Giáo dục đại học la hàng hóa công cộng
1. NHỮNG KHOẢNG CÁCH GIỮA QUAN NIỆM VÀ THỰC TIỄN, GIỮA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI Trong quan niệm và trong một số văn bản chính thức của Việt Nam hiện nay là: “Cấm mọi hành vi thương mại hóa (TMH) hoạt động giáo dục (GD)”. Nhóm từ TMH ở đây có thể hiểu nôm na là làm cho hoạt động GD trở thành một dịch vụ có thể trao đổi, mua bán được. Trong kinh tế chính trị người ta gọi, “Hàng hóa (HH) (*) là sản phẩm lao động dùng để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi” (trong đó có mua bán chứ không nhất thiết là mua bán). Rõ ràng, dịch vụ GD là một “sản phẩm lao động”, có thể “dùng để thỏa mãn nhu cầu của con người. Vậy, nếu nó được “đi vào quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi” thì nó sẽ là một HH. Từ đó có thể nói rằng, bản chất của “Cấm mọi hành vi TMH” là cấm trao đổi (mua bán) dịch vụ GD/ không được xem dịch vụ GD là một loại HH. 2. DỊCH VỤ GDĐH CÓ LÀ MỘT LOẠI HÀNG HÓA? (b) Thứ hai, GD Việt Nam “cung” còn thấp hơn “cầu” rất nhiều. Ở GDĐH, chỉ mới có khoảng 20 em đỗ vào ĐH hàng năm so với 100 em muốn vào học ĐH. Nghĩa là, một trường ĐH dù chất lượng như thế nào đi nữa thì vẫn có đủ “khách hàng”, nghĩa là không cần “cạnh tranh”, còn “độc quyền”. Do đó các trường ĐH không cần “hướng đến khách hàng” (customers-oriented) và dễ tạo ra những “sản phẩm” có chất lượng không thích hợp, không cần quan tâm đến quan hệ “chất lượng” và “hiệu quả” (tài chính)(1). Mặt khác, việc xin giấy phép mở trường trong bối cảnh đó còn có nghĩa là xin “Quyền được độc quyền” (2). (c) Sau nữa, thực trạng đó đã tạo ra cảm giác là “phép nước không nghiêm” và làm mất lòng tin của xã hội đối với GD. Mặt khác đó lại là cơ hội tốt cho những kẻ lợi dụng. Có người cách đây 10 năm còn là hai bàn tay trắng, nay đã có nhiều tòa biệt thự qua kinh doanh dịch vụ GD. Trường ĐH dân lập Đông Đô không có một ai góp vốn nhưng sau 5 – 7 năm hoạt động đã có khoản dôi trên 30 tỷ Đ, một số ĐH dân lập khác có mức lợi nhuận của cổ đông gấp 3 lần lãi suất ngân hàng, tài sản còn lại đã tăng lên nhiều lần, nhưng một số người trong cuộc vẫn công khai tuyên bố: “Từ lợi nhuận không có chỗ trong GD, nên thống nhất cách gọi với nhau là “không vụ lợi”” (!) (3). Thứ nhất là đặc trưng “Mức độ công cộng” (MĐCC - Trục hoành của Hình 1). Ở cực bên trái (A) là “HH tư nhân thuần túy” (Private) như chiếc áo sơ mi, ổ bánh mì…, khi đó sự tiêu dùng của tôi sẽ loại trừ sự tiêu dùng của bạn. Ở cực bên phải (B) là “HH công cộng thuần túy” (Public) như cây đèn tín hiệu ở biển (một ví dụ cổ điển), tên lửa bảo vệ an ninh quốc gia…, khi đó “sự tiêu dùng” của tôi không loại trừ “sự tiêu dùng” của bạn. Nhiều HH có MĐCC nằm trung gian giữa 2 cực đó. Thứ hai là đặc trưng “Mức độ thị trường” (MĐTT - Trục tung của Hình 1) liên quan đến ai là người quyết định sản xuất và cung cấp cho thị trường. Ở cực dưới cùng (A) là “HH thị trường thuần túy” (Market) do thị trường tự do quyết định sản xuất và cung cấp. Ở cực trên cùng (D) là “HH tập thể thuần túy” (Collective) do Nhà nước hay tập thể quyết định sản xuất và cung cấp. Nhiều HH có “MĐTT” nằm trung gian giữa hai cực đó. Thông thường, HH có “MĐCC” càng cao thì trọng số Nhà nước phải sản xuất và cung cấp cho xã hội càng lớn (4). Vì rằng, HH có MĐCC càng cao thì “chi phí nguồn lực bổ sung của người khác để được hưởng lợi ích của HH này càng gần bằng không”, nghĩa là sự tiêu thụ càng gần mức độ “không cạnh tranh”; và việc ngăn cản người khác sử dụng HH này càng tốn kém, nghĩa là sự tiêu thụ là “không loại trừ”. Với cây đèn biển, một HH công cộng thuần túy, người dùng không bỏ ra thêm một chi phí nào cả, hoàn toàn không có cạnh tranh và cũng không ngăn cản người khác sử dụng được (5). Từ những định nghĩa nói trên ta thấy HH có một phạm vi khá rộng, chúng không chỉ là HH cá nhân thuần túy do thị trường tự do cung cấp và sự tiêu dùng là có tính loại trừ nhau (như thường được hiểu) mà còn có một cực khác là HH công thuần túy do Nhà nước cung cấp (phải là phúc lợi xã hội cho không) và sự tiêu dùng là không loại trừ nhau. Với loại HH này, có trao đổi nhưng đâu có mua bán được vì “không loại trừ” được người hưởng thụ. Nhưng chúng vẫn được gọi là HH.Bây giờ, nếu quay lại với GDĐH ta thấy, theo đặc trưng MĐCC, có thể cho rằng dịch vụ GDĐH (theo nghĩa dịch vụ là loại HH được “sản xuất” và “tiêu thụ” đồng thời) nằm đâu gần phía (A) hơn vì chỗ ngồi của một SV trong trường ĐH có loại trừ chỗ ngồi của SV khác, nhưng trong một lớp lại có thể bố trí 40 hay 45 SV. Theo đặc trưng MĐTT, chi phí cho GDĐH thường được Nhà nước cung cấp một phần và người dân cung cấp một phần. Cũng có nghĩa là Nhà nước sản xuất và phân phối một phần, người dân sản xuất và phân phối một phần. Tại sao Nhà nước lại phải cung cấp một phần? Đó là do GDĐH vẫn nằm trong “Quyền được học hành” của người dân, do truyền thống, do vai trò to lớn của GDĐH trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội chung của đất nước. Còn tại sao người dân lại phải cung cấp một phần? Là do: Dịch vụ GDĐH không phải là hàng hoá công thuần túy, GDĐH còn chưa là GD phổ cập, GDĐH mới chỉ cung cấp được khoảng 20% tổng nhu cầu cho những người có năng lực hơn, đầu tư cho GDĐH còn là một loại đầu tư rất có hiệu quả của người học vv… Trên thực tế, ở nước ta hiện nay (2000), phần học phí và lệ phí đã chiếm khoảng 41% trong tổng các nguồn thu của GDĐH (Xem Hình 2). Vậy phải chăng, GDĐH Việt Nam hiện nay có vị trí như được mô tả ở Hình 1? Vậy thì, cách trao đổi và hưởng thụ (không là mua bán) kiểu phúc lợi xã hội cho không như cái tên lửa quốc phòng hoặc cây đèn biển… ở cực (C) trên Hình 1 còn được người ta gọi là HH thì dịch vụ GDĐH với vị trí ở giữa Hình 1 như vậy có gì phải e ngại mà không được gọi là HH? Phải chăng là do các lý do tâm lý?, do lo ngại ý nghĩa nhân văn của chính hai chữ Giáo dục? Rõ ràng, Dịch vụ GDĐH là một loại HH công không thuần túy và nó rơi vào vùng “Thị trường bị thất bại” (Xem Mục 3 bên dưới). Do vậy, cũng như do ý nghĩa xã hội, nhân văn của GD, nên cần có sự kiểm soát đặc biệt của Nhà nước và Nhà nước phải cung cấp một phần kinh phí để về trung bình, phải có “giá bán” thấp hơn nhiều so với “giá thành” (6).
Qua kinh nghiệm của một số nước, đặc biệt là các nước đang phát triển có trình độ phát triển GDĐH tương tự như Việt Nam, có thể thấy rằng, khi nghiên cứu vấn đề CBXH trong GDĐH, người ta đồng thời nghiên cứu 3 nhóm vấn đề sau đây. (1) Thứ nhất là mối quan hệ giữa CBXH, chất lượng và hiệu quả (tài chính); (2) Thứ hai là các chỉ số CBXH (giới tính, vùng miền, sắc tộc, trạng thái kinh tế – xã hội, v.v…) trong thực trạng và sự biến thiên của chúng trong quá trình mở rộng GDĐH; và (3) Thứ ba là các yếu tố ảnh huởng đến khả năng tiếp cận GDĐH, được tham dự GDĐH. Từ đó, Nhà nước sẽ xây dựng các chính sách, các biện pháp thích hợp nhằm cải thiện các chỉ số CBXH (Hình 3). Ví dụ, trường hợp của Thổ Nhĩ Kỳ, qua một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới về mặt CBXH trong GDĐH người ta đã có được một số kết luận sau đây: (1) Trạng thái kinh tế – xã hội của cá nhân (đo bằng mức độ thu nhập và trình độ học vấn của cha mẹ SV) là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng tiếp cận GDĐH; (2) Về giới tính, tỷ lệ nữ trong GDĐH đã tăng lên đáng kể trong 3 thập kỷ qua: 18,7% năm 1969-1970; 27,5% năm 1981-1982 và đạt 35% vào năm 1991-1992. Tuy vậy, tỷ lệ này hãy còn thấp so với các nước đã phát triển và phần lớn phụ nữ đã học tập trong các lĩnh vực GD tổng quát (general Arts), khoa học xã hội và nhân văn; (3) Vị trí địa lý (nông thôn, có gần trường phổ thông trung học hay không…) có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp cận GDĐH. Và ở đây cũng cần lưu ý là, chất lượng thấp và chi phí đào tạo cao nếu phát triển các trường ĐH ở vùng kém phát triển, do vậy có sự “đánh đổi” (trade-off) giữa công bằng vùng và hiệu quả đào tạo; (4) Phẩm chất về mặt GD của người học ở GD phổ thông – và do đó là chất lượng của chính trường phổ thông – ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng tiếp cận GDĐH cũng như chất lượng ở GDĐH. Có trường chỉ có 7,1% người dự thi được vào ĐH trong khi có trường khác con số này đạt đến 29,5%; (5) Dịch vụ luyện thi (7) có hiệu quả thực sự trong việc thi đỗ vào ĐH, vv… Ở Việt Nam, có lẽ việc nghiên cứu CBXH trong GDĐH còn hạn chế nên các kết quả công bố còn rất ít. Tuy vậy có thể thấy, vấn đề đãø tương đối nghiêm trọng. Ví dụ, năm 1999, số người có trình độ ĐH trở lên tính trên 100.000 dân, của đồng bằng Sông Hồng nhiều gấp trên 5 lần của đồng bằng Cửu long, của Hà nội nhiều gấp trên 27 lần của Bình phước, thậm chí của Quảng ninh, Thừa Thiên – Huế, Thái nguyên cũng nhiều gấp 5,0 – 5,5 của Trà vinh. Về sự phân bổ vùng miền, có tỉnh chưa có đến 10 SV trên 1 vạn dân, trong khi con số bình quân của cả nước là 120 SV vv... Ngoài ra, cũng có một vài số liệu không chính thức cách đây mấy năm cho thấy, nếu chỉ số phân hóa giàu nghèo ở nước ta vừa qua khoảng 7-8 lần (Tính theo tỷ lệ thu nhập bình quân của 20% dân số giàu nhất và của 20% dân số nghèo nhất) thì mức độ bất bình đẳng trong GDĐH đã lên đến con số 20 lần (Tính theo tỷ lệ số SV trong thanh niên ở độ tuổi của hai lớp dân số nói trên). Cũng cần lưu ý là, theo Simon Kuznets, người từng được giải Nobel, chỉ số phân hóa giàu nghèo sẽ diễn biến theo hình chữ U lộn ngược trong quá trình phát triển kinh tế, lúc đầu tăng lên theo đà tăng trưởng kinh tế, khi GDP đạt đến khoảng 2.500-3.000 US$/ đầu người mới có thể dừng lại và sau đó giảm dần. Việt Nam hiện nay có mức GDP còn thấp, kinh tế chủ yếu còn là “thâm dụng lao động”, người nghèo cũng có lao động nên chỉ số phân hóa còn dễ giữ được ổn định. Nhưng sắp đến có lẽ Việt Nam cũng sẽ chuyển sang kinh tế “thâm dụng vốn”, “thâm dụng kỹ thuật”, người nghèo không có các thứ này nên chỉ số phân hóa giàu nghèo sẽ có nguy cơ tăng cao. Không biết khi đó thì mức độ bất bình đẳng trong GDĐH của Việt nam sẽ như thế nào nếu không có những chính sách thích hợp.Để giảm bất bình đẳng trong GDĐH, một trong những chính sách công quan trọng là thực hiện “phân phối lại” dựa vào nguyên tắc ‘công bằng theo chiều dọc”, nghĩa là những người “không bình đẳng” phải được thu phí khác nhau dù cùng được một mức hưởng lợi. Nói cách khác, đó là cách thu phí “theo khả năng đóng góp”. Đây cũng là nguồn gốc của cách tính “thuế lũy tiến” trong thuế thu nhập cá nhân: Người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ thu phí trên thu nhập càng cao (Hình 6). Học phí trong GDĐH hiện nay, ngoài việc khống chế trần học phí giống nhau cho mọi loại trường ĐH, ngành học và những chương trình có chất lượng khác nhau một cách không hợp lý, còn có mức học phí giống nhau cho mọi SV. Đó là cách thu “lũy thoái”, nghĩa là SV càng nghèo thì càng có mức thu học phí trên thu nhập lớn hơn (Hình 6). Một cách khác, giả sử chi phí đào tạo một năm cho một SV ở một trường ĐH công lập là 10 triệu Đ/ năm, tất cả đều đóng học phí 3 triệu Đ/ năm, như vậy mỗi SV đều được Nhà nước cung cấp “học bổng” dạng phúc lợi xã hội là 7 triệu Đ/ năm, kể cả SV con nhà rất giàu (!). Lưu ý, khoản phúc lợi xã hội này là tiền thuế của dân. Vậy thì có một chính sách học phí, học bổng nào tốt hơn không? Thiết nghĩ là có. Nhưng đây là vấn đề khó, cần phải có nghiên cứu. Hơn nữa đây cũng là vấn đề nhạy cảm “khó nói” và do vậy cần có sự đồng thuận của xã hội: Nêu ra thực trạng trên mới chỉ để nói rằng, Nhà nước ta còn chưa sử dụng nguyên tắc “công bằng theo chiều dọc”, cách thu phí “theo khả năng đóng góp” để thực hiện chính sách công “phân phối lại” nhằm giải quyết bài toán CBXH trong GDĐH 4. THAY LỜI KẾT – “PHỎNG VẤN MỘT LÁI BUÔN” Cuối cùng, xin phép PV Lê Thị Liên Hoan được làm rõ hơn một chút: Dịch vụ GD (chứ không là GD) chính là hàng hóa đấy. (*) Phần “Hàng hoá công dịch vụ GDĐH …“ được viết lại từ bài “GDĐH dưới góc nhìn của kinh tế học” (12/2001). Chỉ hạn chế vấn đề trong GDĐH vì với GD phổ thông, có thể là GD phổ cập nên phức tạp hơn. (1) “Chất lượng và hiệu quả” là 2 vấn đề đau đầu nhất của các trường ĐH trên thế giới ngày nay. Và trong quản lý người ta nói: “Không có cạnh tranh thì không có chất lượng”. (2) Trong thị trường chứng khoán, “Quyền” là một loại tài sản (Asset) và có thể đem ra mua bán được. (3) Đây cũng là một khoảng cách “mờ” trong Dự thảo “Quy chế ĐH tư thục” hiện nay. (4) Tất nhiên, Nhà nước có thể làm “Hợp đồng” với các công ty tư nhân để cung cấp HH công cộng cho xã hội. Nhưng chúng vẫn được xem là cung cấp công cộng. (5) Trong “Tài chính công”: Để có hiệu quả, sự cung cấp HH công cần được mở rộng cho đến khi đạt đến mức mà tại đó, tổng giá trị lợi ích biên tế trên đơn vị HH cuối cùng là bằng chi phí biên tế. Và tổng mức sẵn sàng chi trả được xác định bằng cách cộng tổng theo chiều dọc của các đường cầu cá nhân chứ không phải xác định tổng lượng cầu bằng cách cộng lại theo chiều ngang của các đường cầu cá nhân như ở HH tư nhân. (6) Ngay ở nước Mỹ, nơi có nền GDĐH “định hướng thị trường” (market-oriented), nơi có đến gần 50% số trường ĐH là trường tư (nhưng chỉ chiếm khoảng 20% tổng số SVĐH), chi phí trung bình cho một SV một năm là 12.000 Đôla nhưng học phí trung bình chỉ có 3.800 Đôla (1994), học phí trung bình của trường công là 1.040 Đô la và của trường tư là 5.720 Đô la (1986), nhưng ở một số trường lên đến 30.000 – 40.000 Đô la /năm. Nghĩa là Nhà nước đã cung cấp một phần kinh phí cho GDĐH để về trung bình có “giá bán” thấp hơn nhiều so với “giá thành”. (7) Gọi là “private tutoring”, rất phổ biến ở Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp… những nơi “cung” vẫn còn thấp so với “cầu” trong GDĐH, mặc dầu “cầu” ở các nước này không cao như ở Việt nam do học phí rất cao. |