Khái niệm chính sách phát triển giáo dục là gì năm 2024

Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người của đất nước, hay có thể hiểu là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào quá trình lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân có thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Còn theo Tổng Cục Thống kê Việt Nam: “Nguồn nhân lực gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc, những người thuộc các tình trạng khác như nghỉ hưu trước tuổi”.

Phát triển nguồn nhân lực là một thuật ngữ chưa có định nghĩa thống nhất; do đó, thuật ngữ này được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Với nghĩa hẹp: đó là một quá trình giáo dục, đào tạo và đào tạo lại; trang bị, bổ sung thêm kiến thức, kỹ năng... để con người có cơ hội tìm việc làm mới và hoàn thành nhiệm vụ mà họ đang thực thi trong một tổ chức. Với nghĩa rộng: phát triển nguồn nhân lực còn bao gồm cả yếu tố sử dụng nhân lực một cách hợp lý, tạo môi trường làm việc thuận lợi để con người lao động có hiệu quả. Như vậy, có thể hiểu phát triển nguồn nhân lực là sự biến đổi về số lượng và chất lượng trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nhân lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người, vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội.

Điều đặc biệt của nguồn nhân lực là con người lại khai thác, sử dụng chính con người vì sự phát triển của xã hội và con người. Do đó, để phát triển nguồn lực, con người phải được chăm lo chu đáo để phát triển hài hòa cả sinh thể lẫn nhân cách, giữa vật chất và tinh thần.

Sự phát triển của nước ta hiện nay đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận về nguồn nhân lực bao gồm tất cả mọi người, thuộc mọi tầng lớp trong xã hội và nghề nghiệp khác nhau, mọi địa vị xã hội từ thấp nhất đến cao nhất. Bởi, tất cả mọi người đều nằm trong tổng thể của cộng đồng xã hội. Do đó, từng người đều phải được đào tạo, phát triển và cần phải có điều kiện, cơ hội để tự phát triển; làm sao để từng người tìm được chỗ đứng và đứng đúng chỗ của mình, mỗi một con người hoàn thiện đều có những kỹ năng, trong đó có những kỹ năng nhất định thuần thục hơn nhờ qua những môi trường sống và môi trường đào tạo tuy khác nhau song đều chịu sự sàng lọc tất yếu của cuộc sống. Thực tế cho thấy, trong bất kỳ khái niệm nào [rộng hay hẹp], để phát triển nguồn nhân lực thì giáo dục và đào tạo vẫn là biện pháp chủ yếu.

Thực trạng chính sách giáo dục và đào tạo với phát triển nguồn nhân lực những năm qua

Công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực là công việc phải được ưu tiên hàng đầu để bảo đảm cho tính ổn định của nguồn nhân lực quốc gia. Không chỉ là số lượng mà còn phải bảo đảm cả về chất lượng - điều mà chúng ta hiện nay đang rất thiếu. Chính vì vậy, giáo dục có tầm quan trọng số một trong công tác phát triển nguồn nhân lực để phát triển đất nước. Việc tạo nền tảng cho sự phát triển trí lực, thể lực của con người ngay từ giai đoạn trẻ thơ cho đến khi trưởng thành là vấn đề có tầm quan trọng đáng kể, có ý nghĩa tích cực và mang tính chiến lược đối với sự phát triển, đối với vận mệnh kinh tế, chính trị và xã hội của cả một quốc gia.

Thực tiễn hiện nay cho thấy, những cơ hội học tập cho trẻ em là không đồng đều ở các vùng, miền và thậm chí ở từng cộng đồng dân cư bởi khoảng cách giàu, nghèo là khá lớn. Nhóm gia đình có mức sống khá giả nhất chi cho giáo dục nhiều gấp gần 11 lần so với nhóm nghèo nhất. Đối với những hộ càng nghèo, thì việc chi cho giáo dục của con em họ càng là gánh nặng đối với ngân sách gia đình. Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ở Việt Nam, hằng năm có khoảng 3,6% học sinh trong độ tuổi không được đến trường. Tỷ lệ học sinh ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nạn bỏ học cao hơn so với các vùng kinh tế trọng điểm và các khu đô thị [ở đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ học sinh bỏ học là 2,96%; khu vực Tây Bắc 6,91%; Tây Nguyên l7,16% và đồng bằng sông Cửu Long 12,64%]. Ở các vùng núi cao, số trẻ em gái không biết chữ ở nhóm 10 tuổi là 13,69%, 11 - 14 tuổi là 7,98%, 15 - 17 tuổi là 9,08%. Nếu tính theo nhóm dân tộc thì số trẻ em gái mù chữ người H’Mông là 90%, Hà Nhì 89%, Gia Rai 83%, Bahnar 82% [1].

Thực tế chính sách giáo dục và đào tạo ở nước ta có rất nhiều vấn đề bất cập phải bàn. Trước hết, đó là một số chính sách về giáo dục [nói chung] và đối với vùng khó khăn [hoặc hơn thế] còn nhiều bất cập do chỉ mang tính giải quyết tình thế là chính, chưa đáp ứng yêu cầu hình thành chiến lược lâu dài hướng tới tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Có thể kể ra một số minh chứng:

- Chính sách xây dựng và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, tạo nguồn, đào tạo học sinh dân tộc thiểu số. Quy mô các trường và giữa các vùng, miền cũng rất không đồng đều nên chính sách này vừa lãng phí, bất cập lại chồng chéo giữa các dự án xây dựng với quy mô huy động số học sinh theo mật độ dân cư và các khả năng kinh tế, chưa tạo đà cho phát triển giáo dục.

- Thực hiện Luật Giáo dục, Chính sách ưu tiên cử tuyển học sinh, sinh viên vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ở một số địa phương thường xuyên không đạt chỉ tiêu, nhất là các dân tộc thiểu số sinh sống ở các vùng đặc biệt khó khăn và rất thiếu cán bộ.

Sự phối hợp giữa chính quyền các cấp với Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa chặt chẽ nên cơ cấu ngành nghề được đào tạo cử tuyển chưa phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhiều nơi nảy sinh các sai sót trong việc cử tuyển, “lách luật” để giành chỉ tiêu đào tạo, như: thay đổi địa chỉ cư trú, thay đổi thành phần dân tộc để được xét cử tuyển. Thậm chí, có tình trạng một bộ phận sinh viên diện cử tuyển đã phá bỏ cam kết để tìm việc ở thành phố, ngược lại, có địa phương cử học sinh đi học khi trở về lại không nhận, không sử dụng hết nguồn cán bộ đã được đào tạo dẫn đến lãng phí rất lớn.

- Chính sách ưu tiên điểm đối với thí sinh thi tuyển đầu vào các trường đại học, cao đẳng được quy định theo Quy chế Tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy đặt ra là chính sách cộng thêm điểm có thể đã làm giảm chất lượng đầu vào ở một số trường đại học, cao đẳng.

- Chính sách hỗ trợ sinh hoạt phí đối với học sinh dân tộc bán trú địa bàn các xã đặc biệt khó khăn; Chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đối với nhà giáo hiện cũng chưa đủ mạnh để tạo điều kiện cho nhà giáo và cán bộ quản lý yên tâm cống hiến và chưa tạo thành động lực để thu hút nhà giáo tình nguyện sẵn sàng công tác ở bất cứ vùng, miền nào trên đất nước ta, điều đó đã dẫn đến thực trạng nơi thừa, nơi thiếu giáo viên.

Trước tình trạng đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng chính sách giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2020 với các trọng tâm:

- Tiếp tục củng cố cơ sở vật chất, phát triển hệ thống trường, lớp, cơ sở giáo dục; Triển khai chương trình, nội dung, phương pháp dạy học phù hợp; Nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; Tổ chức tốt các hình thức giáo dục nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; Phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, quan tâm đời sống của đội ngũ giáo viên [trong đó có chính sách đặc thù cho các vùng dân tộc và miền núi]; Tăng tỷ lệ ngân sách cho giáo dục vùng dân tộc.

- Xây dựng và bổ sung chính sách phù hợp bao gồm: chính sách về tuyển sinh đào tạo và sử dụng sau đào tạo; về đãi ngộ, phát triển, luân chuyển đội ngũ giáo viên các cấp; về tài chính và huy động nguồn lực đầu tư; chú trọng ưu đãi cho cán bộ công tác ở các sở, phòng giáo dục và đào tạo vùng đặc biệt khó khăn.

- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quản lý.

- Vận động sâu rộng toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục và đào tạo [xã hội hóa giáo dục đào tạo].

Hoàn thiện chính sách giáo dục và đào tạo góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Tại Đại hội VI, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong Báo cáo chính trị được thông qua tại Đại hội đã đề ra mục tiêu của giáo dục là: “Hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của xã hội”[2]. Đại hội này đã xác định sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên nghiệp phải trực tiếp góp phần vào việc đổi mới công tác quản lý kinh tế và xã hội. Kế hoạch phát triển giáo dục phải gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương và trong cả nước.

Đây chính là cơ sở, tiền đề để Đảng ta ngày càng hoàn thiện hệ thống quan điểm, đồng thời là cơ sở để Nhà nước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục và đào tạo. Điều này đã được thể hiện cụ thể trong các văn kiện Đại hội Đảng, các văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và trong các văn kiện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa VII, VIII, IX, X.

Tiếp tục các quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục và đào tạo, các văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định một cách toàn diện và cụ thể hơn quan điểm và định hướng đổi mới giáo dục và đào tạo để phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước và khắc phục những tồn tại, yếu kém trong thời gian vừa qua.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [Bổ sung, phát triển năm 2011] đưa ra định hướng phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ quá độ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”[3].

Theo đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội [2011 - 2020] đã đề ra mục tiêu về giáo dục và đào tạo là: giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại; số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân và phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt...

Để thực hiện tốt quan điểm, định hướng của Đảng về đổi mới giáo dục và đào tạo; phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và ngành giáo dục - đào tạo là rất nặng nề và cần tập trung hoàn thiện chính sách giáo dục và đào tạo theo những hướng sau:

Trước hết, công tác quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo cần đổi mới theo hướng hiện đại, phù hợp với yêu cầu đang đặt ra và phù hợp với phương thức quản lý công mới. Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phải xem xét, thống nhất công tác quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và dạy nghề về một hệ thống cơ quan quản lý nhà nước. Bởi, hiện nay, lĩnh vực giáo dục, đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý; dạy nghề giao cho Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý. Chính vì vậy, trong thực tiễn đã phát sinh nhiều bất cập, như: hoạt động dạy và học tại các cơ sở dạy nghề; hoạt động phân luồng học sinh vào các cơ sở dạy nghề…

Một vấn đề bất cập nữa cần sửa đổi, là phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo cùng với việc giao quyền tự chủ thực sự cho các cơ sở giáo dục. Cụ thể là: Chính phủ ban hành Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP, ngày 30-6-2004, quy định về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về công tác quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo; Nghị định số 115/2010/NĐ-CP, ngày 24-12-2010, quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV về tự chủ trong giáo dục. Tuy nhiên, các quy định này còn chung chung, làm cho các cấp quản lý và các cơ sở giáo dục còn nhiều lúng túng, khó khăn trong thực hiện, dẫn đến hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo thấp.

Hai là, Nhà nước cần sớm cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên các cấp thành cơ chế, chính sách cụ thể. Bởi, chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên các cấp là nhân tố đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục. Mặc dù, trong nhiều năm qua, giáo dục và đào tạo được xác định là “quốc sách hàng đầu”, nhưng chế độ chính sách đối với những người trực tiếp thực hiện sự nghiệp này thì hoàn toàn chưa xứng đáng, dẫn đến hiện tượng “chảy máu chất xám”.

Ba là, Nhà nước cần coi việc hoàn thiện chính sách đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên các cấp, đặc biệt quan tâm đến lực lượng hiện đang công tác tại các vùng có đồng bào dân tộc, vùng khó khăn, vùng biên giới, hải đảo làm động lực để thực hiện các nhiệm vụ tiếp theo của công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, Nhà nước cần kiện toàn hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên các cấp. Đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu thực tế và xu hướng tiến bộ trên thế giới. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các cấp, chú trọng đội ngũ cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục. Khuyến khích giáo viên tham gia học tập, bồi dưỡng vượt chuẩn.

Bốn là, Đảng và Nhà nước cần cụ thể hóa trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các địa phương trong triển khai thực hiện quan điểm đổi mới toàn diện nền giáo dục và đào tạo đã được Đại hội XI xác định. Việc quy định trách nhiệm của từng cấp ủy, chính quyền địa phương trong thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện nền giáo dục phải theo hướng cụ thể, xác định rõ trách nhiệm tới từng cá nhân, tổ chức; đồng thời, phát huy được tính tự chủ, sáng tạo của từng cấp ủy, chính quyền địa phương trong thực hiện quan điểm, chính sách phát triển giáo dục và đào tạo ở địa phương mình và dành sự quan tâm thỏa đáng cho giáo dục và đào tạo theo đúng quan điểm “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”./.

-------

[1] Vũ Đức Thanh. //nccd.molisa.gov.vn

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.89

[3] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,2011, tr.77

Chủ Đề