Nguyên tắc bầu cử phổ thông là gì năm 2024

Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín là 4 nguyên tắc cơ bản, đã được luật hóa thành những luật định quan trọng trong quá trình chuẩn bị bầu cử ở nước ta.

Thứ nhất: Nguyên tắc phổ thông, đây là nguyên tắc rất quan trọng được khẳng định tại Điều 7 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho tất cả công dân không bị phân biệt dựa trên căn cứ thành phần dân tộc, tín ngưỡng, địa vị xã hội, giới tính.

Vậy nội dung nguyên tắc phổ thông đầu phiếu là gì? Đó là mọi công dân đủ 18 tuổi được đi bầu cử và từ 21 tuổi trở lên được ứng cử. Mọi công dân không phân biệt nam hay nữ, dân tộc, tôn giáo, không phân biệt địa vị xã hội, ở miền xuôi hay miền ngược, là cư trú dài hạn hay ngắn hạn. Bất cứ công dân nào đều có quyền bầu cử và ứng cử khi đến tuổi 18 và đến tuổi 21. Tất nhiên là trừ những công dân mất trí, hoặc tòa án tước quyền bầu cử.

Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu này đòi hỏi Nhà nước hiện hành phải tổ chức cuộc bầu cử thành một ngày hội sinh hoạt chính trị toàn dân. Nhà nước phải có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi nhất để cho mọi công dân thực hiện quyền bầu cử của mình.

Thứ hai: Về nguyên tắc bình đẳng, có nghĩa là mỗi người, mỗi cử tri chỉ được nhận một lá phiếu, chỉ được bầu một nơi chứ không được bầu nhiều nơi. Mọi lá phiếu đều có giá trị như nhau, không phân biệt lá phiếu của người giầu, người nghèo, người già, người trẻ, người có địa vị cao hay địa vị thấp.

Thứ ba: Nguyên tắc trực tiếp, nhằm đảm bảo cho người dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong lựa chọn người đại biểu. Cụ thể, cử tri được trực tiếp bỏ phiếu vào thùng phiếu mà không qua người trung gian, cử tri cũng trực tiếp lựa chọn người mình bỏ phiếu, không được nhờ người khác bầu hộ, không bầu bằng cách thức gửi thư.

Thực tế, trong một số cuộc bầu cử trên thế giới thì vẫn tồn tại những cuộc bầu cử gián tiếp. Gián tiếp là thế nào? tức là cử tri bầu lên đại cử tri, rồi đại cử tri lại bầu ra những người lãnh đạo các cơ quan lập pháp, các cơ quan tư pháp, hành pháp của đất nước. Còn ở Việt Nam, công dân trực tiếp đi bỏ phiếu bầu lên những người đại diện cho mình trên Quốc hội.

Thứ tư: Nguyên tắc bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo tôn trọng quyền tự do thể hiện ý chí của cử tri, tạo điều kiện để quá trình lựa chọn của mỗi cử tri không bị tác động, ảnh hưởng của các cá nhân hoặc tổ chức khác.

Bỏ phiếu giúp cho người bỏ phiếu là được hoàn toàn tự do bỏ phiếu mà không sợ ai biết mình bầu cho ai, cho nên tất cả các nước trên thế giới để thực hiện nguyên tắc bỏ phiếu kín thì đều phải ngăn và che chắn thành các ô để mọi người hoàn toàn tự do khi bỏ phiếu.

Theo các nhà nghiên cứu về bầu cử: Giữa bỏ phiếu công khai và bỏ phiếu kín thì kết quả nó khác nhau. Bởi vì bỏ phiếu công khai có tâm lí đám đông, hoặc là người ta sợ bị trù dập.

Phân tích rõ ràng từng nguyên tắc trong bầu cử ở nước ta có thể thấy, yếu tố tự do, dân chủ được lồng ghép trong tất cả các nguyên tắc và việc đảm bảo bốn nguyên tắc cử: Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín trong bầu cử là thực hiện chế định dân chủ tiến bộ, văn minh.

Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nước ta quy định 4 nguyên tắc bầu cử: Nguyên tắc phổ thông; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc trực tiếp và nguyên tắc bỏ phiếu kín.

Nguyên tắc phổ thông: Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu trong bầu cử bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, (trừ những người mất trí hay những người bị tước quyền bầu cử trên cơ sở của pháp luật), đến tuổi trưởng thành đều được trao quyền bầu cử. Yêu cầu của nguyên tắc này là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong bầu cử. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân của nước ta quy định đối với việc bầu cử đại biểu Quốc hội: - Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày diễn ra bầu cử; - Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập công khai, có sự tham gia của đại diện các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân; - Thời gian bỏ phiếu được quy định thống nhất trong cả nước từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối (trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật); - Mọi công dân cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên vào danh sách cử tri; - Danh sách cử tri được niêm yết công khai chậm nhất là 40 ngày trước ngày diễn ra bầu cử; - Danh sách ứng cử viên cũng được lập và niêm yết công khai chậm nhất là 20 ngày trước ngày diễn ra bầu cử để cử tri tìm hiểu và lựa chọn.

Nguyên tắc bình đẳng: Bình đẳng trong bầu cử là nguyên tắc nhằm bảo đảm để mọi công dân đều có cơ hội ngang nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng là mỗi cử tri có một phiếu bầu đối với một cuộc bầu cử và giá trị phiếu bầu như nhau không phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã hội, sắc tộc, tôn giáo,... Nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định của pháp luật về quyền bầu cử và ứng cử của công dân. Nội dung nguyên tắc bình đẳng: Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi cư trú; Mỗi ứng cử viên chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử; Mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu. Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng, miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ lệ đại biểu thích đáng.

Nguyên tắc trực tiếp: Bầu cử trực tiếp có nghĩa là cử tri trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu, cử tri trực tiếp bầu ra đại biểu của mình chứ không qua một cấp đại diện cử tri nào. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp đòi hỏi cử tri không được nhờ người bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư. Cử tri tự bỏ lá phiếu bầu vào hòm phiếu. Trường hợp cử tri không thể tự viết phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến nơi ở của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện các thủ tục bỏ phiếu.

Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Nguyên tắc bỏ phiếu kín thể hiện ở việc loại trừ sự theo dõi và kiểm soát từ bên ngoài đối với việc thể hiện ý chí (sự bỏ phiếu) của cử tri. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tự do đầy đủ sự thể hiện ý chí của cử tri. Để bảo đảm khách quan trong việc lựa chọn của cử tri, các nước thường quy định việc bỏ phiếu kín. Ví dụ: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân nước ta quy định việc bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín. Theo nguyên tắc này, cử tri bầu ai, không bầu ai đều được bảo đảm bí mật. Khi cử tri viết phiếu bầu không ai được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết phiếu bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu. Bốn nguyên tắc nói trên là một chỉnh thể, thiếu sót ở nguyên tắc nào cũng ảnh hưởng đến nguyên tắc khác. Để buộc các chủ thể phải tuân thủ các nguyên tắc nói trên, Nhà nước pháp điển hóa các nội dung của chúng thành các quy phạm pháp luật. Có nguyên tắc được quy định rõ trong một quy định, có nguyên tắc được thể hiện bằng nhiều quy phạm pháp luật khác nhau. Theo chiều hướng của sự phát triển xã hội ngày càng mở rộng dân chủ, thì các hình thức biểu hiện của các nguyên tắc bầu cử trên đây càng đa dạng, càng phong phú, càng góp phần đảm bảo tính chất dân chủ của các cuộc bầu cử. Bầu cử là một định chế quan trọng của dân chủ, nền tảng hợp pháp để hình thành các chức danh, cơ quan lãnh đạo của các tổ chức thành viên thuộc hệ thống chính trị, trong đó có Đảng Cộng sản cầm quyền. Việc thiết kế, thực thi chế độ bầu cử tiến bộ, phù hợp, thực sự dân chủ là công việc quan trọng hàng đầu đối với bất cứ cơ quan chính quyền nhà nước, cũng như đối với tất cả các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Điểm mới bầu cử Hội đồng nhân dân cấp huyện: Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, tổ chức của Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 có sự thay đổi so với nhiệm kỳ 2016-2021 về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân, số lượng cấp phó và cơ cấu của Thường trực Hội đồng Nhân dân. Hội đồng Nhân dân cấp huyện nhiệm kỳ 2021-2026 có sự thay đổi so với nhiệm kỳ 2016-2021 theo hướng giảm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu và giảm một Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân. Cụ thể, huyện miền núi, vùng cao, hải đảo có từ 40.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 40.000 dân, cứ thêm 7.000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu (giảm 5 đại biểu). Huyện không thuộc trường hợp nêu trên, thị xã có từ 80.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 80.000 dân, cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu (giảm 5 đại biểu). Với quận, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có từ 100.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 100.000 dân, cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu (giảm 5 đại biểu). Số lượng đại biểu Hội đồng Nhân dân ở huyện, quận, thị xã, thành phố, tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương có từ 30 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc trở lên do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu (giảm 5 đại biểu). Thường trực Hội đồng Nhân dân cấp huyện gồm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, một Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và các Ủy viên là Trưởng ban của Hội đồng Nhân dân cấp huyện. Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cấp huyện có thể là đại biểu Hội đồng Nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cấp huyện là đại biểu Hội đồng Nhân dân hoạt động chuyên trách.

Tóm lại, công tác chuẩn bị bầu cử được đặt ra trong bối cảnh tình hình nguy cơ dịch bệnh COVID-19 vẫn có thể ảnh hưởng đến cuộc bầu cử nên cần phải lên phương án cho những tình huống phát sinh trường hợp mắc COVID-19 tại địa phương. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề cần được quan tâm và các cấp chính quyền, các tổ chức phụ trách bầu cử từ trung ương đến địa phương cần luôn đề cao tinh thần phòng chống dịch để bảo đảm cuộc bầu cử được diễn ra an toàn, hiệu quả../.

Tác giả bài viết: Võ Thị Nhuần

  • Nguyên tắc bầu cử phổ thông là gì năm 2024
    Cán bộ Ngành Kiểm sát tỉnh Gia Lai
  • Đang truy cập65
  • Hôm nay6,849
  • Tháng hiện tại325,127
  • Tổng lượt truy cập16,854,049