Người nhận thông điệp là gì

Thông điệp truyền thông là một yếu tố không kém phần quan trọng trong mỗi sản phẩm. Nó giúp ta đem lại nhiều lợi nhuận về khách hàng cũng như xóa bỏ mối lo về việc thiếu khách hàng. Nếu bạn còn đang thắc mắc thì hãy cùng kienthucseo đi tìm hiểu sâu hơn về thông điệp truyền thông nhé.

Đang xem: Thông điệp là gì

Thông điệp marketing là gì?

Thông điệp marketing trong tiếng Anh là Media message.

Thồng điệp marketing là một nỗi lo được cực kì nhiều nhà kinh tế cũng như nhân sự cấp cao quan tâm. Do nội dung của thông điệp marketing rất rộng về phạm vi bào chế và bí quyết đến gần hơn nên ở mỗi góc nhìn lại có quan điểm không giống nhau về thông điệp marketing. Có thể đưa ra một số định nghĩa như sau:

– Thông điệp là những cụm từ, câu hoàn chỉnh, các biểu hiện, biểu tượng hay phương tiện truyền tải ý nghĩa thông tin cụ thể từ group người, tổ chức, cộng đồng này đến group người, tổ chức, cộng đồng khác.

– Thông điệp là bất kì suy nghĩ, ý tưởng được diễn đạt ngắn gọn bài bản hay kín đáo, được thiết kế biên soạn với hình thức phù hợp để truyền tải đến đối tượng bằng những phương tiện marketing không giống nhau.

– Thông điệp là sự phối hợp và tổng hợp các yếu tố như ngôn ngữ, hình ảnh, màu sắc, âm thanh nhằm truyền đạt ý đồ của chủ thể đến công chúng nhận tin.

Dưới góc độ ads, thông điệp cần phục vụ nhiệm vụ nhà quản trị đặt ra, và được định nghĩa như sau:

Thông điệp marketing là biểu hiện của những yếu tố mà nhà quản trị marketing muốn lưu lại trong tâm trí của đối tượng nhận tin, là những yếu tố cần thiết để ảnh hưởng, kéo dài hay làm điều chỉnh nhận thức, cảm xúc và hành vi của đối tượng nhận tin

Nhận diện thông điệp truyền thông:

Thông điệp marketing là thông điệp mà một nhãn hàng/tổ chức muốn truyền tải đến người dùng/công chúng mục đích. Thông điệp truyền thông thường luôn đi chung với tầm nhìn và sứ mạng của brand. Thông điệp thường gắn với tên nhãn hàng để đáp ứng mục đích quảng cáo, khác hẳn với thông điệp tiếp thị thông tin. Ví dụ: Diana – Là con gái thật tuyệt.

Thông điệp truyền thông cũng sử dụng chiều lòng những mục đích chủ yếu trị, xã hội.

Nguyên tắc của thông điệp truyền thông

1. Giản đơn, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ: “Just do it” của Nike, Nokia và thông điệp “Connecting People” đã luôn khiến người sử dụng phải nhớ đến.

2. Chân thật, uy tín, chủ đạo xác: có thể thấy rằng những thông điệp truyền thông như: “Máy lọc nước Kangaroo, máy lọc nước hàng đầu Việt Nam”, “Thật chẳng thể tin nổi” của Bphone không để lại được nhiều cảm tình cho người dùng vì vi phạm nguyên tắc này.

3. Từ ngữ phổ thông nhất: “Chu đáo tin cậy, 77 hàng Đào” trong bài trước của Blog Tiếp thị nội dung làm đúng nguyên tắc này.

Xem thêm: Alcohol Là Gì – Nghĩa Của Từ Alcohol Trong Tiếng Việt

4. Hấp dẫn, bắt mắt để tạo và kéo dài hứng thú của đối tượng:

5. Phải liên quan đến chủ đề cần truyền thông, hành vi cần thay đổi: Biển truyền thông marketing ở ví dụ

4 cực kì thu hút ánh nhìn người dùng nhưng thông điệp chính cần truyền tải đến người sử dụng lại không nằm ở trọng điểm của biển ads. Người sử dụng lướt qua, bị quyến rũ và cảm nhận thấy thú vị tuy nhiên chưa đạt đến mức thuyết phục, thôi thúc người dùng dùng bữa tại Subway.

6. Thích hợp với văn hóa, phong tục, tín ngưỡng của đối tượng: điều này cực kì quan trọng. Ví dụ rất dễ dàng về sắc màu, các nền văn hóa không giống nhau có quan niệm về màu sắc khác nhau: ở Trung Quốc hay ở nước ta, màu đỏ tượng trưng cho sự sung túc, may mắn và hạnh phúc thì ở châu Phi, màu đỏ lại tượng trưng cho sự tang tóc, nỗi buồn. Các thiết kế để truyền tải thông điệp truyền thông có thể lưu ý kỹ điều này.

7. Ảnh hưởng vào những trạng thái tâm lý khác nhau của đối tượng [gây lo sợ, lạc quan, vui vẻ, tin tưởng…]

Tiếp tục với Insight của người sử dụng

Nói đúng ra thì đi tìm Insight luôn là khởi điểm cho một thông điệp, một thông điệp giúp nhãn hiệu “bán được hàng”. Ai cũng biết Insight là điều đang diễn ra ngầm hiểu, là nhu cầu hay vấn đề thầm kín mà người tiêu dùng chẳng bao giờ đưa ra hoặc thậm chí còn không biết tới cho đến khi được nhắc về nó.

Tuy quan trọng là thế, lại có vô số người hiểu được cách và quy trình tìm được một Insight tốt, độc đáo khiến nhãn hiệu thực sự nổi trội vượt bậc so với các đối thủ cạnh tranh. Đây chính là 4 bước cơ bản bạn có khả năng áp dụng:

– Xác định đối tượng khách hàng mục tiêu: không chỉ về các mục tiêu cơ bản như tuổi tác, giới tính nghề nghiệp… mà còn bao gồm cả những yếu tố vướng phải, lí do họ mua sản phẩm…

– Ứng dụng xen kẽ nhiều hình thức như thăm dò, phỏng vấn chuyên sâu, xin feedback,… Hãy liên tục tự đặt những câu hỏi “Tại sao” có sự liên quan đến thương hiệu, mặt hàng, đối thủ và người tiêu dùng để đào sâu Insight nhất có khả năng

– Tổng hợp Insight: sau khi thu thập dữ liệu, bạn sẽ nhận ra có không hề ít Insight nhỏ, vụn vặt và điều bạn cần làm tiếp theo là group chúng lại để có thể đưa rõ ra một Insight lớn, rộng hơn

– Test insight: đó hẳn là một cuộc điều tra Insight tốn công sức tuy nhiên hậu quả thì chưa chắc đã chính xác 100%. Vì lẽ đó bạn cần test lại qua chiến dịch quảng cáo hay mặt hàng mới, ví dụ giải pháp A/B testing.

Và sau một loạt dữ liệu, giả thuyết và phân tích, khi có trong tay một Insight hoàn hảo cho chiến dịch marketing, bạn có khả năng “nháp” thông điệp của mình. Hãy nhớ rằng nếu như Insight là những nhu cầu, mơ ước, vấn đề [pain point] của khách hàng, thì thông điệp của bạn nên tập trung vào cách. Sản phẩm hay dịch vụ của bạn có thể làm gì để phục vụ nguyện ước của họ mới là thứ đáng nói trong thông điệp. Người sử dụng luôn chú ý và đi tìm một thứ rất thực tế: lợi ích cá nhân.

Tạo độ tin tưởng

Mục đích phải đạt cho được trong mọi thông điệp là niềm tin. Và hai bí quyết để thắng lợi lòng tin từ khách hàng qua thông điệp marketing là gắn kết cảm xúc và độ chân tình trong từng ngôn từ.

Cảm giác là thứ chi phối mạnh mẽ hành vi của con người. Do vậy, một thông điệp hấp dẫn phải khơi gợi và gắn kết một hoặc một vài nét cảm giác với người tiêu dùng. Hậu quả nghiên cứu từ Harvard Business Review 2015 chỉ ra có 10 cảm xúc ảnh hưởng khổng lồ nhất đến động thái của khách hàng ngày nay. Đấy là cảm xúc nổi bật , lạc quan, thỏa nguyện, tự do, phấn khích, an toàn, thành công, được khẳng định bản thân, thuộc về một group hoặc cộng đồng và ý thức bảo vệ môi trường.

Phụ thuộc điểm đặc biệt của từng group ngành với các khách hàng tiềm năng không giống nhau sẽ có những cảm xúc và chờ đợi khác nhau. Ví dụ, đối với các mặt hàng công nghệ, người mua sẽ dễ thấu hiểu hơn với những thông điệp về tự do, giải phóng cá nhân hay cảm xúc được thuộc về một hội group nào đấy. Hay với ngành thức ăn thì lại là thông điệp về an toàn. Bằng cách biết đo đạt tâm lý đối tượng khách hàng rồi vận dụng những mánh khơi gợi cảm giác, các thông điệp sẽ được truyền tải một bí quyết mạnh mẽ và có sức lan rộng hơn.

Xem thêm: distress là gì

Ngôn từ của một thông điệp hiệu quả càng đơn giản càng tốt, “cắm rễ” sâu vào Insight người tiêu dùng. Hãy sử dụng thông điệp đó với mục tiêu giả quyết nỗi lo của người tiêu dùng [Insight], chứ đừng nên khoa trương quảng cáo sản phẩm trong đó. Những từ ngữ mỹ miều sáo rỗng sẽ tạo nên hoài nghi nơi người sử dụng “Liệu mặt hàng có thực sự tốt như vậy?”.

Những người làm marketing cần hiểu rõ hoạt động của hệ thống truyền thông. Mô hình truyền thông giải đáp: ai, nói gì, trong kênh nào, cho ai, hiệu quả như thế nào. Truyền thông có liên quan đến chín yếu tố được trình bày trong hình 8.3. Hai yếu tố thể hiện các bên chủ yếu tham gia truyền thông là người gửi và người nhận. Hai yếu tố khác là những công cụ truyền thông chủ yếu, tức là thông điệp và phương tiện truyền thông. Bốn yếu tố khác nữa là những chức năng truyền thông chủ yếu, gồm mã hóa, giải mã, phản ứng đáp lại và thông tin phản hồi. Yếu tố cuối cùng là nhiễu trong hệ thống đó. Các yếu tố này được định nghĩa như sau:

– Người gửi [sender] là bên gửi thông điệp cho bên còn lại [còn được gọi là nguồn truyền thông].

– Mã hóa [encoding] là tiến trình chuyển ý tưởng thành các biểu tượng.

– Thông điệp [message] : Tập hợp các biểu tượng mà bên gởi truyền đi.

– Phương tiện truyền thông [media] gồm các kênh truyền thông qua đó thông điệp truyền đi từ người gửi đến người nhận.

– Giải mã [decoding] là tiến trình người nhận quy ý nghĩa cho các biểu tượng do người gửi truyền đến.

– Người nhận [receiver] là bên nhận thông điệp do bên kia gửíi đến.

– Đáp ứng [response] là tập hợp những phản ứng mà người nhận có được sau khi tiếp nhận thông điệp.

– Phản hồi [feeback] là một phần sự đáp ứng của người nhận được thông tin trở lại cho người gửi.

– Nhiễu tạp [noise] là những yếu tố làm sai lệch thông tin trong quá trình truyền thông, dẫn đến kết quả là người nhận nhận được một thông điệp không giống

thông điệp được gửíi đi.

Mô hình này nhấn mạnh những yếu tố then chốt trong hệ thống truyền thông có hiệu quả. Người gửi phải truyền đạt thông tin đến công chúng mục tiêu và định rõ xem mình muốn có những phản ứng đáp lại nào từ phía công chúng. Họ phải mã hóa thông điệp của mình theo cách có tính đến quá trình giải mã thông điệp thông thường của công chúng mục tiêu. Người gửi phải lựa chọn những phương tiện truyền thông thích hợp và phải thiết kế những kênh thông tin phản hồi để có thể biết phản ứng đáp lại của người nhận đối với thông điệp đó.

Để đảm bảo việc truyền thông có hiệu quả, quá trình mã hóa của người gửi phải ăn khớp với quá trình giải mã của người nhận. Thông điệp về cơ bản phải là những tín hiệu quen thuộc đối với người nhận thì thông điệp đó mới có hiệu quả. Điều này đòi hỏi những người truyền đạt thông tin từ một nhóm xã hội [ví dụ những người qủang cáo] phải am hiểu những đặc điểm và thói quen của một nhóm xã hội khác [ví dụ những người nội trợ] trong cách tiếp nhận, tư duy và đáp ứng trước những thông tin gửi đến cho họ.

Công việc của người gửi là đưa được thông điệp của mình đến người nhận. Nhưng trong bối cảnh bị tác động của hàng trăm thông điệp thương mại mỗi ngày, công chúng mục tiêu có thể không nhận được thông điệp gửi đến vì một trong ba lý do. Thứ nhất là sự chú ý có chọn lọc, nghĩa là họ chỉ nhớ được một phần nhỏ thông điệp truyền đến họ. Người truyền thông phải thiết kế thông điệp làm sao để nó vẫn thu hút được sự chú ý mặc dù xung quanh có nhiều tác nhân làm phân tán. Sự chú ý có chọn lọc giải thích tại sao quảng cáo với tiêu đề đậm nét hứa hẹn một điều gì đó, chẳng hạn như “Làm thế nào để trẻ mãi” cùng với minh họa hấp dẫn và một vài lời ngắn gọn, lại có rất nhiều khả năng được chú ý đến.

Đối với sự bóp méo có chọn lọc, người nhận có thái độ làm cho họ kỳ vọng về cái mà họ muốn nghe hay thấy. Họ sẽ nghe thấy những cái phù hợp với hệ thống niềm tin của mình. Kết quả là người nhận thường thêm vào thông điệp những điều không có [phóng đại] và không nhận thấy những điều khác thực có [lược bớt]. Nhiệm vụ của người truyền đạt là cố gắng đảm bảo thông điệp đơn giản, rõ ràng, lý thú và lặp lại nhiều lần để truyền đạt được những điểm chính đến công chúng.

Đối với sự ghi nhớ có chọn lọc người truyền đạt phải cố làm cho thông điệp lưu lại lâu dài trong trí nhớ của người nhận, nơi lưu giữ tất cả những thông tin đã được xử lý. Khi đi vào trí nhớ lâu dài của người nhận thông điệp có thể cải biến niềm tin và thái độ của người nhận. Nhưng trước tiên thông điệp phải lọt vào được trí nhớ ngắn của người nhận, nơi xử lý những thông tin đến với dung lượng lưu trữ có hạn, và từ đó nó được chuyển sang trí nhớ lâu dài của họ tùy thuộc vào số lần người nhận nhớ lại thông điệp đó và chi tiết hóa ý nghĩa của thông tin. Nếu thái độ lúc đầu của người nhận đối với sự vật là tích cực và người đó nhớ lại những luận cứ ủng hộ, thì thông điệp đó sẽ tiếp nhận và ghi nhớ kỹ. Nếu thái độ lúc đầu của người nhận là tiêu cực và người đó nhớ lại những lý lẽ phản bác, thì thông điệp bị từ chối, nhưng vẫn lưu lại trong trí nhớ lâu dài. Lập luận phản bác ức chế việc thuyết phục bằng cách đưa ra một thông điệp chống lại đã có sẵn. Phần lớn việc thuyết phục đòi hỏi người nhận phải nhớ lại những suy nghĩ của mình. Phần lớn những trường hợp gọi là thuyết phục thật ra là tự thuyết phục.

Qua nghiên cứu người ta thấy những đặc điểm của công chúng có mối tương quan với khả năng bị thuyết phục của họ. Những người có trình độ học vấn cao hay có tri thức được xem là khó bị thuyết phục, tuy nhiên điều này chưa có bằng chứng xác đáng. Phụ nữ được xem là dễ bị thuyết phục hơn đàn ông. Những người phụ nữ coi trọng vai trò giới tính truyền thống dễ bị ảnh hưởng hơn những phụ nữ không muốn chấp nhận vai trò truyền thống. Những người lấy chuẩn mực bên ngoài làm định hướng cho hành động và không có quan điểm riêng của mình thường có vẻ dễ bị thuyết phục hơn. Nhữîng người thiếu tự tin cũng được xem là dễ bị thuyết phục. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Cox và Bauer đã chứng tỏ rằng giữa lòng tự tin và khả năng bị thuyết phục có mối liên hệ phi tuyến và những người có lòng tự tin vừa phải lại là những người dễ bị thuyết phục nhất. Người truyền đạt cần tìm kiếm những đặc điểm của công chúng có mối tương quan với khả năng bị thuyết phục và sử dụng chúng trong khi thiết kế thông điệp và sử dụng phương tiện truyền thông.

Fiske và Hartley đã vạch ra những yếu tố làm giảm hiệu quả của thông tin:

– Nguồn thông tin có mức độ độc quyền càng lớn đối với người nhận, thì hiệu quả tác động của nó đối với người nhận càng lớn.

– Hiệu quả của thông tin lớn nhất khi thông điệp phù hợp với ý kiến hiện tại, niềm tin và tính cách của người nhận.

– Thông tin có thể tạo ra những chuyển biến hiệu quả nhất trong những vấn đề mới lạ, ít cảm thấy, không nằm ở trung tâm của hệ thống giá trị của người nhận.

-Thông tin chắc chắn sẽ có hiệu quả hơn nếu nguồn thông tin đó được coi là có trình độ tinh thông, địa vị cao, khách quan hay được ưa thích, và đặc biệt là nguồn tin đó có quyền lực và có thể đồng cảm được.

– Bối cảnh xã hội, nhóm xã hội hay nhóm sở thích sẽ làm môi trường trung gian cho thông tin và ảnh hưởng cho dù nó có được chấp nhận hay không.


Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • 4 yếu tố cơ bản trong truyền thông
  • Mô hình truyền thông của Fiske và Hartley
  • yếu tố cơ bản nhầt khi truyền thông
  • yếu tố gây hiệu quả nhất cho quá trình truyền thông hiệu quả là
  • ,

    Video liên quan

    Chủ Đề