỉnh cao nhất được thấy hoa Đỗ quyên nở rất đẹp…Trong đời mình, trong mọi mùa xuân, mình chưa bao giờ thấy mây và hoa nhiều đến thế. Lên đây lạnh, mưa gió như bão, túi luôn phải có chai rượu mạnh để chống khí núi…”

Phải một năm sau đó nữa, đoàn công tác chính thức để đo đạc, khảo sát mới được thành lập. Cũng kể từ đây, lối mòn dẫn lên điểm cao nhất của 3 nước Đông Dương dần được phát lộ. Thời gian lên đỉnh cũng rút ngắn dần.

Anh Lê Hồng Quang [phải], một trong những người “khai sinh” đỉnh chóp kim loại trên Fansipan.

Lê Hồng Quang – một phượt thủ kỳ cựu cũng đồng thời là người đã “khai sinh” ra đỉnh chóp kim loại trên đỉnh Fansipan lắc đầu quầy quậy mỗi lần nhắc lại hành trình đã đi qua. Anh bảo cực nhất là những lúc gặp mưa. Nước từ trên những tán rừng lớn đổ ồng ộc xuống phía dưới khiến cho con đường vốn đã ẩm ướt hàng ngày trở nên trơn tuột. Gió Ô Quy Hồ từ sườn Lai Châu cũng ào ạt lùa về, tạt thẳng vào mặt những gã trai đã ướt đầm và đang run lập cập. Rất nhiều người đã buộc phải bỏ cuộc giữa chừng vì không thể chịu được hành trình kéo dài 3-4 ngày đêm như thế.

“Cuộc chơi” với nóc nhà Đông Dương khi đó chắc chắn chỉ dành riêng cho những gã có đủ máu liều, đủ đam mê và cả ý chí lẫn sức bền phi thường. Tuyệt nhiên chẳng ai dám nghĩ tới viễn cảnh xa xôi rằng có một ngày bất cứ ai đều sẽ có thể chạm tay vào cột mốc đánh dấu độ cao 3.143m.

Gian nan vẽ… đường bay trên thung lũng Mường Hoa

Giấc mơ chinh phục Fansipan dành cho số đông cứ thế ngủ vùi cho tới cuối năm 2013, khi công trình xây dựng cáp treo Fansipan chính thức được khởi công. Từ khắp nơi, hàng trăm cán bộ, kỹ sư và công nhân của Sun Group mang theo ý chí, quyết tâm cao độ trong nỗ lực “không tưởng” để kéo một con đường riêng nối thẳng từ thị trấn Sa Pa lên đỉnh trời.

Những người Sun Group khai mở khảo sát đường lên đỉnh Fansipan.

Ngay khi dự án được khởi động, cựu porter tour Má A Tông bản Sa Pả đã xin vào Công ty TNHH Dịch vụ Du lịch cáp treo Fansipan Sa Pa. Vốn tưởng kinh nghiệm đi rừng dày dặn trước kia sẽ giúp cho cậu trai người Mông dễ thở hơn khi làm việc, thế nhưng, thực tế lại hoàn toàn khác.

Nếu như trước đây, Tông chỉ dẫn đoàn men theo đường Trạm Tôn để lên đỉnh thì thử thách lần này dành cho cậu lại khó hơn gấp nhiều lần. Tuyến thi công cáp nằm vắt thẳng vào sâu trong lõi đại ngàn cộng với chủ trương phải giữ rừng bằng mọi giá từ chủ đầu tư buộc toàn bộ quá trình vận chuyển, lắp đặt đều phải thực hiện bằng sức người.

“Bữa đầu tiên nhận việc, tôi được giao vác một bao xi măng từ chân núi lên điểm xây T3 [độ cao 1.800m]. Lên đến nơi thì cũng kiệt sức”, Tông nhớ lại.

Thi công cáp treo Fansipan.

Lúc này, hành trình đã không còn được tính bằng cây số nữa mà bằng cách đếm số con dốc và trảng rừng đã leo qua. Lối đi chằng chịt cây rừng níu chặt lấy chân người. Dốc nối dốc toàn những đoạn đá dựng đứng như sống lưng ngựa chồm lên, chỉ cần xảy chân đã có thể bị trượt dài xuống phía dưới cả chục mét. Để di chuyển qua vực sâu, các kỹ sư, công nhân phải tự đóng thang bằng cây rừng hoặc buộc dây vào các gốc cây cổ thụ rồi đu mình vượt núi. Chuyện người bị lạc trong “trận đồ bát quái” rừng Hoàng Liên cũng không phải hiếm.

Đi đã khổ một, ăn ở tại Fansipan giai đoạn 2013-2016 còn khổ gấp trăm lần. Do đặc thù công việc, hầu hết thời gian của những người xây cáp như Má A Tông hay Trịnh Văn Hà… đều phải lưu trú trong rừng sâu. Những “phòng ở” di động được họ dựng lên chỉ bằng tre nứa uốn cong thành mái vòm, phía trên được phủ sơ sài bởi lá cây và bạt dứa. Gặp những ngày gió lớn hay mưa tuyết đổ về, căn phòng đơn sơ ấy cũng oằn mình, phập phồng chờ sập. Những lần băng tuyết ghé thăm thì phải mất mấy ngày đồ tiếp tế mới tới nơi. Đến lúc mở ra, cá khô, thịt thà đã chảy nước, bốc mùi không sử dụng được. Thậm chí, trong nhiều giai đoạn, anh em trong rừng chỉ còn biết chia nhau vài gói mỳ tôm cầm hơi hoặc ăn tạm rau rừng để có sức tiếp tục làm việc.

Những người xây cáp nghỉ đêm trong những căn lều bạt thô sơ trên đỉnh Fansipan.

Từng ấy thứ khắc vào ký ức những người ôm giấc mơ vẽ đường bay lên đỉnh trời một ấn tượng chẳng thể nào phai nhạt. Nhưng cũng không vì thế mà ý chí sắt đá của những người Fansipan bị mài mòn. Đầu năm 2016, tuyến cáp kỳ vĩ dài hơn 7km đã chính thức được đưa vào vận hành, quãng đường di chuyển từ Sa Pa lên nóc nhà Đông Dương giờ chỉ còn 15 phút. Mồ hôi, nước mắt, máu và cả thanh xuân của những người Sun Group khai mở đã cho quả ngọt khi một huyền thoại mới mang tên Fansipan đã chính thức bắt đầu….

Vẻ đẹp kỳ vỹ của đỉnh Fansipan.

5 năm đã qua đi kể từ ngày đó. Sa Pa từ một vùng đất đang “ngủ quên” nay đã thôi không còn lặng lẽ. Và Fansipan thậm chí còn vươn mình trở thành “viên ngọc quý” của du lịch Việt Nam khi lần lượt chinh phục những giải thưởng danh giá như "Điểm đến du lịch văn hoá hàng đầu thế giới" [2019, 2020], "Điểm du lịch có thắng cảnh thiên nhiên hấp dẫn hàng đầu thế giới” [2020] do World Travel Awards trao tặng. Còn riêng với những người như A Tông, anh Trịnh Văn Hà…, phần thưởng lớn nhất là được quay trở lại “trận địa xưa”, chứng kiến những nụ cười viên mãn của hàng nghìn du khách trên đỉnh Fansipan mỗi ngày.

PV

Video liên quan

Chủ Đề