Hàng xóm có nhau

undefined

 

TT - thành phố , PTây Thạnh, QTân Phú (TPHCM) hơn cha năm nay bên cạnh đó chẳng còn cảnh đèn bên ai nấy rạng, do bà con trong thành phố luôn chú ý giúp đỡ fan khó khổ rộng mình

Hàng xóm có nhau

Ban điều hành và quản lý khu phố nghĩa tình thường xuyên họp bàn phần nhiều chương trình trợ giúp bà bé - Ảnh: Thanh Tùng

Đi qua số đông nếp nhà đầm ấm đang chuẩn bị bữa cơm trưa, ông Bùi Đức Sảng, trưởng ban công tác mặt trận khu phố 3, nói vơi nhàng: khu phố được do đó là dựa vào bà nhỏ cùng nhau làm công tác Tổ dân phố tình nghĩa mấy năm nay, đối đãi với nhau bởi cái tình chân chất....

Giống tựa như những khu phố không giống tại sài Gòn, thành phố 3 cũng đa số người tứ xứ đổ về làm ăn. Trong cuộc mưu sinh, sự hào sảng cũng vơi đi ít nhiều.

Ông Sảng kể trước đây quanh vùng này thành quả còn thưa thớt, các ngôi đơn vị lụp xụp, mưa dột tứ bề, nền nhà thấp nên mỗi một khi mưa bự là ngập đến đầu gối. Đó là chưa kể tình trạng gia chủ đi vắng tanh trộm bất chợt nhập mà lại hàng xóm không hề hay biết.

Ngày ngày thấy cảnh bà bé như vậy tôi cũng không im tâm. Mà muốn biến hóa cho giỏi hơn thì đòi hỏi phải có bạn đứng ra làm, làm có hiệu quả mới được - ông nói.

Đỉnh điểm của cảnh táo bạo ai nấy sinh sống là chuyện một nhà kia có đàn ông mất nhưng lại chòm xóm phần đông chẳng đoái hoài. Mái ấm gia đình này nằm trong diện trở ngại nên không xoay đâu ra tiền suy tính đám tang.

Ông Lê Đức Chiến, túng thư chi bộ khu phố 3, lưu giữ lại: thời gian đó tôi cảm xúc day kết thúc lắm. Tín đồ ta vẫn thường nói buôn bản giềng tối lửa tắt đèn gồm nhau, huống gì chạm mặt cảnh sinh ly tử biệt. Mình cấp thiết để tình trạng này kéo dài mãi.

Vậy là ông Sảng với ông Chiến, với những người dân bạn trong hội người cao tuổi, hội cựu chiến binh, hội đàn bà cùng nhau lên kế hoạch sản xuất Tổ dân phố nghĩa tình theo chủ trương của chiến trận Tổ quốc P.Tây Thạnh.

Năm 2010, sau khoản thời gian lấy chủ ý của bà con, đều người quyết định chọn tổ 60, 65, 68 để tiến hành trước. Ông Sảng ý niệm việc giúp đỡ người dân không chỉ có vật hóa học mà đặc biệt quan trọng hơn là về tinh thần.

Phải có tác dụng sao tạo nên bà nhỏ niềm tin, phát sinh tình cảm thân thương quý trọng với hàng xóm láng giềng, từ kia mọi bạn mới đính thêm bó đon đả tới nhau.

Hiện tại, hàng tháng bà nhỏ lại họp cùng với ban điều hành một lần để nắm thực trạng và cùng giải quyết các trường hợp khó khăn, vướng mắc ở vị trí mình sống. Cứ vậy, trường đoản cú 3 tổ dân phố ban đầu, nay tua dây nghĩa tình vẫn nối kết 25 tổ dân phố của thành phố 3.

Hàng xóm có nhau

Chị hồ Thị Phương (phải) sẽ có cuộc sống đời thường ổn định rộng từ sự hỗ trợ của Tổ dân phố nghĩa tình - Ảnh: Yến Trinh

Vừa ngồi uống nước trà ở trụ sở khu phố xong, ông Sảng cùng với ông Chiến và bà Phan Thị Thân, vào hội phụ nữ, bàn nhau ghé thăm nhà bà Huỳnh Thị Ngọc Anh (66 tuổi, hẻm 38 Chế Lan Viên), vì thường ngày bé cái đi làm là bà Anh lủi thủi ở nhà một mình.

Bà Anh quê sinh hoạt Tiền Giang, lên tp sài thành ở với con gái và bé rể, phụ trông nom ba đứa con cháu đang tuổi ăn uống học.

Chỉ lên mái tôn giờ đã được thế mới, bà Anh nói: trước đây nhà lợp tôn ximăng, mỗi lần mưa dột không tồn tại chỗ ngủ, ngồi thu lu quan sát nước lênh láng khắp nhà. Thiệt khổ không nhắc xiết.

Tới giờ, mỗi khi có ai nhắc về căn nhà nghĩa tình, bà Anh phần đa xúc động: Mừng lắm chứ, xa quê nhưng mà được đối đãi bởi thế tui còn muốn gì hơn.

Ghé qua công ty chị hồ Thị Phương (tổ 60), chị Phương sẽ lui cui chuẩn bị để đầu tiếng chiều dọn hàng bán bánh xèo ở đầu hẻm. Từ lúc rời Quảng nam vào sài gòn cách trên đây 11 năm, chị Phương xoay đủ nghề nhằm kiếm sống và cùng ck lo mang đến hai con.

Hết có tác dụng công nhân chị lại luân phiên qua cung cấp sữa đậu nành, nước mía, rồi chào bán bánh xèo cho tới giờ. Chị kể: Ngày trước chồng tôi bị tai nạn gãy chân, nghỉ ở nhà cả năm trời. Túng thiếu mà lại may nhưng mà mấy chị trong hội thanh nữ cho vay vốn 10 triệu đồng.

Cảm đụng hơn là không chỉ cho vay vốn, những chị ở hội đàn bà còn ghé nạp năng lượng thử bánh xèo của chị ý Phương để góp ý.

Chị Phương còn nhớ rõ 1 trong các buổi chiều chị hiện tại đang bán thì bà Thân và mấy chị trong hội đến. Ăn bánh xong, mấy chị mới nhận xét nước chấm làm không bắt lắm, chấm bánh không đã.

Ngày hôm sau, một chị vào hội lại mang lại chỉ cách cho chị Phương làm nước chấm. Nói lại cụ thể này, chị Phương nô nức nói: Số tôi cũng may đề nghị mới được mấy chị giúp đỡ từng chút một như vậy.

Trước đây mỗi ngày chỉ cung cấp hơn trăng tròn cái bánh xèo, bây giờ chị Phương ngày nào cũng đổ bánh không còn 2kg bột.

Trong quần thể phố, từ bạn già mang đến trẻ nhỏ tuổi nếu chạm mặt khó khăn ban khía cạnh trận đông đảo nghĩ phương pháp san sẻ. Trẻ nhỏ trong khu phố có yếu tố hoàn cảnh quá cạnh tranh khăn sẽ được xét cấp học bổng, được rượu cồn viên tiếp tục để không hẳn bỏ học bởi mặc cảm.

Ông Sảng còn kể phần đông trường vừa lòng mâu thuẫn trong các hộ gia đình, ban khía cạnh trận phần nhiều tìm biện pháp hòa giải dịu nhàng.

Mỗi ngày, những sáng tạo độc đáo để khu vực phố của bản thân thêm nghĩa tình càng được những thành viên gửi ra. Ba năm nay, bạn dân thích thú với ý tưởng Ngày thứ nhất đi học giành riêng cho các em new vào lớp 1.

Ông Tôn Thất Hạp (73 tuổi, hội trưởng hội bạn cao tuổi) đến biết: Tôi hiểu tâm lý trẻ con, sắp tới vào lớp 1 đứa nào thì cũng háo hức lẫn lo lắng. Bản thân là người lớn phải nghĩ cách để động viên các cháu. Vậy là năm trước đó tổ dân phố của ông gồm sáu em vào lớp 1.

Ông cùng rất ban chiến trận mua khuyến mãi mỗi em 10 cuốn tập, cặp sách và chụp hình để những em cất giữ khoảnh tương khắc ngày đầu đi học của mình.

Chị trần Thị Mai, phụ huynh bao gồm con từng được khuyến mãi quà, phân tách sẻ: Tấm hình con tôi ngày đầu đến lớp tôi vẫn còn đó giữ. Năm học vừa rồi, ông Hạp cùng thành phố đã tổ chức cho 144 học sinh lớp 1 vui đón ngày đầu đi học.

Cấu trúc luận văn

Quan hệ hàng xóm, láng giềng

Cũng giống như các vùng nông nghiệp khác, người dân Nhân Chính sống trong một làng có môi giao hòa chặt chẽ với nhau. Tình làng nghĩa xóm “tối lửa tắt đèn có nhau” là truyền thống từ ngàn đời xưa truyền lại. Trong làng có mấy dòng họ nên đi đâu quanh làng người dân ít nhiều cũng có mối quan hệ họ hàng với nhau. Hơn nữa, mặc dù nói văn hóa làng là văn hóa “đóng” nhưng thực chất nó chỉ “đóng” giữa làng này với làng khác hay giữa làng với xã hội bên ngoài. Còn bên trong làng là không gian “mở” giữa các gia đình. Từ nhà này sang nhà khác đôi khi chỉ là cái hàng rào thấp thấp bằng bụi cúc tần, dâm bụt..., mấy hộ gia đình đi chung một con ngõ, ra vào đều chạm mặt nhau, cổng nhà thường mở cả ngày đến đêm mới cái then sơ sài. Vậy nên ở Nhân Chính mới có câu “đường làng ngõ xóm, sớm tối gặp nhau”. Cũng chính vì sống trong một không gian “mở” như vậy nên người dân

trong làng coi nhau như anh em trong nhà. Nếu gia đình nào có việc như cưới xin, ma chay hay mừng thọ, đầy tháng là hàng xóm có mặt ngay để giúp đỡ, san sẻ.

“Quan hệ hàng xóm láng giềng ngày xưa khác bây giờ nhiều lắm. Chúng tôi ở đây cứ nhà ai có việc nhờ vả là sang giúp nhau ngay chứ chả ngại khó ngại khổ đâu. Như hồi ông nhà tôi mất, nhà thì toàn đàn bà con gái, may mà có hàng xóm và đám thanh niên trai tráng trong xóm giúp khiêng áo quan chứ hồi đó làm gì có dịch vụ như bây giờ.”

“Nhà nào có đám cưới là xóm giềng sang chuẩn bị giúp từ 1, 2 ngày trước. Vừa làm vừa chuyện trò vui phải biết... .”

Tuy nhiên, trong một nghiên cứu về biến đổi trong quan hệ ứng xử và sử dụng thời gian của người dân vùng chuyển đổi từ xã lên phường (nghiên cứu tại phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội) năm 2007, của nhóm nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Con người, nhằm làm rõ thêm đánh giá của người dân về quan hệ làng xóm láng giềng hiện nay, nhóm tác giả đã đưa ra hai quan niệm “bán anh em xa mua láng giềng gần” và “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau” để những người tham gia trả lời đánh giá. Với quan niệm “bán anh em xa mua láng giềng gần”, chỉ có 18,7% số người tham gia trả lời cho rằng quan niệm đó vẫn còn đúng trong xã hội hiện nay, 74,0% cho rằng gần đúng và 7,3% cho rằng quan niệm đó hiện nay không còn đúng. Còn với quan niệm “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”, 37,3% cho rằng còn đúng và 62,7% trả lời gần đúng.Qua đó có thể thấy, mối quan hệ hàng xóm, láng giềng ở các vùng đô thị mới, mà cụ thể ở đây là phường Nhân Chính đang dần trở nên lỏng lẻo.

Nhân Chính được coi là vùng đất có tốc độ đô thị hóa nhanh với số lượng dân nhập cư lớn. Chính những người nhập cư từ nơi khác đến đây sinh sống vì nhiều lý do khác nhau như vì công việc, dễ làn ăn... đã làm thay đổi đáng kể mối quan hệ cố kết của cộng đồng Nhân Chính xưa. Theo số liệu điều tra khảo sát trên địa bản phường Nhân Chính, thì trong các làng Quan Nhân, Giáp Nhất, Chính Kinh

số lượng dân gốc vẫn chiếm đa số, nhưng ở Nhân Hòa và các nhà mặt đường lại chủ yếu là dân nhập cư. Khi được hỏi thì người dân cho biết, những người dân mới từ nơi khác đến đây họ hầu như không quan hệ với hàng xóm xung quanh. Thường thì họ đi làm, đi học cả ngày, cửa đóng then cài, nhà nào biết nhà đấy. Nếu có ra ngõ gặp nhau thì cũng chỉ cười chào nhau một tiếng chứ không có chuyện trò thân mật như những người dân gốc vốn đã quen biết thân thiết từ trước. Cũng như vậy, tâm lý của những người dân mới về đây sinh sống cũng ngại tiếp xúc với người dân địa phương cũ. Vì vậy, mối quan hệ chủ yếu của dân nhập cư là với đồng nghiệp, bạn bè ngoài địa phương.

“Quanh nhà tôi vẫn còn nhiều gia đình là dân gốc ở đây. Nhưng cũng có nhà cắt đất bán nên có người mới đến. Những người này thì cũng vui vẻ thôi, ra đường nhìn thấy nhau thì vẫn chào hỏi nhau nhưng nói chung là xã hội nó thay đổi, ngay cả mối quan hệ với người dân gốc bây giờ cũng không được như xưa nữa.”

“Nhà nào cũng kín cổng cao tường thế này. Người ta đi làm đến tối mới về thì làm sao có thời gian mà thăm hỏi nhau. Mình cũng lo việc của mình chứ giờ tôi cũng chẳng để ý mấy người từ nơi khác đến đây là ai đâu.”

“Đến nhà bà ngoại không biết bao nhiêu lần rồi nhưng từ ngày bắt đầu có ý tưởng làm luận văn về vùng đất này tôi mới thực sự chú ý đến mối quan hệ giữa người dân trong làng. Hôm nay tôi nhờ bà đưa sang nhà ông Độ, ông là Trưởng ban Di tích lịch sử làng Cự Chính, có họ hàng bên ngoại với bà tôi. Đường vào nhà ông ở xóm trên nên hai bà cháu tôi đi cũng khá lâu mới đến vì bà tôi chân tay cũng yếu rồi. Dọc đường đi, tôi thấy các bà, các bác, các cô đi chợ về hay đi đâu đó đều cười và chào hỏi bà tôi. Tôi thì chỉ biết cười đáp lại vì chẳng biết ai với ai. Hỏi bà thì bà bảo con nhà bà này, con nhà bà kia... Đang ngó nghiêng tìm nhà ông Độ thì có một bà đi chợ về, thấy bà tôi đang nhìn đi nhìn lại. Bà cất giọng hỏi “Bà Bi đi đâu đấy? Tìm nhà ông Độ à? Nhà ông ấy đây này...”

Hàng xóm có nhau

Theo hồ sơ, bà H. có nhận chuyển nhượng của ông M. 0,4ha đất. Và ông có cam kết trong tờ mua bán đất: phần đường nước chung từ mặt đập đi thẳng vào ruộng không có ai được quyền lấp. Từ khi chuyển nhượng, bà sử dụng đường nước chung của gia đình ông để canh tác.

Đến năm 2013, Nhà nước làm lộ giao thông đi ngang qua phần đất của cả hai. Để phục vụ sản xuất, chính quyền địa phương đặt một cái bọng nằm trên đường nước cũ để dẫn nước vào phần đất phía trong lộ.

Trong quá trình thi công, bơm cát làm mặt đường thì cát tràn xuống đường nước lấp đầu bọng phía ngoài thuộc phần đất của ông nên bà có hỏi ông móc cát ở mặt bọng để dẫn nước vào ruộng, nhưng ông không đồng ý.

Bà làm đơn khởi kiện. Phiên sơ thẩm tuyên chấp nhận đơn khởi kiện của bà, buộc ông phải khai thông đường thoát nước. Ông kháng cáo...

Ông M. trình bày: “Bà ấy có thể dẫn nước từ các ruộng kế bên nhưng không chịu mà cứ làm khó đòi tui phải khai thông đường nước”.

Bà cũng nói rằng đã xin ké đường nước của ruộng bên nhưng người ta không cho, vả lại khi bán đất ông cam kết phần đường nước chung không được lấp nên bà mới mua, chứ nếu biết như vầy bà đã không mua.

Rồi giọng bà trở nên bức xúc: “Thật ra, trước đây hai gia đình rất thân nhưng từ khi ảnh kêu tôi muốn đặt ống bọng phải trả bốn chục triệu đồng, tôi không chịu mới sinh ra chuyện. Từ ngày ống bọng bị lấp, tôi phải dùng nước ở mương phèn khiến lúa bị thất mùa hoài”.

Chủ tọa hỏi bị đơn: “Tại sao ông không chịu khai thông đường nước trong khi lúc chuyển nhượng ông đã cam kết: không ai được quyền lấp đường nước?”.

Bị đơn trả lời: “Tôi đào hầm nuôi cá gần đường nước, nếu đặt ống bọng lỡ nước từ ruộng đầy phân bón, thuốc trừ sâu ngấm qua ống bọng chết cá tôi sao?”.

Chủ tọa: “Nếu sau này lỡ xảy ra chuyện cá chết như vậy thì ông có quyền khởi kiện một vụ án dân sự khác. Chứ điều luật có quy định rõ ràng phải dành cho bất động sản liền kề lối dẫn nước thích hợp”. Nhưng ông vẫn cương quyết không đồng ý.

Bà H. buồn bã: “Nếu anh cho tôi đặt ống bọng, anh có thiệt gì đâu. Nếu anh không cho tôi đặt ống bọng, lúa thất hoài, tiền đâu tôi nuôi con ăn học. Xóm giềng ân nghĩa với nhau, anh đành đoạn vậy sao?”.

Phiên tòa dân sự tại TAND tỉnh Vĩnh Long gồm năm người. Dãy bên phải gồm hai cha con ông N.V.H., người cha 55 tuổi, con trai 23 tuổi. Dãy bên trái là hai cha con ông H.L.M., cũng trạc tuổi ấy. Ngoài ra còn có ông T.B.T. - người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan.

Nội dung vụ án “tranh chấp lối đi qua bất động sản liền kề” dần hiện ra. Gia đình ông H. có đi nhờ lối đi trên phần đất của ông T. và ông M.. Lối đi này có chiều ngang 1,2m (trong đó phần đất của ông T. 0,7m, phần ông M. 0,5m) với chiều dài 22m.

Đến năm 2012, ông M. đào một con mương cặp lối đi gây sạt lở 0,3m khiến chiều rộng lối đi bị thu hẹp lại còn 0,9m. Ông H. đã yêu cầu ông M. phục hồi lối đi như cũ nhưng ông này không đồng ý.

Ông H. khởi kiện, tuy nhiên nội dung khởi kiện là yêu cầu bên bị phải mở rộng chiều ngang 0,8m chứ không phải như 0,5m trước đây. Phiên sơ thẩm chấp nhận một phần khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bị đơn phải mở chiều rộng 0,5m. Sau đó, cả hai bên đồng kháng cáo.

Ông H. nói: “Thưa tòa, con mương cứ lở dạo khiến bề ngang lối đi hẹp lại, những ngày mưa gió trơn trợt chạy té lăn xuống mương hoài. Rồi vận chuyển nông sản khó khăn. Cực chẳng đã chúng tôi mới gửi đơn kiện, chứ ai không biết câu tắt lửa tối đèn có nhau.

Ảnh không nhớ, chứ lúc chị chuyển dạ sinh thằng này, ảnh không có ở nhà, hai vợ chồng tôi đêm hôm mưa gió chở vợ ảnh đi bệnh viện, giờ nó là kỹ sư kinh tế, không nhớ chuyện ngày xưa, chính nó bảo ảnh bán phần lối đi với giá mấy cây vàng”.

Ông M. lớn giọng: “Chuyện anh giúp tôi thì anh nhớ kỹ. Chứ chuyện con trai anh bệnh, lúc đó chính vợ chồng tôi túc trực ở bệnh viện phụ giúp anh nuôi con, sao anh không nhớ?

Và con anh cũng vậy, nó đi học luật rồi đem luật ra tính toán với chúng tôi, ai đời người ta cho đi nhờ mà còn đòi thêm. Những điều đó sao anh không nghĩ tới?”.

Ông T. giơ tay xin phát biểu. Giọng ông sang sảng: “Tôi đứng kẻ giữa, không bênh ai. Ba đứa tụi tui chơi thân hồi tóc còn để chỏm. Bọn trẻ cũng thế. Nhưng rồi không biết phải chúng học quá cao nên cái gì cũng tính ra thành tiền.

Thằng học kinh tế về bày vẽ cho cha tấc đất tấc vàng, chứ đâu đi nhờ hoài vậy. Đứa học luật về bảo cha, Nhà nước có điều luật quy định phải mở lối đi cho hộ khác, rồi để bụng chuyện bên kia không cho đi nên xúi cha đòi thêm 0,3m nữa. Hai người lớn nghe theo.

Mối thâm tình mấy chục năm nay, vì lấn cấn vài tấc đất mà đành phủi sạch. Vậy mà hai anh, hai cháu không thấy buồn sao?”.

Sự dốc hết lòng cứu vãn mối quan hệ láng giềng của ông T. đã khiến hai bên rút kháng cáo. Tất cả bước xuống bậc tam cấp ra về.