So sánh chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa tập thể vs Chủ nghĩa cá nhân

Sự khác biệt giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân là ở chỗ mỗi ý thức hệ coi là quan trọng: cá nhân hay nhóm. Nếu chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa bảo thủ, chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa phát xít, v.v. không đủ để khiến mọi người nhầm lẫn là những hệ tư tưởng chính trị khác nhau, thì bây giờ chúng ta phải đối đầu với chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Nó giống như hỏi một người về tư tưởng chính trị của anh ta và sau đó nhận xét về lựa chọn của anh ta là tốt hay xấu tùy thuộc vào bối cảnh. Sẽ dễ dàng hơn cho một cá nhân để nói rằng anh ta là một người ôn hòa hoặc tự do hơn là lựa chọn từ một trong nhiều hệ tư tưởng chính trị phức tạp. Nhưng tình hình không đơn giản như vậy trong tự nhiên. Tuy nhiên, chúng tôi ở đây để phân biệt giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể, đó là những khái niệm giúp dễ hiểu và phân biệt giữa các hệ tư tưởng chính trị khác nhau. Các từ, chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân, bản thân chúng làm cho ý nghĩa rõ ràng.

Mục lục

Từ nguyênSửa đổi

Khái niệm "chủ nghĩa cá nhân" lần đầu tiên được các nhà xã hội Pháp theo đuổi học thuyết của Saint-Simon sử dụng để mô tả cái mà họ tin là nguyên nhân của sự phân rã xã hội Pháp sau Cách mạng 1789. Thuật ngữ tuy nhiên đã được sử dụng trước đó một cách tiêu cực bởi các nhà tư tưởng của phe phản đối cuộc Cách mạng Pháp theo trường phái Thần luận như Joseph de Maistre khi họ phản đối chủ nghĩa tự do trong chính trị. Các nhà xã hội chủ nghĩa theo học thuyết của Saint-Simon không phản đối chủ nghĩa tự do chính trị nhưng họ nhìn nhận "chủ nghĩa cá nhân" là một hình thức của "chủ nghĩa vị kỷ" hoặc "vô chính phủ" hay "là sự bóc lột tàn nhẫn giữa con người với chính con người trong xã hội công nghiệp hiện đại". Trong khi các nhà phản đối chủ nghĩa cá nhân theo phái bảo thủ tấn công quan điểm bình đẳng chính trị do cuộc Cách mạng mang lại thì các nhà xã hội theo học thuyết Saint-Simon phê phán laissez-faire [chủ nghĩa tự do trong kinh tế], vì sự đổ vỡ của chủ nghĩa tự do trong kinh tế khi không thể giải quyết được vấn đề gia tăng bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo. Chủ nghĩa xã hội, một thuật ngữ được những người theo thuyết Saint-Simon đưa ra, là nhằm mang lại "sự hài hòa xã hội."[1][2][3]

Trong tiếng Anh, thuật ngữ "chủ nghĩa cá nhân" lần đầu được sử dụng là bởi các nhà theo thuyết của Owen vào những năm 1830, mặc dù còn chưa rõ là họ có bị ảnh hưởng của các nhà xã hội Saint-Simon hay không hay là họ tự đưa ra thuật ngữ này một cách độc lập.[3] Tại Anh thuật ngữ được sử dụng với ý nghĩa tích cực hơn trong các tác phẩm của James Elishama Smith. Mặc dù ban đầu ông cũng là một nhà xã hội chủ nghĩa theo phái Owen nhưng sau đó ông đã từ bỏ ý tưởng tập thể về tài sản của chủ nghĩa này và thấy ở chủ nghĩa tự do một "chủ thuyết hoàn mỹ" cho phép phát triển "tính sáng tạo bẩm sinh ban đầu." Không có chủ nghĩa cá nhân, Smith lập luận, các cá nhân không thể tạo ra những tài sản đồ sộ để làm tăng hanh phúc của mỗi cá nhân.[3] William Maccall, một nhà Nhất thể, và có thể là bạn của Smith, đưa ra khái niệm này sau đó với ảnh hưởng của John Stuart Mill, Thomas Carlyle, và Chủ nghĩa Lãng mạn Đức, với cùng một hàm ý tích cực năm 1847 trong tác phẩm "Elements of Individualism".[1]

Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể theo học thuyết Hofstede

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [363.61 KB, 35 trang ]

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ -ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
-----------o0o-----------

BÀI BÁO CÁO MÔN QUẢN TRỊ ĐA VĂN HÓA
CHỦ ĐỀ:
CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN & CHỦ NGHĨA TẬP THỂ
THEO HỌC THUYẾT HOFSTEDE

Nhóm thực hiện : Nhóm 8
Lớp

: IBS3007_6

Đà Nẵng, tháng 5 năm 2020

1


MỤC LỤC
I.

GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT.............................................................3
1. Giới Thiệu Tác Giả - Gerard Hendrik Hofstede.....................................3
2. Giới Thiệu Học Thuyết Hofstede.............................................................3

II.

CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN & CHỦ NGHĨA TẬP THỂ....................5

1. Cá nhân và tập thể trong xã hội :.............................................................5
2. Đo lường mức độ của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội:..........................5


3. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong khảo sát giá trị thế giới:
chủ nghĩa phổ quát với chủ nghĩa khép kín...................................................7
4. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong các nghiên cứu xuyên
quốc gia khác....................................................................................................7
5. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể một hay hai chiều?................8
6. Chủ nghĩa tập thể với khoảng cách quyền lực.......................................9

III. SO SÁNH CHỦ NGHĨA TẬP THỂ VÀ CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN
TRÊN TỪNG LĨNH VỰC........................................................................11
1. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể theo nghề nghiệp..................11
2. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong gia đình......................12
3. Ngôn ngữ, tính cách và hành vi trong văn hóa cá nhân và tập thể......18
3.1 Ngôn ngữ..............................................................................................18
3.2 Tính cách...............................................................................................19
3.3 Hành vi..................................................................................................20
4. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể ở trường...............................23
5. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể tại nơi làm việc.....................24
6. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể và internet................................27
7. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể và nhà nước.............................30
8. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể và ý tưởng................................32

IV. NGUỒN GỐC CỦA SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA CÁ
NHÂN-TẬP THỂ.......................................................................................34
V.
TƯƠNG LAI CỦA CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN VÀ CHỦ NGHĨA
TẬP THỂ....................................................................................................35

2



I.

GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
1. Giới Thiệu Tác Giả - Gerard Hendrik Hofstede

Gerard Hendrik Hofstede [2/10/1928 – 12/2/2020] là một nhà tâm lý học xã hội người
Hà Lan , nhân viên IBM và Giáo sư danh dự về Nhân chủng học tổ chức và Quản lý
quốc tế tại Đại học Maastricht ở Hà Lan. Sinh ra tại Gerrit và Evertine Geessine
[Veenhoven] Hofstede, Geert Hofstede theo học tại The Hague và Apeldoorn , và nhận
bằng tốt nghiệp trung học [Gymnasium Beta] vào năm 1945. Năm 1953, Hofstede tốt
nghiệp Đại học Kỹ thuật Delft .Sau khi làm việc trong ngành được mười năm, Hofstede
tham gia nghiên cứu tiến sĩ bán thời gian tại Đại học Groningen ở Hà Lan và nhận bằng
tiến sĩ tâm lý học xã hội kiêm laude năm 1967.
Sau khi tốt nghiệp Delft năm 1953, Hofstede gia nhập quân đội Hà Lan, làm nhân viên
kỹ thuật trong quân đội Hà Lan trong hai năm. Năm 1965, ông bắt đầu nghiên cứu sau
đại học tại Groningen và gia nhập IBM International, làm giảng viên quản lý và quản lý
nghiên cứu nhân sự. Ông thành lập và quản lý Phòng nghiên cứu nhân sự. Trong hai
năm nghỉ phép từ IBM từ năm 1971 đến năm 1973, ông là giảng viên thỉnh giảng tại
IMEDE [nay là Viện Phát triển Quản lý Quốc tế ]. Năm 1980, Hofstede đồng sáng lập
và trở thành Giám đốc đầu tiên của IRIC, Viện nghiên cứu về hợp tác liên văn hóa, đặt
tại Đại học Tilburg từ năm 1998.
Hofstede nhận được nhiều giải thưởng danh dự, và năm 2011 đã được phong làm Hiệp
sĩ trong Huân chương Sư tử Hà Lan .Ông có bằng tiến sĩ danh dự từ bảy trường đại học
ở châu Âu, Đại học kinh doanh Nyenrode , Đại học New Bulgaria ,Đại học Kinh tế và
Kinh doanh Athens , Đại học Gothenburg , Đại học Liège , Đại học Quản lý và Kinh tế
ISM , Đại học Pécs tại 2009, và Đại học Tartu năm 2012. Ông cũng nhận được các giáo
sư danh dự tại Đại học Hồng Kông199220002000; các trường Đại học Bắc Kinh của
kinh doanh quốc tế và Kinh tế [UIBE], Bắc Kinh, Trung Quốc ; và Đại học Renmin của
Trung Quốc , Bắc Kinh, Trung Quốc .


2. Giới Thiệu Học Thuyết Hofstede
Hofstede đã tiếp cận mô hình đầu tiên của mình như một kết quả phân tích nhân tố của
bảng khảo sát nhân lực trên toàn thế giới cho IBM vào khoảng giữa năm 1967 và 1973.
Sau đó, kết quả này đã được phân tích và chắt lọc kỹ càng. Những lý thuyết ban đầu đã
đưa ra bốn khía cạnh cần phân tích của các giá trị văn hóa: chủ nghĩa cá nhân – chủ
3


nghĩa tập thể [individualism – collectivism]; mức độ e ngại rủi ro [uncertainty
avoidance]; khoảng cách quyền lực [power distance] và masculinity-femininity [định
hướng công việc - định hướng cá nhân]. Một nghiên cứu độc lập tại Hồng Kông đã giúp
Hofstede hình thành khía cạnh thứ năm - định hướng dài hạn [long term orientation],
nhằm bao quát các khái niệm chưa được thảo luận trong mô hình ban đầu. Năm 2010,
Hofstede đưa ra khía cạnh thứ sáu để so sánh sự tự thỏa mãn [các nhu cầu bản thân] so
với sự tự kiềm chế của con người.

6 chiều văn hóa của học thuyết Hofstede
Mô hình của Hofstede giải thích sự khác biệt văn hóa quốc gia và hậu quả của chúng,
khi được giới thiệu vào năm 1980, đến vào thời điểm sự khác biệt về văn hóa giữa các
xã hội ngày càng phù hợp vì cả lý do kinh tế và chính trị. Việc phân tích dữ liệu khảo sát
và tuyên bố của ông đã khiến nhiều học viên quản lý nắm lấy mô hình, đặc biệt là sau
khi xuất bản cuốn sách năm 1991 của ông, Cultures and Organis: Software of the Mind .
Ông đã tiến hành các nghiên cứu sâu rộng về sự khác biệt văn hóa quốc gia, lần đầu tiên
ông cho những nhân viên làm việc trong các công ty con của một tập đoàn đa quốc gia
[IBM] tại 64 quốc gia. Hofstede, người đã thành lập và quản lý bộ phận nghiên cứu
nhân sự của IBM Châu Âu, đã lấy một cơ sở dữ liệu về điểm số do các cuộc khảo sát
thái độ giữa các nhân viên của IBM trên toàn thế giới và phân tích lại các hoạt động.
Các khảo sát đã được phát triển như một công cụ quản lý để kiểm tra các vấn đề liên
quan đến tình hình công việc [được xác định trước thông qua các cuộc phỏng vấn với
nhân viên].


4


II. CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN & CHỦ NGHĨA TẬP THỂ
1. Cá nhân và tập thể trong xã hội :
Nguồn gốc của sự khác biệt giữa các nền văn hóa này là một vấn đề cơ bản trong xã hội
loài người đó là vai trò của cá nhân so với vai trò của nhóm.
Đại đa số mọi người trên thế giới của chúng ta sống trong các xã hội mà lợi ích của
nhóm chiếm ưu thế so với lợi ích của cá nhân,theo Wewill gọi đó là xã hội tập thể. Nó
không đề cập đến quyền lực của nhà nước đối với cá nhân; mà đề cập đến sức mạnh của
nhóm
Nhóm đầu tiên trong cuộc sống của chúng ta đề cập đến là gia đình nơi mà chúng ta
được sinh ra.Theo cấu trúc gia đình: một đứa trẻ lớn lên không chỉ ở với cha mẹ,những
người anh em khác,mà còn có ông bà, chú bác, người giúp việc…. người ta gọi là gia
đình mở rộng. Giữa người và người trong nhóm, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau phát
triển cả về thực tiễn và tâm lý. Họ luôn nghĩ đến lợi ích của nhóm, khi làm mọt việc nào
đó đều cần thông qua ý kiến của một nhóm người và họ xem đó là một yếu tố hiển
nhiên chứ không mang ý nghĩa ép buộc.
Một nhóm khác mà người thiểu số trong thế giới của chúng ta sống trong các xã hội mà
các cộng đồng của cá nhân chiếm ưu thế so với lợi ích của nhóm, xã hội đó được gọi là
chủ nghĩa cá nhân. Ở đó một đứa trẻ sinh ra chỉ sống với cha mẹ và những người anh
em , người ta gọi đó là gia đình hạt nhân. Đứa trẻ được giáo dục lớn lên trên đôi chân
của mình, sớm học cách nghĩ về bản thân mình nhiều hơn, ví dụ Mỹ là một xã hội điển
hình cho chủ nghĩa cá nhân, đến một độ tuổi trưởng thành người con sẽ thoát ra khỏi gia
đình của họ và tự lập, giảm các mối quan hệ với cha mẹ hoặc có thể phá vỡ hoàn toàn .

2. Đo lường mức độ của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội:
Phương pháp để xác định mức độ của chủ nghĩa cá nhân được Geert Hofstede sử dụng
đó là: ông đã đặt câu hỏi cho những người được phỏng vấn về mục đích làm việc của

họ [work goal]. Câu hỏi như thế này : Xin cho biết những yếu tố nào là quan trọng đối
với bạn trong một việc làm lý tưởng ? . Sau đó mỗi mục được tính theo thang điểm từ 1
[cực kỳ quan trọng đối với tôi] đến 5 [rất ít hoặc không quan trọng] để đánh giá mức độ
quan trọng.
Kết quả là : Đối với những người theo chủ nghĩa cá nhân: Các yếu tố sau đây họ cho là
quan trọng với họ:
5


1] Thời gian cá nhân : một công việc nào đó cho bạn có thời gian dành cho cuộc sống
riêng tư hay gia đình.
2] Tự do: có tự do đáng kể trong việc áp dụng phương pháp làm việc riêng của mình
3] Thách thức: có được công việc mang tính thử thách để mình có cảm nhận riêng về
sự hoàn thành.
Lý do có thể hiểu là: Các tiêu chí thời gian cá nhân, tự do và công việc thách thức cá
nhân đều nhấn mạnh tính độc lập của nhân viên đối với tổ chức, vì thế cho biết người
chọn ba tiêu chí này thiên về chủ nghĩa cá nhân.
Những người thuộc về chủ nghĩa tập thể cho cá yếu tố sau là quan trọng :
4] Đào tạo: công việc nào đó giúp bạn có cơ hội được nâng cao tay nghề hay được học
một nghề mới.
5] Những điều kiện thể chất: có điều kiện làm việc tốt cho thể chất [thông gió, quạt
mát, không gian làm việc đầy đủ…].
6] Sử dụng kỹ năng: sử dụng đầy đủ kỹ năng, năng lực của bản thân trong công việc.
Lý do có thể hiểu là: Ba tiêu chí này lại cho thấy đề cập đến những điều mà tổ chức làm
cho nhân viên và theo cách này nhấn mạnh sự phụ thuộc của nhân viên vào điều kiện
của tổ chức mà họ xem là lý tưởng của 1 công việc,và người chọn ba tiêu chí này thiên
về chủ nghĩa tập thể.
Nhưng một hệ quả khác có liên quan đến phương diện này có thể rút ra: Đó là các nước
thiên về chủ nghĩa cá nhân thường giàu có, còn các nước thiên về chủ nghĩa tập thể
thường nghèo. Vì lẽ, ở các nước giàu có, chuyện đào tạo, điều kiện vật chất cho công

việc hay sử dụng kỹ năng là chuyện mặc nhiên, không được đặt ra một cách ráo riết.
Còn tại các nước nghèo, chúng không phải là chuyện mặc nhiên mà là dấu hiệu phân
biệt công việc tốt với công việc không tốt, nên có tầm quan trọng lớn.
Một ví dụ điển hình cho kết luận này ta thấy chỉ số IDV của Thụy Điển[71], Ả Rập Xê
Út[38], Hoa Kỳ[91], Việt Nam[20], tuy nhiên đây chỉ là theo phần lớn vì ở một số quốc
gia như Trung Quốc [20] hay Nhật Bản[46] có chỉ số IDV thấp và trung bình như vẫn
thuộc các quốc gia phát triển.

6


3. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong khảo sát giá trị thế giới:
chủ nghĩa phổ quát với chủ nghĩa khép kín
Một phương pháp khác để đo đạc con người theo cá nhân hay tập thể đó là việc xem
xét các mối quan hệ giữa nội nhóm và ngoại nhóm. Các nền văn hóa thiên về chủ nghĩa
tập thể sẽ thiên về quan hệ nội nhóm, khép kín, có khuynh hướng văn hóa đối xử với
con người trên cơ sở thuộc tính nhóm và dành cho người trong nhóm, người thân, bạn
bè những quyền lợi ưu đãi trong khi gạt bỏ người khác nhóm kể cả xứng đáng. Trong
khi cố gắng đạt được mối quan hệ hài hòa trong nội nhóm, nền văn hóa chủ nghĩa tập
thể lại thờ ơ, lạnh nhạt, thậm chí có thể tàn nhẫn, thù địch với những người khác nhóm.
Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là văn hóa làng xã tại Việt Nam, ở miền bắc nước ta
có sự phân biệt giữa làng này với làng kia bằng giọng nói, bằng thành hoàng làng, bằng
lễ tục riêng, hương ước riêng, quan niệm sống “ta về ta tắm ao ta”, trai làng thù địch,
xung đột với trai làng khác trong chuyện hôn nhân, tình yêu... Văn hóa tập thể chủ nghĩa
từ nội nhóm nhỏ [gia đình, làng xã ] mở rộng thành nội nhóm lớn [các hội đồng hương
huyện, tỉnh, vùng, miền cho những người đi xa]. Trái lại, trong các nền văn hóa thiên về
chủ nghĩa cá nhân, việc ứng xử với con người dựa trên cơ sở đó là một con người cá
nhân bất kể người đó thuộc nhóm nào. Nhà nghiên cứu người Bungary Minsho gọi đó là
“chủ nghĩa phổ quát” [universalism] và đặt tên cho chủ nghĩa tập thể là chủ nghĩa loại
trừ [exclusionism].

Tuy nhiên mối tương quan giữa loại trừ và chủ nghĩa cá nhân là mạnh mẽ nhưng không
hoàn hảo ta có thể thấy khi so sánh bảng xếp hạng của bốn mươi mốt quốc gia từ cơ sở
dữ liệu của IBM về chủ nghĩa cá nhân và về loại trừ tìm thấy sáu quốc gia có số điểm
phổ quát hơn đáng kể so với dự đoán dựa trên điểm số IDV của họ: Colombia,
Venezuela, Peru, Slovenia, Phần Lan và Thụy Điển. Văn hóa của họ theo dữ liệu WVS
của họ cởi mở hơn với các thành viên ngoài nhóm hơn dự kiến. Năm quốc gia khác đạt
điểm loại trừ nhiều hơn so với dự đoán điểm IDV của họ: Ấn Độ, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran
và Philippines. Nền văn hóa của họ có nhiều thù địch với các thành viên ngoài nhóm
hơn dự kiến.

4. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong các nghiên cứu xuyên
quốc gia khác
Ngoài nghiên cứu của Hofstede thì cũng có nhiều cuộc nghiên cứu khác liên quan đến
chủ nghĩa tập thể-cá nhân được thực hiện có giá trị tương tự như : cuộc khảo sát giá trị
7


tại Trung Quốc được Bond thực hiện với sinh viên ở 23 quốc gia [kẻ cái bảng câu trả lời
của sinh viên] đã cho thấy trong xã hội cá nhân, mối quan hệ với người khác không rõ
ràng và được sắp xếp trước; họ là tự nguyện và phải được bồi dưỡng cẩn thận. Các giá
trị ở cực cá nhân của chiều kích tích hợp mô tả các điều kiện cho mối quan hệ tự nguyện
lý tưởng. Và theo nghiên cứu đó thì trong xã hội tập thể, không cần thiết phải có những
mối quan hệ bạn bè cụ thể: ai là bạn bè của một người khác được xác định trước bởi
một gia đình hay một thành viên nhóm tàu. Mối quan hệ gia đình được duy trì bởi lòng
hiếu thảo và sự khiết tịnh ở phụ nữ và gắn liền với lòng yêu nước.
Ngoài ra còn có ba cơ sở dữ liệu giá trị xuyên quốc gia khác như : cơ sở dữ liệu của
Schwartz, GLOBE và Trompenaars. Tất cả ba kích thước hoặc danh mục có tương quan
mạnh với IDV

5. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể một hay hai chiều?

Một câu hỏi thường gặp là liệu có đúng khi coi chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể
là hai cực đối lập cùng chiều không. Họ có nên xem họ như hai chiều không? Câu trả
lời là nó phụ thuộc vào việc chúng ta so sánh toàn bộ xã hội [đó là những gì cuốn sách
của chúng ta nói về] hoặc các cá nhân trong xã hội. Điều này được gọi là mức độ của
vấn đề phân tích.
Các xã hội bao gồm rất nhiều thành viên cá nhân, nắm giữ nhiều giá trị cá nhân. Các thử
nghiệm đã chỉ ra rằng một người có thể đạt điểm cao về cả giá trị cá nhân và tập thể,
cao về loại này và thấp trên loại khác hoặc thấp trên cả hai. Vì vậy, khi chúng ta so sánh
các giá trị của cá nhân, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể nên được coi là hai chiều
riêng biệt
Khi chúng ta nghiên cứu xã hội, chúng ta so sánh hai loại dữ liệu: điểm giá trị trung
bình của các cá nhân trong mỗi xã hội và đặc điểm của xã hội là toàn bộ, bao gồm cả
các tổ chức của họ.
-

Nghiên cứu của chúng tôi và bởi những người khác đã chỉ ra rằng trong các xã
hội mà mọi người trung bình nắm giữ nhiều giá trị cá nhân hơn, họ cũng trung
bình nắm giữ ít giá trị tập thể hơn. Cá nhân có thể khác với mô hình này, nhưng
những người khác biệt ít hơn những người phù hợp với nó. Các tổ chức của các
xã hội như vậy phản ánh thực tế rằng họ phát triển hoặc được thiết kế chủ yếu để
phục vụ cho những người theo chủ nghĩa cá nhân.
8


-

Trong các xã hội trong đó những người trung bình nắm giữ nhiều giá trị tập thể
hơn, họ cũng ở độ tuổi trung bình nắm giữ ít giá trị cá nhân hơn. Các tổ chức của
các xã hội như vậy cho rằng mọi người chủ yếu là tập thể.


Do đó, ở cấp độ xã hội [hoặc quốc gia], chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể xuất
hiện như hai cực đối lập của một chiều. Vị trí của một quốc gia trên khía cạnh này cho
thấy giải pháp xã hội cho một vấn đề nan giải phổ quát: sức mạnh mong muốn của các
mối quan hệ của một người trưởng thành với [các] nhóm mà họ xác định.

6. Chủ nghĩa tập thể với khoảng cách quyền lực
Nhiều quốc gia đạt điểm cao về chỉ số khoảng cách quyền lực đạt điểm thấp về chỉ số
chủ nghĩa cá nhân và ngược lại

9


Nói cách khác, hai chiều có xu hướng tương quan ngược nhau: các quốc gia có khoảng
cách quyền lực lớn cũng có khả năng tập thể hơn và các quốc gia có khoảng cách quyền
lực nhỏ sẽ theo chủ nghĩa cá nhân hơn
Trong các nền văn hóa mà mọi người phụ thuộc vào các nhóm, những người này thường
phụ thuộc vào số liệu sức mạnh. Hầu hết các gia đình mở rộng có cấu trúc gia trưởng,
với người đứng đầu gia đình thực thi quyền lực đạo đức mạnh mẽ. Trong các nền văn
hóa mà mọi người độc lập tương đối với các nhóm, họ thường ít phụ thuộc vào những
người mạnh mẽ khác
Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ. Các nước châu Âu Latinh, và đặc biệt là Pháp
và Bỉ, đã kết hợp khoảng cách quyền lực trung bình với chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ.
Mô hình đảo ngược, khoảng cách quyền lực nhỏ kết hợp với chủ nghĩa tập thể trung
bình, đã được tìm thấy ở Áo và Israel, và khoảng cách quyền lực khá nhỏ được kết hợp
với chủ nghĩa tập thể mạnh mẽ ở Costa Rica. Costa Rica, một trong sáu nước cộng hòa
Trung Mỹ, được công nhận rộng rãi là một ngoại lệ đối với quy tắc phụ thuộc của Mỹ
Latinh vào các nhà lãnh đạo quyền lực, mà trong tiếng Tây Ban Nha được gọi là
Personalismo. Costa Rica không có một đội quân chính thức. Nó được mô tả là nền dân
chủ Latinh Latin, bắt nguồn từ nền dân chủ vững chắc nhất, mặc dù có sự nghèo đói
tương đối so với các nền kinh tế thị trường công nghiệp trên thế giới. Trong một so sánh

giữa Costa Rica và nước láng giềng Nicaragua lớn hơn nhưng nghèo hơn nhiều, chuyên
gia phát triển của Hoa Kỳ Lawrence E. Harrison đã viết:
Có nhiều bằng chứng cho thấy người Costa Rico đã cảm thấy một sự ràng buộc mạnh
mẽ hơn với những người đồng hương của họ hơn là người Nicaragu. Sự ràng buộc đó
được phản ánh trong sự nhấn mạnh lâu dài của Costa Rica về giáo dục công cộng và sức
khỏe cộng đồng; trong phong trào hợp tác mạnh mẽ hơn của nó; trong một hệ thống tư
pháp đáng chú ý theo tiêu chuẩn Mỹ Latinh vì sự vô tư và tuân thủ các khái niệm cơ bản
của quá trình đáo hạn; và trên hết là khả năng phục hồi của chính trị, khả năng tìm giải
pháp hòa bình, đánh giá cao nhu cầu thỏa hiệp.
Các trường hợp như Pháp và Costa Rica biện minh cho việc coi khoảng cách quyền lực
và chủ nghĩa tập thể là hai chiều riêng biệt, mặc dù thực tế là đối với hầu hết các quốc
gia họ đi cùng nhau. Một lý do cho mối tương quan giữa chúng là cả hai đều gắn liền
với một yếu tố thứ ba: của cải quốc gia. Nếu tài sản quốc gia không đổi [nghĩa là, nếu
10


các nước giàu chỉ được so sánh với những người giàu và chỉ nghèo với những người
nghèo], thì mối quan hệ sẽ yếu đi đáng kể.
So sánh giữa kết quả nghiên cứu của IBM và các nghiên cứu khác hỗ trợ sự khác biệt
giữa khoảng cách quyền lực và chủ nghĩa tập thể. Các nghiên cứu đối phó với sự bất
bình đẳng cho thấy kết quả tương quan với khoảng cách quyền lực hơn so với chủ nghĩa
cá nhân - chủ nghĩa tập thể và các nghiên cứu liên quan đến sự hợp nhất của các cá nhân
thành các nhóm cho thấy kết quả tương quan với chủ nghĩa tập thể hơn so với khoảng
cách quyền lực.

III. SO SÁNH CHỦ NGHĨA TẬP THỂ VÀ CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN
TRÊN TỪNG LĨNH VỰC
1. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể theo nghề nghiệp
Một tranh luận nữa ủng hộ cho việc phân biệt khoảng cách quyền lực với chủ nghĩa tập
thể là các chỉ số khoảng cách quyền lực có thể được tính toán không chỉ cho các quốc

gia mà còn cho các nghề nghiệp, các chỉ số riêng lẻ chỉ có thể được tính cho các quốc
gia, không phải cho nghề nghiệp.
Khi so sánh cách mọi người trong các ngành nghề khác nhau trả lời mười bốn câu hỏi
về mục tiêu công việc mà IDV được tính toán, câu trả lời của họ không thể được phân
loại theo chủ nghĩa cá nhân hay tập thể. Ví dụ, trong các ngành nghề khác nhau, tầm
quan trọng của thách thức và tầm quan trọng của việc sử dụng các kỹ năng đi đôi với
nhau, trong khi ở các quốc gia khác biệt thì chúng đối lập nhau. Trên khắp các ngành
nghề, khi thời gian cá nhân được đánh giá là quan trọng hơn, thách thức có xu hướng ít
quan trọng hơn, trong khi giữa các quốc gia, hai quốc gia củng cố lẫn nhau.
Một cặp thuật ngữ có thể được sử dụng để phân biệt nghề nghiệp là nội tại so với bên
ngoài. Những từ này đề cập đến những gì thúc đẩy mọi người trong một công việc, bản
thân công việc [công việc thúc đẩy nội tại] hoặc các điều kiện và phần thưởng bạn đời
được cung cấp [công việc thúc đẩy bên ngoài]. Sự khác biệt này đã được phổ biến vào
cuối những năm 1950 thông qua nghiên cứu về động lực làm việc của nhà tâm lý học
người Mỹ Frederick Herzberg và nhóm của ông, người lập luận rằng các yếu tố nội tại
là những yếu tố thúc đẩy thực sự của người dùng, trong khi những người bên ngoài đại
diện cho tâm lý vệ sinh của công việc. Những người trong các ngành nghề đòi hỏi giáo
dục nhiều hơn có xu hướng ghi điểm các yếu tố nội tại là quan trọng hơn, trong khi
11


những người có địa vị thấp hơn, nghề nghiệp giáo dục thấp hơn trước các yếu tố bên
ngoài. Sự khác biệt nội tại - bên ngoài, trong khi hữu ích để phân biệt văn hóa nghề
nghiệp, đến lượt nó không phù hợp để so sánh các quốc gia.

2. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong gia đình
Ở đầu chương này, chủ nghĩa cá nhân gắn liền với cấu trúc gia đình hạt nhân và chủ
nghĩa tập thể với cấu trúc gia đình mở rộng, sau này dẫn đến sự phân biệt giữa nhóm
trong và nhóm ngoài. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhóm, cũng như các yếu tố cơ bản
khác của văn hóa con người, trước tiên được học trong môi trường gia đình. Thực tế là

Nhật Bản đạt được một nửa trong Bảng 4.1 [với thứ hạng 35 Dòng 37 và IDV là 46] ít
nhất có thể được hiểu một phần từ thực tế là trong gia đình truyền thống Nhật Bản, chỉ
có con trai lớn nhất tiếp tục sống với cha mẹ, do đó tạo ra một cấu trúc lineal [dòng dõi
chính thống hay trực hệ] ở đâu đó giữa hạt nhân và mở rộng.
Đứa trẻ lớn lên giữa một số người lớn tuổi, bạn cùng trang lứa và đàn em học cách tự
nhiên để quan niệm về bản thân mình như một phần của một gia đình chúng tôi, một
đứa trẻ trong gia đình hạt nhân. Một đứa trẻ của một đại gia đình hiếm khi một mình,
cho dù vào ban ngày hay ban đêm.
Trong tình huống tiếp xúc xã hội căng thẳng và liên tục, việc duy trì sự hòa hợp với môi
trường xã hội của một người trở thành một đức tính quan trọng mở rộng sang các lĩnh
vực khác ngoài gia đình. Trong hầu hết các nền văn hóa tập thể, đối đầu trực tiếp với
người khác được coi là thô lỗ và không mong muốn. Từ NO hiếm khi được sử dụng, bởi
vì nói rằng NO NO là một cuộc đối đầu; Bạn có thể đúng, và chúng tôi sẽ nghĩ về nó, đó
là những ví dụ về cách từ chối một yêu cầu lịch sự. Trong cùng một suy nghĩ, từ có nên
không được suy ra như một sự chấp thuận, vì nó được sử dụng để duy trì đường dây liên
lạc: Có, tôi nghe nói bạn có nghĩa là nó có nghĩa ở Nhật Bản.
Mặt khác, trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân, nói sự thật là một đức tính tốt.
Nói sự thật về cách người ta cảm nhận là đặc điểm của một người chân thành và trung
thực. Đối đầu có thể là mặn mà; một cuộc xung đột ý kiến được cho là dẫn đến một sự
thật cao hơn. Hiệu quả của truyền thông đối với người khác nên được tính đến, nhưng
theo quy định, nó không biện minh cho việc thay đổi sự thật. Các cá nhân trưởng thành
có thể nhận phản hồi trực tiếp theo cấu trúc. Trong gia đình, trẻ em được hướng dẫn
rằng người ta phải luôn luôn nói sự thật, ngay cả khi điều đó làm tổn thương. Đối phó
với xung đột là một phần bình thường của việc sống chung như một gia đình.
12


Trong gia đình tập thể, trẻ em học cách lấy vòng bi của mình từ người khác khi có ý
kiến. Ý kiến cá nhân không tồn tại: ý kiến được xác định trước bởi nhóm. Nếu một vấn
đề mới được đưa ra mà không có ý kiến nhóm được thiết lập, một số loại hội nghị gia

đình là cần thiết trước khi có thể đưa ra ý kiến. Một đứa trẻ liên tục lên tiếng về những ý
kiến đi chệch khỏi những gì được cảm nhận chung được coi là có một đặc tính xấu.
Trong gia đình cá nhân, ngược lại, trẻ em được mong đợi và khuyến khích phát triển ý
kiến của riêng mình, và một đứa trẻ luôn chỉ phản ánh ý kiến của người khác được coi
là có tính cách yếu. Hành vi tương ứng với một nhân vật mong muốn phụ thuộc vào môi
trường văn hóa.
Lòng trung thành với nhóm là một yếu tố thiết yếu của tập thể gia đình cũng có nghĩa là
tài nguyên được chia sẻ. Nếu một thành viên của một phần mở rộng gia đình hai mươi
người có một công việc được trả lương còn những người khác thì không, thành viên
kiếm tiền được cho là chia sẻ thu nhập của mình để giúp nuôi sống cả gia đình. Trên cơ
sở nguyên tắc này, một gia đình có thể cùng nhau trang trải chi phí cho việc gửi một
thành viên để có được học vấn cao hơn, hy vọng rằng khi thành viên này sau đó có được
một công việc được trả lương cao, thu nhập cũng sẽ được chia sẻ.
Trong các nền văn hóa cá nhân, cha mẹ sẽ tự hào nếu trẻ em ngay từ nhỏ có những công
việc nhỏ để kiếm tiền tiêu vặt của chính mình, mà một mình chúng có thể quyết định
cách chi tiêu. Ở Hà Lan, cũng như nhiều quốc gia Tây Âu khác, chính phủ đóng góp
đáng kể vào chi phí sinh hoạt của sinh viên. Vào những năm 1980, hệ thống đã được
thay đổi từ trợ cấp cho phụ huynh sang trợ cấp trực tiếp cho chính học sinh, điều này
nhấn mạnh sự độc lập của họ. Nam và nữ được đối xử như những diễn viên kinh tế độc
lập từ mười tám tuổi trở đi. Ở Hoa Kỳ, thông thường sinh viên phải trả tiền cho việc học
của mình bằng cách nhận các công việc tạm thời và các khoản vay cá nhân; không có sự
hỗ trợ của chính phủ, họ cũng ít phụ thuộc vào cha mẹ và không phụ thuộc vào họ hàng
xa hơn.
Trong các nền văn hóa cá nhân, hầu hết trẻ em mong đợi và được mong đợi sẽ rời khỏi
nhà của cha mẹ và sống một mình khi chúng bắt đầu học lên cao. Trong các nền văn hóa
tập thể, đây là trường hợp ít hơn. Dữ liệu khảo sát bằng đồng hồ đo áp suất trên mười
chín quốc gia thuộc Liên minh châu Âu tương đối giàu có cho thấy rằng những người
trẻ tuổi có sử dụng lý lẽ mà Google có thể đủ khả năng để chuyển ra khỏi phạm vi hay

13



không là vấn đề của tập thể chứ không phải của cải quốc gia! Lập luận kinh tế thường
hợp lý hóa các giá trị văn hóa.
Nghĩa vụ đối với gia đình trong một xã hội tập thể không chỉ là tài chính mà còn là nghi
thức. Các lễ kỷ niệm và quan sát gia đình như lễ rửa tội, hôn nhân và đặc biệt là đám
tang là vô cùng quan trọng và không nên bỏ qua. Các nhà quản lý nước ngoài từ các xã
hội cá nhân thường ngạc nhiên bởi những lý do gia đình được đưa ra bởi các nhân viên
từ một xã hội chủ nhà tập thể, những người xin nghỉ phép đặc biệt; người nước ngoài
nghĩ rằng họ đang bị lừa, nhưng rất có thể lý do là xác thực.
Trong một nền văn hóa cá nhân, khi mọi người gặp nhau, họ cảm thấy cần phải giao tiếp
bằng miệng. Im lặng được coi là bất thường. Các cuộc trò chuyện xã hội có thể bị cấm
một cách chán nản, nhưng chúng là bắt buộc.. Trong một nền văn hóa tập thể, thực tế ở
bên nhau là đủ cảm xúc; không bắt buộc phải nói chuyện trừ khi có thông tin cần
chuyển.
Dữ liệu khảo sát Eurobarometer cho mười chín quốc gia châu Âu giàu có cho thấy sự
khác biệt đáng chú ý về mức độ mà mọi người yêu cầu đến thăm một người nổi tiếng
hoặc quán bar hàng ngày: trong các nền văn hóa tập thể hơn, hình thức xã hội này là
bình thường hơn nhiều. Các nền văn hóa, mọi người thích gặp nhau ở nhà, nếu có: Nhà
tôi là lâu đài của tôi là một câu nói của cá nhân Anh.
Nhà nhân chủng học Hoa Kỳ và tác giả nổi tiếng Edward T. Hall [1914 cường2009] đã
phân biệt các nền văn hóa trên cơ sở cách họ giao tiếp dọc theo một chiều từ bối cảnh
cao đến bối cảnh thấp. Một giao tiếp bối cảnh cao là một trong đó ít có được nói hoặc
viết bởi vì hầu hết các thông tin là trong môi trường vật lý hoặc được cho là của những
người liên quan, trong khi rất ít trong phần mã hóa, rõ ràng của tin nhắn. Kiểu giao tiếp
này là thường xuyên trong các nền văn hóa tập thể; Chuyến thăm gia đình của Hadjiwibowo là một ví dụ điển hình. Một giao tiếp ngữ cảnh thấp là một trong đó khối
lượng thông tin được trao cho mã rõ ràng, đặc trưng cho các nền văn hóa cá nhân. Rất
nhiều điều mà trong các nền văn hóa tập thể là hiển nhiên phải được nói rõ ràng trong
các nền văn hóa cá nhân. Hợp đồng kinh doanh của Mỹ dài hơn nhiều so với hợp đồng
kinh doanh của Nhật Bản.

Cùng với sự hòa thuận, một khái niệm quan trọng khác liên quan đến gia đình tập thể là
sự xấu hổ. Các xã hội theo chủ nghĩa cá nhân đã được mô tả là các nền văn hóa tội lỗi:
14


những người vi phạm các quy tắc của xã hội thường sẽ cảm thấy có lỗi, bị thúc đẩy bởi
một lương tâm được phát triển cá nhân có chức năng như một phi công nội bộ tư nhân.
Trái lại, các xã hội tập thể lại là những kẻ xấu hổ: những người thuộc một nhóm mà một
thành viên đã vi phạm các quy tắc của xã hội sẽ cảm thấy xấu hổ, dựa trên ý thức về sự
lãng quên tập thể. Xấu hổ là bản chất xã hội, trong khi tội lỗi là cá nhân; sự xấu hổ có
được cảm nhận hay không phụ thuộc vào việc hành vi xâm phạm có được người khác
biết hay không. Điều này trở nên nổi tiếng là một nguồn gốc của sự xấu hổ hơn là sự
xâm phạm. Đó không phải là trường hợp cho cảm giác tội lỗi, mà người ta cảm thấy liệu
hành vi sai trái đó có được người khác biết hay không.
Một khái niệm nữa được nhân giống trong gia đình tập thể là khuôn mặt. Mặt mất mặt,
trong ý nghĩa bị sỉ nhục, là một biểu hiện thâm nhập vào ngôn ngữ tiếng Anh từ tiếng
Trung Quốc; Tiếng Anh không có tương đương với nó. David Yau-Fai Ho, một nhà
khoa học xã hội Hồng Kông, đã định nghĩa nó như sau: Mặt bị mất khi cá nhân, do hành
động của anh ta hoặc của những người có liên quan mật thiết với anh ta, không đáp ứng
các yêu cầu thiết yếu được đặt ra bởi anh ta về vị trí xã hội mà anh ta chiếm giữ. Người
Trung Quốc cũng nói về việc mang lại cho ai đó khuôn mặt, về ý nghĩa danh dự hay uy
tín. Về cơ bản, khuôn mặt mô tả mối quan hệ đúng đắn với một môi trường xã hội, một
điều rất cần thiết đối với một người [và người đó là gia đình của họ] như là phần trước
của đầu người đó. Tầm quan trọng của khuôn mặt là hệ quả của việc sống trong một xã
hội rất ý thức về bối cảnh xã hội. Ngôn ngữ của các nền văn hóa tập thể khác có các từ
có nghĩa ít nhiều giống nhau. Ở Hy Lạp, ví dụ, có một từ philotimo; Harry Triandis, một
nhà tâm lý học người Mỹ gốc Hy Lạp, đã viết:
Một người là philotimos đến mức anh ta tuân thủ các quy tắc và giá trị trong nhóm của
mình. Chúng bao gồm nhiều sự hy sinh khác nhau được chấp thuận cho các thành viên
của một gia đình, bạn bè và những người khác, những người có liên quan đến một mối

quan hệ với một người khác ví dụ, để một người đàn ông trì hoãn hôn nhân cho đến khi
các chị gái của anh ta kết hôn và được cung cấp của hồi môn thích hợp là một phần của
những kỳ vọng chuẩn mực của người Hy Lạp nông thôn truyền thống cũng như người
Ấn Độ ở nông thôn [và nhiều người ở giữa].
Trong xã hội cá nhân, đặc tính đối tác là tự tôn trọng, nhưng điều này một lần nữa được
xác định theo quan điểm của cá nhân, trong khi khuôn mặt và philotimo được xác định
theo quan điểm của môi trường xã hội.
15


Các xã hội tập thể thường có cách tạo ra mối quan hệ giống như gia đình với những
người không phải là họ hàng sinh học nhưng được hòa nhập xã hội vào một nhóm trong
nhóm. Ví dụ, ở Mỹ Latinh, điều này có thể được thực hiện thông qua tổ chức của những
người đồng đội và những người đồng đội được coi là họ hàng ngay cả khi họ không. Tổ
chức của các bố già và mẹ đỡ đầu, vốn có truyền thống mạnh mẽ ở các quốc gia Công
giáo và Chính thống ở châu Âu, là một ví dụ khác. Ở Nhật Bản, những đứa con trai nhỏ
trong thời gian qua đã trở thành người học việc cho các bậc thầy thủ công thông qua
hình thức nhận con nuôi. Phong tục tương tự tồn tại ở trung tâm châu Âu.
Bởi vì những người trong xã hội tập thể phải tôn trọng ý kiến của người thân của họ, lựa
chọn bạn đời là một sự kiện quan trọng, không chỉ đối với các đối tác mà còn cho cả gia
đình của họ. David Buss người Mỹ đã điều phối một nghiên cứu khảo sát về các tiêu chí
để lựa chọn một đối tác hôn nhân tiềm năng. Những người được hỏi của ông bao gồm
gần mười nghìn phụ nữ và nam giới trẻ tuổi, với độ tuổi trung bình là hai mươi ba, từ ba
mươi bảy người. Đặc điểm mong muốn trên toàn cầu của cả cô dâu và chú rể là tình
yêu, lòng tốt, sự ổn định về cảm xúc, trí thông minh và sức khỏe. Các đặc điểm khác
nhau giữa cô dâu và chú rể và trên khắp các quốc gia. Sự khác biệt quốc gia chủ yếu
liên quan đến chủ nghĩa cá nhân. Ở các nước tập thể, các cô dâu thích chú rể trẻ hơn, và
họ càng căng thẳng hơn về việc họ giàu có, cần cù và trong sạch. Các cô dâu ở các nước
theo chủ nghĩa tập thể muốn chú rể của họ già hơn và giàu có hơn, nhưng chú rể siêng
năng đối với họ đóng một vai trò nhỏ hơn, và chú rể không hề hiền lành.

Tuy nhiên, các cô dâu chú rể khao khát sự trong trắng trong các cô dâu của họ, phụ
thuộc nhiều hơn vào các quốc gia nghèo đói hơn là chủ nghĩa tập thể của họ. Sự sung
túc ngày càng tăng mang đến cho phụ nữ nhiều cơ hội giáo dục hơn [trong bất kỳ xã hội
nào, khi giáo dục bắt đầu có sẵn, cha mẹ ưu tiên cho con trai, những người không cần
thiết quanh nhà]. Các cô gái bắt đầu di chuyển tự do hơn và có nhiều cơ hội gặp gỡ các
chàng trai. Mọi người có nhiều không gian sống và riêng tư. Chăm sóc y tế và phổ biến
thông tin cải thiện, bao gồm bí quyết về biện pháp tránh thai. Những người trẻ tuổi có
nhiều cơ hội hơn để khám phá tình dục, và các chuẩn mực tình dục thích nghi với tình
huống này.
Sự căng thẳng đối với các cô dâu chăm chỉ, giàu có và khiết tịnh xã hội giảng viên là hệ
quả của thực tế rằng hôn nhân là một hợp đồng giữa các gia đình, không phải cá nhân.
Cô dâu và chú rể có thể ít nói trong việc lựa chọn đối tác. Điều này không có nghĩa là
16


những cuộc hôn nhân như vậy là ít hạnh phúc. Nghiên cứu ở Ấn Độ đã cho thấy sự hài
lòng trong hôn nhân được sắp xếp nhiều hơn so với trong hôn nhân tình yêu và nhiều
hơn trong các cuộc hôn nhân tình yêu Ấn Độ hơn là trong các cuộc hôn nhân có thể.
Trong khi chủ nghĩa cá nhân văn hóa thúc đẩy việc định giá tình yêu theo kiểu La Mã,
nó có thể khiến việc phát triển sự thân mật trở nên có vấn đề. Trong một cuộc khảo sát
về vai trò của tình yêu trong hôn nhân, được trả lời bởi các sinh viên đại học nam và nữ
ở mười một quốc gia, một câu hỏi là: [phụ nữ] có tất cả những phẩm chất khác mà bạn
mong muốn, bạn sẽ kết hôn với người này nếu bạn không yêu anh ấy [cô ấy]? Các câu
trả lời khác nhau tùy theo mức độ của chủ nghĩa cá nhân trong mười một xã hội, từ 4
phần trăm có đúng và 86 phần trăm không có gì ở Hoa Kỳ đến 50 phần trăm có đúng và
39 phần trăm không có gì ở Pakistan.32 Trong các xã hội tập thể , những cân nhắc khác
ngoài tình yêu nặng nề trong hôn nhân.
Vào năm 2005, một công ty nghiên cứu thị trường có trụ sở tại New York đã nghiên cứu
các tư tưởng về vẻ đẹp và hình ảnh cơ thể của các cô gái từ mười lăm đến mười bảy
tuổi, qua các cuộc phỏng vấn qua điện thoại tại các thành phố ở mười quốc gia trên thế

giới: Brazil, Canada, Trung Quốc, Đức , Vương quốc Anh, Ý, Nhật Bản, Mexico, Ả Rập
Saudi và Hoa Kỳ. Một câu hỏi đặt ra ai là người có ảnh hưởng lớn nhất đến lý tưởng
làm đẹp của họ. Trong các nền văn hóa tập thể, những người trả lời thường được nhắc
đến nhiều nhất là bạn gái của họ trong nhóm; trong các nền văn hóa cá nhân, họ thường
nhắc đến các chàng trai [nói chung]
BẢNG 4.2 :Sự khác biệt chính giữa các xã hội tập thể và cá nhân
I: Định mức chung và gia đình
Chủ nghĩa tập thể
Chủ nghĩa cá nhân
Mọi người được sinh ra trong các gia đình Mọi người đều lớn lên để chăm sóc anh
mở rộng hoặc trong các nhóm khác tiếp tục ấy hoặc cô ấy và gia đình [hạt nhân]
bảo vệ họ để đổi lấy lòng trung thành.
ngay lập tức của anh ấy hoặc cô ấy.
Trẻ em học cách suy nghĩ theo khía cạnh Trẻ em học cách suy nghĩ theo khía
của “chúng tôi”
cạnh của “Tôi”
Các tiêu chuẩn giá trị khác nhau đối với Các tiêu chuẩn giá trị tương tự được
các nhóm trong và ngoài nhóm: loại trừ.

cho là áp dụng cho tất cả mọi người:

chủ nghĩa phổ quát.
Sự hài hòa phải luôn được duy trì và tránh Nói sự thật là một đặc điểm của một
đối đầu trực tiếp.
Tình bạn được xác định trước.

người trung thực
Tình bạn là tự nguyện và cần được bồi
17



dưỡng.
Tài nguyên nên được chia sẻ với người Sở hữu cá nhân tài nguyên, ngay cả đối
thân.
Trẻ em trưởng thành sống với cha mẹ.
Truyền thông bối cảnh cao chiếm ưu thế.

với trẻ em.
Người lớn rời khỏi nhà cha mẹ.
Truyền thông bối cảnh thấp chiếm ưu

thế.
Xã hội hóa thường xuyên ở những nơi công Nhà của tôi là lâu đài của tôi.
cộng.
Xâm phạm dẫn đến xấu hổ và mất mặt cho Xâm phạm dẫn đến mặc cảm và mất tự
bản thân và nhóm.
trọng.
Cô dâu nên trẻ trung, cần cù và trong sáng; Tiêu chí cho các đối tác kết hôn không
Chú rể nên lớn tuổi.
được xác định trước.
Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến lý tưởng Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến lý tưởng
làm đẹp của các cô gái là bạn gái.

làm đẹp của các cô gái là con trai nói
chung.

3. Ngôn ngữ, tính cách và hành vi trong văn hóa cá nhân và tập thể
III.1

Ngôn ngữ


Trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân, đòi hỏi người nói phải dùng đại từ “tôi”
khi nói chuyện. Còn các nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể cho phép bỏ hoặc yêu cầu
phải bỏ đại từ này.
Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất thường được sử dụng trong các ngôn ngữ Tây Âu [Nơi
có chỉ số IDV cao] trong thơ từ thời trung đại, trong khi đó một câu tục ngữ Arập [Nơi
có chỉ số IDV thấp] cùng thời nói “Cái Tôi ma quỷ phải bị nguyền rủa”. Mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hóa cho thấy sự khác biệt văn hóa có nguồn gốc từ xa xưa, nên sự
thay đổi này không thể nhanh chóng.
Nhà nhân chủng học người Mỹ gốc Hoa, ông Francis Hsu đã nhận xét thấy trong ngôn
ngữ Trung không có từ tương đương với từ personality trong tiếng Anh. Personality
trong tiếng Anh chỉ một thực thể riêng biệt là con người cá nhân. Bản dịch gần nhất
sang tiếng Trung là “ren” [“nhân”], từ này không những dùng để chỉ cá nhân mà còn
cả môi trường văn hóa, xã hội
Chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa cá nhân

Việc sử dụng đại từ “tôi” được phép bỏ qua.

Việc sử dụng từ “Tôi” được khuyến
khích.
18


3.2 Tính cách
Nhiều nền văn hóa châu Á có quan niệm về tính cá nhân, nhấn mạnh vào mối quan hệ
thân thuộc cơ bản của các cá nhân với nhau, trong khi ở Mỹ, các cá nhân tìm cách duy
trì sự độc lập của họ với người khác bằng cách tập trung vào bản thân và bằng cách
khám phá và thể hiện nội tâm độc đáo của họ.

Nhà tâm lý học Hoa Kỳ Solomon E. Asch đã thiết kế một thí nghiệm để kiểm tra mức
độ mà các cá nhân sẽ tuân theo phán quyết của chính họ chống lại với đa số. Đối tượng
tin rằng mình là một thành viên của một nhóm người phải phán xét xem dòng nào dài
hơn giữa hai dòng. Và không biết rằng tất cả các thành viên khác trong nhóm đang liên
minh với người thí nghiệm và họ cố tình đưa ra cùng một câu trả lời sai. Từ những năm
1950, thí nghiệm này đã được nhân rộng ở một số quốc gia. Thí nghiệm đó cho thấy
được, tỷ lệ đối tượng tuân thủ phán đoán sai có tương quan nghịch với điểm số IDV của
các quốc gia. Có nghĩa, số lượng đối tượng theo số đông cao là ở các quốc gia có chỉ số
cá nhân thấp; và số lượng đối tượng theo số đông thấp là ở các quốc gia có chỉ số cá
nhân cao.
Các nền văn hóa cá nhân khuyến khích một cái tôi độc lập, trong khi các nền văn hóa
tập thể khuyến khích một bản thân phụ thuộc lẫn nhau
Chủ nghĩa tập thể
Phụ thuộc lẫn nhau

Chủ nghĩa cá nhân
Tự lập

Mối quan hệ giữa tính cách và văn hóa quốc gia được thiết lập tương quan với nhau của
33 quốc gia giữa điểm trung bình cá tính của BigFive với điểm số các chiều văn hóa của
chúng. Mối tương quan mạnh nhất là giữa tính hướng ngoại và IDV. Tính hướng ngoại
kết hợp các nhóm tính cách tự ghi điểm sau đây có xu hướng đi cùng nhau: sự ấm áp,
tính tập thể, sự quyết đoán, hành động, tìm kiếm sự hứng thú và cảm xúc tích cực. Kết
quả cho thấy những người trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân tự đánh giá cao
hơn về các khía cạnh này so với những người trong các nền văn hóa tập thể. Hay có thể
nói rằng, con người trong chủ nghĩa tập thể có điểm hướng nội cao hơn và ngược lại con
người trong chủ nghĩa cá nhân có điểm hướng ngoại cao hơn.
Chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa cá nhân


19


Trong các bài kiểm tra tính cách, mọi người Trong các bài kiểm tra tính cách, mọi
ghi điểm hướng nội nhiều hơn.

người ghi điểm hướng ngoại nhiều hơn.

Nhà tâm lý học Hoa Kỳ David Matsumoto đã phân tích một số lượng lớn các nghiên
cứu về sự công nhận cảm xúc trong nét mặt. Kết quả được giải thích rằng các nền văn
hóa theo chủ nghĩa cá nhân khuyến khích việc thể hiện hạnh phúc nhưng không khuyến
khích việc chia sẻ nỗi buồn; trong văn hóa tập thể thì ngược lại, không khuyến khích thể
hiện hạnh phúc nhưng khuyến khích việc chia sẽ nổi buồn.
Chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa cá nhân

Thể hiện nỗi buồn được khuyến khích, và hạnh Thể hiện hạnh phúc được khuyến khích, và
phúc không được khuyến khích

nỗi buồn không được khuyến khích

3.3 Hành vi
Giáo sư Hoa Kỳ Robert Levine đã yêu cầu sinh viên quốc tế của mình thu thập dữ liệu
về nhịp sống ở quê nhà với việc thu thập tốc độ đi bộ. Phải mất 70 người trưởng thành
khỏe mạnh [đồng đều giữa nam và nữ] để đi bộ được khoảng cách sáu mươi feet ở một
trong hai địa điểm vắng vẻ ở mỗi thành phố. Trong số 31 quốc gia được khảo sát, 23
quốc gia trùng lặp với bộ IBM. Tốc độ đi bộ hóa ra có tương quan mạnh với IDV.
Những người trong các nền văn hóa cá nhân có xu hướng đi bộ nhanh hơn. Chúng tôi

giải thích kết quả này như là một biểu hiện vật lý của tự ý thức về bản thân họ: những
người trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân chủ động hơn trong việc cố gắng đi
đến một nơi nào đó.
Chủ nghĩa tập thể
Tốc độ đi bộ chậm hơn

Chủ nghĩa cá nhân
Tốc độ đi bộ nhanh hơn

Giáo sư và nhà tư vấn tiếp thị người Hà Lan Marieke de Mooij, so sánh 15 quốc gia
châu Âu, đã tìm thấy nhiều mối tương quan có ý nghĩa giữa dữ liệu hành vi của người
tiêu dùng và IDV. Những người ở các quốc gia có IDV cao có nhiều khả năng sống
trong những ngôi nhà biệt lập hơn những người ở các quốc gia có IDV thấp thường
sống trong những căn hộ hoặc căn phòng. Họ có nhiều khả năng có một khu vườn riêng
và sở hữu một caravan [kiểu nhà di động] để thư giãn vào những lúc rãnh rỗi. Họ
thường xuyên có chó và mèo làm thú cưng, điều này được đo bằng mức tiêu thụ thức ăn
20


vật nuôi trong gia đình. Họ có nhiều khả năng sở hữu bảo hiểm nhà và nhân thọ. Họ
thường tham gia vào các hoạt động tự làm: sơn – dán tường, làm gỗ, nâng cấp và sửa
chữa điện, và các hệ thống ống nước. Trong tất cả các trường hợp, IDV giải thích sự
khác biệt của đất nước tốt hơn sự giàu có của nó. Tất cả họ đều đề xuất một lối sống
trong đó con người cố gắng tự hỗ trợ và không phụ thuộc vào người khác.
Chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa cá nhân

Mô hình tiêu thụ cho thấy sự phụ thuộc vào Các mô hình tiêu thụ cho thấy lối sống
người khác.


tự hỗ trợ.

Về vấn đề thông tin, những người ở các quốc gia có IDV cao đọc nhiều sách hơn và họ
có nhiều khả năng sở hữu một máy tính cá nhân và điện thoại có hộp thư thoại. Người ở
quốc gia có IDV cao thường đánh giá quảng cáo truyền hình hữu ích cho thông tin về
sản phẩm mới. Họ phụ thuộc nhiều hơn vào truyền thông và ít hơn trên các mạng xã hội
của họ.
Chủ nghĩa tập thể
Mạng xã hội là nguồn thông tin chính.

Chủ nghĩa cá nhân
Phương tiện truyền thông là nguồn
thông tin chính.

Không có dấu hiệu nào cho thấy cư dân của các quốc gia có văn hóa theo chủ nghĩa cá
nhân khỏe mạnh hoặc không khỏe mạnh hơn so với những người đến từ các quốc gia
theo chủ nghĩa tập thể, nhưng thực tế là những người ở các nền văn hóa IDV cao tập
trung vào bản thân hơn, có thể thấy rõ trong mối quan tâm lớn hơn đối với sức khỏe của
chính họ so với các nền văn hóa IDV thấp. Nếu chúng ta xét ở các quốc gia có thu nhập
cao hơn, nơi có thể cung cấp đầy đủ các điều khoản y tế, thì những người ở các quốc gia
có văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân sẽ dành phần lớn thu nhập cá nhân cho sức khỏe của
họ. Chính phủ của các quốc gia này cũng dành một phần lớn ngân sách công cho chăm
sóc sức khỏe.
Chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa cá nhân

21



Một phần nhỏ hơn của cả thu nhập cá nhân Một phần lớn hơn của cả thu nhập cá
và công cộng được dành cho chăm sóc sức nhân và công cộng được dành cho chăm
khỏe.

sóc sức khỏe.

Văn hóa cá nhân và văn hóa tập thể đối với khuyết tật cũng khác nhau. Một cuộc khảo
sát giữa các nhân viên y tế Úc cho thấy có các phản ứng khác nhau đối với việc bị tàn
tật trong cộng đồng người nhập cư Anglo, Ả Rập, Trung Quốc, Đức, Hy Lạp và Ý.
Trong các cộng đồng có tính cá nhân [Anglo và Đức], người khuyết tật có xu hướng vui
vẻ và lạc quan, phẫn nộ và được giúp đỡ, và có kế hoạch cho một cuộc sống tương lai
bình thường nhất có thể. Trong các cộng đồng tập thể [Hy Lạp, Trung Quốc, Ả Rập], có
nhiều biểu hiện đau buồn, xấu hổ và bi quan hơn; các thành viên trong gia đình sẽ được
yêu cầu tư vấn và hỗ trợ, và họ sẽ đưa ra các quyết định chính về tương lai của người
khuyết tật đó. Người Ý có xu hướng ở giữa; miền bắc nước Ý theo chủ nghĩa cá nhân
hơn, nhưng một phần lớn người nhập cư Ý ở Úc đến từ khu vực miền nam tập thể. Một
nghiên cứu khác mô tả các câu trả lời của cùng một nhóm nhân viên y tế cho các câu
hỏi về cách các nhóm khác nhau đối phó với trẻ em khuyết tật. Một lần nữa trong các
cộng đồng có tính cá nhân, triết lý chủ đạo là đối xử với những đứa trẻ này nhiều nhất
có thể như những đứa trẻ khác, cho phép chúng tham gia vào tất cả các hoạt động khi
điều này là khả thi. Trong các cộng đồng có tính tập thể, người khuyết tật sẽ bị coi là
một sự xấu hổ đối với gia đình và sự kỳ thị đối với các thành viên của nó, đặc biệt nếu
đứa trẻ là con trai và đứa trẻ sẽ thường xuyên bị xa lánh.
Chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa cá nhân

Người khuyết tật là một sự xấu hổ đối với Người khuyết tật nên tham gia càng
gia đình và nên tránh xa tầm nhìn.


nhiều càng tốt trong cuộc sống bình
thường

4. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể ở trường
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhóm đã được định hình trong ý thức của một đứa
trẻ trong những năm đầu tiên tại gia đình được phát triển và củng cố hơn ở trường. Điều
này có thể thấy rõ trong hành vi trong lớp học. Học sinh ở các nước có nền văn hóa chủ
nghĩa tập thể thường ngại phát biểu, ngay cả khi giáo viên đặt câu hỏi cho lớp. Đối với
22


học sinh tự nhận mình là một phần của một nhóm, việc lên tiếng mà không được sự
đồng ý của nhóm là điều vô lý. Nếu giáo viên muốn học sinh lên tiếng, giáo viên nên
chỉ định một cá nhân học sinh cụ thể. Học sinh trong một nền văn hóa tập thể cũng sẽ
ngần ngại lên tiếng trong các nhóm lớn hơn mà không có giáo viên trình bày, đặc biệt
nếu có các thành viên lạ, ngoài nhóm. Nếu nhóm nhỏ hơn thì sự do dự giảm xuống. Vì
thế tổ chức nhiều nhóm nhỏ là cách để học sinh tăng tính tích cực. Ví dụ, học sinh có
thể được yêu cầu thảo luận một câu hỏi trong năm phút theo nhóm ba hoặc bốn. Mỗi
nhóm được yêu cầu chỉ định người phát ngôn. Như vậy, các câu trả lời riêng lẻ trở thành
câu trả lời của nhóm và những người trả lời câu hỏi đó dưới tên của nhóm. Thông
thường trong các bài tập tiếp theo, học sinh sẽ tự động xoay vai trò người phát ngôn.
Trong một lớp học theo chủ nghĩa tập thể, đức tinh tốt và giữ thể diện là việc được đề
cao. Đối kháng và xung đột cần tránh, ít nhất là không làm ai tổn thương. Lúc nào giáo
viên cũng đối xử với học sinh như một thành viên của nội nhóm chứ không phải là một
cá nhân riêng rẽ. Trong lớp học ở nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân, học sinh được
chờ đợi đối xử công bằng, không phụ thuộc vào tầng lớp xã hội. Tranh luận hay thảo
luận công khai thường được coi là lành mạnh.

Chủ nghĩa tập thể


Chủ nghĩa cá nhân

Học sinh chỉ phát biểu khi có sự đồng ý của Khuyến khích học sinh phát biểu một
tập thể.

cách cá nhân trong lớp học

Mục đích giáo dục giữa xã hội theo chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể là khác
nhau. Trong một nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân, giáo dục nhằm chuẩn bị cho cá
nhân một vị trí trong xã hội của các cá nhân khác. Điều đó nghĩa là học để đương đầu
với những tình huống mới, không quen, bất ngờ. Có một thái độ tích cực căn bản trước
cái mới. Mục đích của học tập là biết học như thế nào hơn là biết làm như thế nào
Chủ nghĩa tập thể
Mục tiêu giáo dục là học làm thế nào

Chủ nghĩa cá nhân
Mục tiêu giáo dục là học cách học thế
nào

23


Trong các xã hội theo chủ nghĩa tập thể, nhấn mạnh sự mô phỏng kỹ năng và đạo đức là
những điều cần thiết để trở thành một thành viên được nội nhóm chấp nhận. Do đó có
sự ưu tiên cho các sản phẩm truyền thống.
Bằng cấp cũng có giá trị khác nhau ở mỗi kiểu văn hóa. Trong xã hội theo chủ nghĩa cá
nhân, người có bằng được nâng lương, có ý thức tự trọng về bản thân. Ở các nước theo
chủ nghĩa tập thể, người có bằng cấp là một vinh dự, được tôn vinh trong nội nhóm và
cho phép người nắm giữ liên kết với các thành viên của các nhóm có địa vị cao hơn, ví

dụ, có một người bạn đời thích hợp hơn. Vì thế nên tầm quan trọng của bằng cấp ở đây
lớn hơn ở các xã hội theo chủ nghĩa cá nhân. Người ta có thể tìm mọi cách kiếm tấm
bằng, kể cả mua bán.
Chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa cá nhân

Bằng cấp giúp tiến đến vị trí cao trong nội Bằng cấp nâng cao địa vị kinh tế và sự
nhóm.

tự trọng

5. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể tại nơi làm việc
Con trai trong các xã hội tập thể có nhiều khả năng đi theo nghề nghiệp của cha họ hơn
con trai trong các xã hội cá nhân. Trong các xã hội cá nhân hơn, con trai của những
người cha làm công việc thủ công sẽ thường xuyên chuyển sang công việc không thủ
công, và ngược lại. Trong các xã hội càng tập thể, di chuyển nghề nghiệp càng thấp hơn.
Chủ nghĩa tập thể
Sự linh hoạt trong nghề nghiệp thấp

Chủ nghĩa cá nhân
Sự linh hoạt trong nghề nghiệp cao

Trong xã hội theo chủ nghĩa tập thể, người sử dụng lao động không thuê người làm như
một cá nhân mà như một người thuộc về nội nhóm. Người nhân viên sẽ hành động phù
hợp với lợi ích chung của nội nhóm đó, điều này có thể không phải lúc nào cũng trùng
với lợi ích cá nhân của anh ta. Thu nhập thường phải được chia sẻ với người thân. Trong
xã hội theo chủ nghĩa cá nhân, nhân viên làm việc theo lợi ích riêng và tổ chức công
việc sao cho kết hợp được lợi ích riêng cá nhân và lợi ích của chủ sử dụng lao động.
Chủ nghĩa tập thể


Chủ nghĩa cá nhân
24


Nhân viên là thành viên của nội nhóm và Nhân viên là những “con người kinh tế”,
theo đuổi lợi ích của nhóm

theo đuổi lợi ích của công ty khi phù
hợp với lợi ích cá nhân.

Trong xã hội tập thể, thông thường, người ta hay ưu tiên thuê mướn người họ hàng, bà
con của chủ lao động, sau đó bà con của các nhân viên đã được tuyển dụng. Làm như
thế để hạn chế rủi ro, lại lợi dụng tâm lý giữ danh dự cho gia đình và giúp đỡ để cải
thiện hành vi sai trái của một thành viên trong gia đình. Nếu một nhân viên phạm lỗi thì
do quan hệ họ hàng có tính tình cảm nên không bị sa thải. Trong xã hội cá nhân, các
mối quan hệ gia đình tại nơi làm việc thường được coi là không mong muốn, vì chúng
có thể dẫn đến có sự ưu đãi cho người thân trong gia đình và dẫn đến xung đột lợi ích.
Một số công ty có một quy tắc là nếu một nhân viên kết hôn với người cùng công ty,
một trong 2 người phải rời đi.
Chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa cá nhân

Bổ nhiệm hay thăng cấp đều có tính đến Bổ nhiệm hay thăng cấp chỉ dựa trên kỹ
nhân viên nội nhóm

năng và luật lệ

Trong xã hội tập thể, mối quan hệ giữa chủ lao động và nhân viên được nhìn nhận dưới

dạng đạo đức. Nó giống như một mối quan hệ gia đình với nghĩa vụ bảo vệ lẫn nhau để
đổi lấy sự trung thành. Hiệu suất kém của một nhân viên trong mối quan hệ này không
phải là lý do để sa thải. Các công ty Nhật Bản áp dụng cách giữ nhân viên cố định làm
việc suốt đời để đổi lấy sự trung thành của họ. Trong xã hội cá nhân, quan hệ giữa nhân
viên và chủ lao động là quan hệ giao dịch thương mại, là quan hệ tính toán giữa kẻ mua
và người bán trên chợ lao động. Quan hệ mua bán này sẽ chấm dứt nếu nhân viên làm
việc kém hay chủ hợp đồng khác đề nghị mức lương cao hơn.

Chủ nghĩa tập thể

Chủ nghĩa cá nhân

Quan hệ chủ-nhân viên là quan hệ có tính Quan hệ giữa chủ và nhân viên chỉ là
chất đạo đức, quan hệ gia đình

quan hệ hợp đồng trên thị trường lao
động

25


Chủ nghĩa cá nhân là gì?

Đừng nhầm lẫn với Chủ nghĩa tự do cá nhân.

Chủ nghĩa cá nhân hay còn gọi là cá nhân chủ nghĩa, chủ nghĩa cá thể là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả một cách nhìn nhận trên phương diện xã hội, chính trị hoặc đạo đức trong đó nhấn mạnh đến lợi ích của mỗi cá nhân, sự độc lập của con người và tầm quan trọng của tự do và tự lực của mỗi cá nhân. Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn chế mục đích và ham muốn cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài lên sự lựa chọn của cá nhân – cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Chủ nghĩa cá nhân do vậy đối lập với chủ nghĩa toàn luận, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cộng đồng, và chủ nghĩa công xã, tức là đối lập với những chủ thuyết nhấn mạnh đến việc công xã, nhóm, xã hội, chủng tộc, hoặc các mục đích quốc gia cần được đặt ưu tiên cao hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng đối lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức đối lập với bất cứ quan niệm nào cho rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài, khách thể, để hạn chế sự lựa chọn hành động của cá nhân.

Chủ nghĩa cá nhân có mối quan hệ phức tạp với chủ nghĩa vị kỷ [hiểu đơn giản là ích kỷ]. Mặc dù một số nhà cá nhân chủ nghĩa cũng là những người vị kỷ, các nhà cá nhân chủ nghĩa thường không tranh luận rằng ích kỷ về bản chất là tốt vốn có ngay từ khi sinh ra. Thay vào đó, họ tranh luận rằng các cá nhân không có trách nhiệm ràng buộc nào đối với các áp đặt của xã hội [đạo đức]; họ quan niệm rằng các cá nhân cần được tự do lựa chọn theo đuổi cách sống ích kỷ cũng như bất kỳ cách sống nào khác phù hợp với mong muốn của họ. Một số các nhà các nhân chủ nghĩa khác lại tranh luận rằng vị kỷ là “tính tương đối của đạo đức” và mô tả tính ích kỷ là một bản chất tốt.

Video liên quan

Chủ Đề