So sánh đổi mới trong quan niệm về con người trong văn học việt nam trước và sau 1975

Đổi mới trong quan niệm về con người trong văn học Việt Nam trước và sau 1975

11/09/2021 Ngữ văn

Con người luôn là đề tài không vơi cạn của văn học và đích đến của văn học luôn hướng tới con người. Hình tượng con người trong văn học thể hiện quan niệm nhân sinh của tác giả, quan niệm về văn hóa, về cuộc đời, về các quy luật vĩnh cửu của cuộc sống. Hình tượng con người tập trung mọi giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật văn học. Tuy nhiên, cũng giống như sự biến thiên không ngừng của các chuẩn mực mỹ học trong lịch sử, quan niệm về con người trong văn học cũng thay đổi theo từng thời kỳ, thời đại. Mỗi thời đại có một quan niệm về con người lý tưởng riêng, cách hiểu và đánh giá con người riêng biệt, và khi một biến cố lịch sử đủ lớn làm biến chuyển tư tưởng thì quan niệm đó cũng không còn vững chãi nữa, mà lung lay và bị thay thế.

Tìm hiểu sự thay đổi trong quan niệm về con người trong văn học qua các thời kỳ của một dân tộc có thể giúp cắt nghĩa được những biến chuyển trong quan niệm nhân sinh của dân tộc đó, phân tích sự thể hiện quan niệm con người không chỉ ở nội dung mà cả đặc trưng nghệ thuật, nâng cao mức độ đánh giá quan niệm con người trong văn học cả về chiều rộng và chiều sâu. Bên cạnh đó, khi đi sâu vào khai thác các khía cạnh trong việc thể hiện quan niệm về con người cho sẽ thấy sự phong phú, tiến bộ trong tư tưởng, văn hóa của một dân tộc, một thời đại cũng như những hạn chế cố hữu.

Quan niệm về con người của mỗi dân tộc qua từng thời kỳ đều thể hiện qua một hình tượng nhân vật văn học cụ thể, tiêu biểu. Với văn học Việt Nam, một nền văn học đã trải qua những năm tháng đấu tranh dựng nước và giữ nước, những năm tháng mà mưa bom, bão lửa trải rộng trên mọi vùng miền, hình tượng người lính trở thành một hình tượng tiêu biểu, điển hình, quy tụ những phẩm chất của thời đại và cũng thể hiện được những đặc điểm trong quan niệm của dân tộc về con người, nhất là trong và sau khi chiến tranh vừa kết thúc.

Bước ra từ chiến tranh, vẫn xuất hiện trong văn học với cây súng trên vai, nhưng sau năm 1975, nhất là từ mốc đổi mới văn học năm 1986, sự thể hiện hình tượng người lính đã có nhiều thay đổi, chuyển biến. Những thay đổi, chuyển biến này cho thấy ở tầm khái quát hơn sự chuyển biến về quan niệm con người, vì đây là hình tượng xuyên suốt cả một thời kỳ chiến đấu và duy trì tới thời kỳ đổi mới. Nhìn người lính ở các khía cạnh mới, các hoàn cảnh mới, đặt người lính vào những vai trò mới, đánh giá lại cả những huy hoàng và những mất mát của họ, văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới đã nhìn lại, đánh giá lại và thay đổi quan niệm một chiều về con người.

Trong các thể loại văn học, tiểu thuyết là thể loại có sự linh hoạt và những ưu điểm nổi trội trong việc khắc họa cái nhìn cuộc sống so với các thể loại khác. Nếu như truyện ngắn chỉ đem tới cái nhìn về con người trong khoảnh khắc, trong một lát cắt, thì tiểu thuyết đem tới cái nhìn xuyên suốt mọi số phận, mọi cuộc đời, đưa con người vào một thế giới đa chiều rộng lớn, soi chiếu con người ở mọi góc nhìn, để thấy được cả những khoảng tối âm u nhất.

Tìm hiểu sự thay đổi quan niệm về con người qua các tiểu thuyết tiêu biểu của một thời kỳ sẽ đem tới cái nhìn khái quát hơn các thể loại khác, cũng như có thể đánh giá một cách cụ thể và sâu sắc hơn sự thay đổi ấy ở các khía cạnh khác nhau, các bước thăng trầm cũng như so sánh được sự thay đổi ấy giữa các nhân vật một cách phongphú và đa dạng hơn. Tiểu thuyết là bức tranh cuộc sống hiện thực và đầy đặn nhất, đến với tiểu thuyết là đến với cuộc sống được khắc họa theo cả chiều rộng và chiều sâu.

Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới được giảng dạy một cách phổ biến trong chương trình Ngữ văn tại các trường Trung học phổ thông, cao đẳng và đại học. Sự đổi mới thể hiện qua nhiều khía cạnh, nhiều vấn đề, trong đó sự đổi mới, thay đổi trong quan niệm về con người được quan tâm và nghiên cứu sâu rộng.

Chia sẻ
  • Facebook
  • Twitter
  • Google +
  • LinkedIn

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT về CON NGƯỜI TRONG văn học VIỆT NAM từ CÁCH MẠNG THÁNG 8 1945 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [169.15 KB, 17 trang ]

Chuyên đề

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC VIỆT
NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 ĐẾN NAY

A.PHẦN MỞ ĐẦU
Quan niệm nghệ thuật về con người là vấn đề cơ bản, then chốt của tác
phẩm, chịu sự chi phối bởi cá tính sáng tạo của nhà văn. Khi tư duy nghệ thuật của
nhà văn vận động biến đổi cho phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì, từng trào
lưu văn học, thì quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn cũng thay đổi, kéo
theo sự thay đổi diện mạo của cả nền văn học. Chính vì thế, quan niệm về con
người tạo thành nhân tố vận động của nghệ thuật, đổi mới nghệ thuật. Quan niệm
nghệ thuật về con người luôn hướng con người vào chiều sâu của nó. Và đây cũng
là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn của tác phẩm văn học
nói riêng và thành tựu của người nghệ sĩ nói chung.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một trang
mới cho đất nước và con người Việt Nam, bắt đầu thời đại độc lập, tự chủ và tiến
bộ xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam cũng phải trải qua hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đầy gian khổ nhưng cũng rất đỗi hào
hùng. Mọi đổi thay về lịch sử, chính trị, tư tưởng cũng tác động sâu sắc đến văn
học, đem đến cho văn học Việt Nam những sắc diện mới, luồng sinh khí mới ở
nhiều khía cạnh, trong đó có quan niệm nghệ thuật về con người.Từ sau năm 1975,
thời hậu chiến rồi đến thời kì đổi mới, trên sự đổi mới toàn diện xã hội, lại một lần
nữa các nhà văn Việt Nam có sự thay đổi về tư duy nghệ thuật trong sự tiếp cận
với hiện thực đời sống con người. Con người trong văn học từ 1975 đến nay được
các nhà văn quan niệm không hề đơn giản, xuôi chiều; thay vào đó, các nhà văn
nhìn con người trên nhiều bậc thang giá trị, ở những tọa độ ứng xử khác nhau, ở
nhiều chiều kích, chân thực và toàn vẹn hơn. Nhờ sự thay đổi quan niệm nghệ
thuật về con người, nhà văn đã cắt nghĩa những vấn đề về cuộc sống liên quan đến
con người theo hướng đa chiều. Chính vì vậy, cấu trúc thế giới nghệ thuật ở mọi
thể loại văn học, từ đề tài, chủ đề, cảm hứng cho đến thế giới nhân vật đều có


1


những thay đổi mới mẻ, sáng tạo, giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới bí ẩn mà
đầy phức tạp của con người. Với sự vận động mạnh mẽ, văn học Việt Nam từ 1945
đến nay đã có những chuyển biến khác biệt trong cái nhìn của nhà văn về con
người, thể hiện qua những hiện tượng văn học cụ thể. Hay chính những tác phẩm,
tác giả tập trung lại làm nên những diện mạo khác nhau trong quan niệm nghệ
thuật về con người ở từng giai đoạn văn học.
Vì những lí do trên, việc nghiên cứu tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con
người trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay là cần thiết. Hiểu sâu quan niệm
nghệ thuật về con người giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện đầy đủ về từng giai
đoạn văn học, thấy được chiều sâu giá trị của từng tác phẩm văn học.

B. PHẦN NỘI DUNG
`1. Giới thuyết quan niệm nghệ thuật về con người
"Văn học là nhân học", định nghĩa ấy đã chỉ ra đối tượng chủ yếu và trung
tâm của văn học chính là con người. Tuy nhiên không phải cứ viết về con người là
trở thành sáng tác văn học. Chỉ có những sáng tác nào đem lại cho người đọc một
khám phá, phát hiện hay một sự lí giải mới mẻ về con người thì mới trở thành văn
học. Muốn làm được như vậy, trước khi cầm bút, nhà văn, nhà thơ phải có một
quan niệm nghệ thuật về con người. Nói cách khác quan niệm nghệ thuật về con
người chính là một trong những điểm khởi đầu cho sáng tạo văn chương.
Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con
người đã được hóa thân thành những nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức
thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho hình
tượng các nhân vật trong đó. Xét đến cùng, quan niệm nghệ thuật về con người là
sản phẩm của lịch sử, văn hóa, tư tưởng. Nó mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ
sĩ, gắn liền với cái nhìn đầy tính phát hiện độc đáo của nghệ sĩ. Bởi vậy mà mỗi
thời đại khác nhau lại có quan niệm nghệ thuật về con người khác nhau trong văn

học.
Quan niệm nghệ thuật về con người mang một ý nghĩa quan trọng. Cách
hiểu về con người phản ánh đúng bản chất của một nền nghệ thuật. Thậm chí có
người cho rằng: “Quan niệm con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động
2


của nghệ thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật” [V. Secbina].
Lịch sử xã hội luôn vận động làm nảy sinh những con người mới, và miêu tả
những con người ấy làm văn học đổi mới. Và sự đổi mới cách giải thích và cảm
nhận con người của nhà văn cũng làm văn học đổi thay căn bản. Nghệ sĩ đích thực
là người suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu
về con người; do đó, càng khám phá quan niệm nghệ thuật về con người thì càng đi
sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng đánh giá đúng thành tựu của họ.
Quan niệm nghệ thuật về con người biểu hiện trong toàn bộ cấu trúc của tác
phẩm văn học, trước hết ở các nhân vật, bởi “nhân vật văn học là con người được
miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học”. Muốn tìm hiểu quan
niệm nghệ thuật về con người thì phải xuất phát từ các biểu hiện lặp đi lặp lại của
nhiều nhân vật, thông qua các yếu tố bền vững, được tô đậm dùng để tạo nên
chúng như: cách xưng hô đối với nhân vật, tên gọi, công thức giới thiệu nhân vật
ngay từ đầu và những biến đổi của chúng trong tác phẩm, chân dung nhân vật...
2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945
– 1975
Cách mạng tháng Tám 1945 là một biến cố lịch sử to lớn làm đổi thay sâu
sắc đất nước và con người Việt Nam, mở đầu một thời đại mới cho văn học dân
tộc. Những đổi mới của văn học Việt Nam giai đoạn này có thể nhận thấy trên các
bình diện và nhiều cấp độ. Nhưng ở trung tâm và chiều sâu của sự biến đổi ấy là sự
thay đổi trong quan niệm về con người, là sự hình thành và vận động của quan
niệm nghệ thuật mới về con người. Quan niệm này mang tính thống nhất của cả
nền văn học và trong suốt giai đoạn 1945 – 1975, nhưng cũng mang nét đặc trưng

riêng của từng thời kì nhỏ của sự phát triển văn học văn học trong giai đoạn này:
1945 – 1954, 1954 – 1964 và 1964 – 1975.
2.1. Con người quần chúng
Cách mạng đã đem lại những biến đổi kì diệu cho con người Việt Nam, tập
hợp mọi người tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc, đặt mỗi con người trong cộng
đồng, sống với đời sống chung của đất nước trong dòng chảy xiết của lịch sử, thức
tỉnh ở mỗi con người ý thức công dân và tinh thần dân tộc tiềm tàng. Nhà văn là
một công dân, đồng thời với sự nhạy cảm của một nghệ sĩ đã cảm nhận được biến
đổi lớn lao ấy. Cũng chính nhà văn phát hiện ra sức mạnh quật khởi của dân tộc và
3


con người Việt Nam hiện ra trong vẻ đẹp mới lạ của đời sống cộng đồng. “Chúng
ta đã tìm thấy bao trùm trên chúng ta, bao trùm làng xóm, gia đình chúng ta một
cái gì lớn lao chung ấy là dân tộc” [Nguyễn Đình Thi, Nhận đường. Tạp chí Văn
nghệ, số 1, 1948]. “Cảnh tưng bừng của cả dân tộc Việt Nam đang trỗi dậy. Tôi
cảm thấy khắp nơi ở xung quanh tôi và trong lòng tôi một cuộc tái sinh màu
nhiệm” [Hoài Thanh. Tạp chí Tiên phong, số 3, 1945]
Trong bối cảnh đó, văn học thời kì 1945 – 1954 tập trung thể hiện con người
quần chúng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân vật quần chúng được xác
định cụ thể hơn, đó là công nông binh. Quần chúng công nông binh là nhân vật
trung tâm, nhân vật chính diện của nền văn học kháng chiến. Quần chúng trở thành
nguyên tắc xây dựng nghệ thuật và chuẩn mực đánh giá tác phẩm: Tác phẩm phải
biểu hiện được tư tưởng, tình cảm, khát vọng của quần chúng, phải học cách nói,
cách thể hiện của quần chúng. Sở thích và sự đánh giá của quần chúng là thước đo
thành công và giá trị của tác phẩm nghệ thuật.
Thời kì đầu, nhân vật quần chúng được thể hiện trong cảm hứng anh hùng
với vẻ đẹp bi tráng phảng phất dáng dấp những người anh hùng tráng sĩ trượng phu
thời trước [Ngày về - Chính Hữu, Tây Tiến – Quang Dũng]. Sau đó, văn học đã
chuyển sang khám phá nhân vật quần chúng từ cảm quan hiện thực và phát hiện ra

những vẻ đẹp bình dị của họ trong đời sống kháng chiến [Cá nước, Phá đường,
Bầm ơi ... – Tố Hữu, Bài ca vỡ đất – Hoàng Trung Thông...]. Phương thức trữ tình
nhập vai quần chúng được sáng tạo. Nhà thơ hóa thân vào các vai quần chúng để
bộc lộ tâm trạng, tình cảm, ao ước của họ một cách chân thực nhất. Ở truyện và kí
là sự thống nhất giữa quan điểm trần thuật của tác giả với nhân vật quần chúng,
giữa hình tượng tác giả - người kể chuyện với hình tượng quần chúng. Trong các
tác phẩm Đôi mắt, nhật kí Ở rừng [Nam Cao], Đường vui [Nguyễn Tuân]... hình
tượng người trần thuật hiện diện khá rõ nét. Các nhà văn hướng tới nhân vật quần
chúng, bày tỏ sự ngạc nhiên, cảm phục, ngợi ca trước sự anh dũng, lạc quan, hồn
nhiên của quần chúng.
Con người quần chúng là một phát hiện nghệ thuật quan trọng bậc nhất của
nền văn học thời kháng chiến chống Pháp. Cái mới trong sự thể hiện con người
quần chúng của văn học thời kì này trước hết ở việc tập trung thể hiện con người
chính trị, con người công dân.Văn học tập trung thể hiện những nét tâm lí chung
của quần chúng như lòng yêu nước, căm thù giặc, tình nghĩa đồng bào, tình cảm
4


tiền tuyến hậu phương, ý thức giai cấp.... Anh thanh niên làng vác bó tre đi cản cơ
giới địch say sưa đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn” kháng chiến [Đôi mắt – Nam
Cao]. Người nông dân xa làng tản cư thấy đau xót, tủi nhục khi nghe tin làng theo
giặc, và vui mừng phấn khởi khi nghe tin làng mình vẫn là làng kháng chiến [Làng
– Kim Lân]. Những trai làng sẵn sàng ra đi cầm súng theo tiếng gọi của Tổ quốc
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” [Đồng
chí – Chính Hữu]. Con người gắn với toàn cuộc kháng chiến, là một bộ phận trong
cái toàn cảnh rộng lớn của đất nước Việt Nam kháng chiến. Quần chúng tham dự
vào các biến cố lịch sử, gánh vác cuộc kháng chiến qua các tổ chức, các đoàn thể
của mình. Các nhân vật quần chúng chỉ được hiện ra với vẻ đẹp và sức mạnh ở
trong những tập thể ấy. Thơ trữ tình thì thể hiện những nét tâm lí và tình cảm
chung của một tầng lớp, một thế hệ, một tập thể. Đó là tiếng nói của “chúng tôi”,

“chúng ta”: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ” [Hồng Nguyên], “Chúng ta đoàn áo
vải” [Hoàng Trung Thông]. Ở văn xuôi, người ta ít chú ý xây dựng tính cách. Các
nhân vật đều được mô tả trong một nhóm, một tập thể của họ. Các tác phẩm đều
tập trung làm nổi bật hình tượng đám đông, hình tượng tập thể quần chúng [kí sự
Trần Đăng, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm...]. Với sự phát hiện con người quần chúng,
con người tập thể, chú trọng làm nổi bật con người công dân và con người hành
động, văn học Việt Nam 1945 – 1954 đã đem lại một kiểu người mới mẻ chưa từng
có trong văn học trước đó.
2.2. Con người trong sự thống nhất riêng - chung
Sau cuộc kháng chiến thắng lợi,nhân dân ta bước vào khôi phục đất nước bị
chiến tranh tàn phá nặng nề và lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.Văn
học đứng trước những yêu cầu đa dạng: một mặt là những nhu cầu tất yếu của con
người trong cuộc sống hòa bình sau hàng chục năm chiến tranh,mặt khác phải tiếp
tục cuộc đấu tranh cho những mục tiêu cách mạng : thống nhất Tổ quốc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.Quan niệm về con người của văn học thời kì này cũng trở
nên đa dạng hơn. Nổi bật vẫn là tiếp tục quan niệm về con người của văn học thời
kháng chiến và phát triển nó trong những điều kiện lịch sử mới,những yêu cầu mới
của cuộc cách mạng.
Ở trung tâm của quan niệm con người trong văn học thời kì này là khái niệm
con người mới.Văn học những năm chống thực dân Pháp dừng lại ở quan niệm con
người tập thể,chưa chú ý đến việc xây dựng những tính cách riêng. Văn học những
5


năm hòa bình đã chú ý đến những tính cách cá nhân và ngày càng coi trọng giá trị
của điển hình.Trong một số tác phẩmđã xuất hiện những nhân vật được xem như
những điển hình văn học của thời kì này.Có thể kể đến Núp trong Đất nước đứng
lên của Nguyên Ngọc,chị Tư Hậu trong Một truyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức
Ái,Khắc trong Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi…. Nhân vật đã có một dáng dấp
riêng,một bề dày về đời sống nội tâm,một quá trình vận động,biến đổi của số phận

và tính cách qua những biến cố xã hội-lịch sử. Điển hình trong văn học thời kì này
mang nét riêng,khái quát những nét tiêu biểu của số phận,tính cách của tầng lớp
giai cấp của họ,hoặc rộng hơn,mang ý nghĩa tiêu biểu cho dân tộc,cho số phận của
nhân dân [anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc,chị Trần Thị
Lý trong Người con gái Việt Nam,mẹ Tơm trong bài thơ cùng tên của Tố Hữu...].
Nét đặc trưng cơ bản trong quan niệm con người của văn học thời kì này là
con người trong sự thống nhất riêng- chung. Chiến tranh đã kết thúc,cuộc sống hòa
bình trở lại,không thể không quan tâm đến cuộc sống thường nhật và những vấn đề
về hạnh phúc,về cuộc sống riêng của mỗi con người.Quan niệm con người hài
hòa,thống nhất riêng-chung và đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân đã chi
phối các chủ đề chính yếu,các nhân vật chính và cả việc lựa chọn,xây dựng các cốt
truyện tiêu biểu của văn học thời kì này,nhất là trong mảng sáng tác về đề tài cuộc
sống hiện tại [Cái hom giỏ của Vũ Thị Thường,Con cá song của Bùi Đức Ái,Cái
sân gạch và Vụ lúa chiêm của Đào Vũ…].Một hướng khẳng định sự thống nhất
riêng chung trong văn học lúc này là sự thể hiện những cuộc đổi đời của con người
trong xã hội mới,miêu tả sự biến đổi số phận và tính cách của nhân vật trong hoàn
cảnh xã hội tốt đẹp,trong môi trường tập thể. Nhiều tác phẩm đi theo hướng này đã
thể hiện được khát vọng hạnh phúc của con người,đặc biệt là những người từng
chịu nhiều khổ đau,mất mát,thiệt thòi,bất hạnh.Những thành công trên hướng này
có thể kể đến Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương,Vợ nhặt của Kim Lân,Mùa
lạc,Đứa con nuôi của Nguyễn Khải, Anh Kengcủa Nguyễn Kiên…. Sự chuyển hóa
của con người là đi từ cái “tôi” riêng lẻ, cô đơn hòa vào cuộc sống chung, tập thể.
Tập thể được miêu tả như một môi trường trong lành, tuyệt đối thành “cái nôi” của
những tình cảm và tư tưởng mới [các truyện ngắn Mùalạc, Đứa con nuôi của
Nguyễn Khải ...
Trong thơ trữ tình, vấn đề riêng – chung cũng được đặt ra như một chủ đề
nổi bật. Riêng - chung của Xuân Diệu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên ...
đều thể hiện cuộc phấn đấu và niềm vui của con người đi từ “chân trời của một
6



người đến chân trời của tất cả” [Pôn Eeluya], cũng là con đường “từ thung lũng
đau thương đến cánh đồng vui” [Chế Lan Viên]. Chế Lan Viên so sánh “Xưa phù
du mà nay đã phù sa / Xưa bay đi mà nay không trôi mất”, và niềm hạnh phúc
trong sự hòa hợp cái riêng với cái chung : “Bốn mùa vây quanh/ Con người ở
giữa/ Tôi ở giữa người”. Ca ngợi cuộc sống mới, trong niềm vui của lao động
được giải phóng, trong sự hài hòa của con người, với thiên nhiên và xã hội, trong
hạnh phúc đổi đời... cũng là cảm hứng nổi bật của Huy Cận trong Đất nở hoa và
Bài thơ cuộc đời. Con người trong Gió lộng của Tố Hữu thì tràn đầy niềm vui
trong sự hòa hợp hoàn toàn cái riêng và cái chung, trong sự thống nhất của hiện tại
và tương lai. Đó là con người phơi phới cảm hứng lãng mạn, lúc nào cũng như
“bay lên”, “trẻ lại” với cuộc đời “ rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng” với lẽ sống
“người yêu người sống để yêu nhau”.
Nhìn chung, văn học của mười năm sau cuộc kháng chiến chống Pháp đã thể
hiện một kiểu quan niệm về con người được hình thành trong môi trường xã hội –
lịch sử của thời kỳ “quá độ” xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mô hình còn giản
đơn và mang màu sắc lí tưởng hóa. Từ con người quần chúng với những hình
tượng tập thể trong văn học kháng chiến chống Pháp đến những hình tượng nhân
vật, mang tính đại diện cho một tầng lớp, một tập thể, mà ở chiều sâu của nó là sự
thống nhất riêng – chung, là tư tưởng và lối sống hết mình vì tập thể, vì sự nghiệp
chung, đó là bước vận động của quan niệm nghệ thuật về con người qua hai thời kì
văn học.
2.3. Con người sử thi
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, đất nước và con người Việt Nam đã
sống những năm đau thương, dữ dội nhất nhưng cũng thật hào hùng, chói lọi. Văn
học cũng đã “nhập cuộc” nhanh chóng với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để
chiến thắng”, để lên hàng đầu nhiệm vụ cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu, ý
chíquyết thắng và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc.
Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học chống Mĩ cứu nước phát
triển tập trung vào một hướng lớn và đi tới đỉnh cao của nó là quan niệm con

người sử thi. Con người trong văn học chống Mĩ vẫn chủ yếu được khai thác và thể
hiện trên phương diện con người chính trị, con người công dân, nhưng mỗi cá nhân
được thể hiện như là biểu hiện tập trung của ý chí, khát vọng và sức mạnh của cả
7


cộng đồng dân tộc, thậm chí, của thời đại, của nhân loại. Trong thơ Tố Hữu, Chế
Lan Viên, con người luôn sống với những vấn đề có ý nghĩa thời đại, với tinh thần
và ý chí của cả dân tộc “Ta vì ta ba chục triệu người, Cũng vì ba ngàn triệu trên
đời”, “Việt Nam, Người là ai mà trở thành nhân loại?” [Tố Hữu], “Tên Tổ quốc
vang xa ngoài bờ cõi, Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng” [Chế Lan Viên].
Đó là con người dù ở vị trí nào cũng sống với những lí tưởng lớn lao, những tầm
“vĩ mô” trong ý thức về dân tộc, thời đại, lịch sử. Con người đó đối diện với thời
gian “hai mươi thế kỉ” của dân tộc, và phóng mình lên những tầm cao của không
gian để nhìn “nam bắc đông tây”, hỏi cả “mặt trời đỏ dậy”, để tự hào “Cả năm
châu chân lí đang nhìn theo” [Tố Hữu]...
Con người của văn học chống Mĩ là con người của ý chí lớn, của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, mỗi con người được thể hiện như là đại diện trọn vẹn cho sức
mạnh và quyết tâm của cả dân tộc, của đất nước. Ý chí ấy thấm sâu vào mọi hành
động và suy nghĩ của con người. Với chị Út Tịch [Người mẹ cầm súng] là câu nói
nổi tiếng “còn cái lai quần cũng đánh” và hình ảnh người mẹ bụng chửa vượt mặt
vẫn xông lên đánh bốt, chiếm đồn địch. Nhiều tác phẩm đặt con người trước sự lựa
chọn nghiệt ngã của sống và chết để khẳng định ý nghĩa cao cả của sự hi sinh cho
sự nghiệp giảiphóng dân tộc, cho lí tưởng cách mạng. Từ chị Sứ, anh Trỗi, các nhân
vật trong thơ Dương Hương Ly [Bài thơ về hạnh phúc], Lâm Thị Mĩ Dạ [Khoảng
trời, hố bom] ,dù ở hoàn cảnh thử thách khác nhau, nhưng trước cái chết họ đều
giống nhau trong sự dứt khoát, thanh thản, trong sáng và cao cả, chấp nhận sự hi
sinh. Đó là những con người sử thi, con người đại diện cho tầm vóc, sức mạnh, ý
chí và khát vọng của cả cộng đồng, của dân tộc, đất nước, một điểm nổi bật trong
con người của văn học thời kỳ này là ý thức và sự gắn bó với quê hương, đất nước.

Con người trong thời chống Mĩ không chỉ sống với thời gian hiện tại và ước
vọng về tương lai mà còn sống với thời gian lịch sử, đồng nhất lịch sử và hiện tại:
“Khi quá khứ, tương lai soi mình trong hiện tại”[Tố Hữu]. Thời kì chống Mĩ cũng
là lúc ý thức về chiều sâu lịch sử, truyền thống dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ.
Người ta luôn nói đến “bốn ngàn năm dồn lại hôm nay”, “bốn mươi thế kỉ cùng ra
trận”. Con người thời chống Mĩ sống trong sự dồn nén, cô đặc của thời gian, họ
sống với nhiều thế kỉ, với những truyền thống dân tộc được khơi dậy không hề xưa
cũ. Đây là điều rất mới mà con người trong các thời kì trước chưa có.

8


Với quan niệm về con người anh hùng toàn vẹn, văn học thời chống đế quốc
Mĩ chú trọng mô tả con người ở các phương diện ý thức – tư tưởng, ý chí và niềm
tin, cả ở hành động anh hùng và cũng chú ý khắc họa đời sống tình cảm, vẻ đẹp tâm
hồn. Nhiều tác phẩm đi vào khai thác cái bình tĩnh, tự tin, sự thanh thản của lòng
người ngay giữa những ngày chiến tranh, thậm chí giữa chiến trường ác liệt [Tình
yêu và báo động của Bằng Việt, Vầng trăng và những quầng lửa của Phạm Tiến
Duật...]. Thế giới tình cảm của con người thời chống Mĩ được khai thác ở nhiều
mặt, bao trùm vẫn là những tình cảm cộng đồng, tình quê hương, đất nước, nhưng
không thiếu những tình cảm riêng : tình cảm đôi lứa, tình cảm gia đình … Nếu như
trong văn học thời chống Pháp, phần đời sống cá nhân của con người hầu như bị bỏ
qua, thì văn học thời chống Mĩ lại chú trọng khai thác về thế giới nội tâm và đời
sống con người trong nhiều mối quan hệ tình cảm, để làm nổi bật lên những vẻ đẹp
tâm hồn, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, lý tưởng và tình cảm.Cách nhìn
nhận và khai thác chủ đề tình yêu trong thơ thời chống Mĩ – đặc biệt là của nhà thơ
trẻ - là một ví dụ tiêu biểu cho quan niệm và phương hướng thể hiện con người như
thế.
Từ quan niệm con người quần chúng trong văn học thời chống Pháp, với
những hình tượng tập thể còn khá giản đơn thì đến thời kì chống Mĩ nhận thức về

nhân dân đã đạt tới chiều sâu mới và những hình tượng nhân dân là thành công
đáng kể. Hình tượng nhân dân nổi bật nhất trong các trường ca viết vào giai đoạn
kết thúc và ngay sau cuộc chiến tranh[Những người đi tới biển của Thanh Thảo,
Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh], nhân dân là điểm quy tụ cho mọi nhận thức
và cảm xúc về đất nước, dân tộc [Mặt đường khát vọng và Đất ngoại ô của Nguyễn
Khoa Điềm, Cát trắng của Nguyễn Duy...]
Nhìn chung, văn học thời kì chống Mĩ đã sáng tạo những hình tượng con
người mang được dấu ấn, tầm vóc, tư tưởng và ý chí của thời đại ấy. Con người sử
thi trong văn học thời kì này với hai phương diện nổi bật là chủ nghĩa anh hùng và
vẻ đẹp tâm hồn, là một đóng góp của văn học vào việc khám phá và thể hiện con
người, đề cao sức mạnh và vẻ đẹp con người Việt Nam.
3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn từ
1975 đến nay
3.1. Con người cá nhân cá thể
9


Văn học giai đoạn 1945 – 1975 phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt của hai
cuộc chiến tranh vệ quốc, nó không thể không bị chi phối bởi những quy luật bất
thường. Theo sát nhiệm vụ chính trị, tự ý thức như một vũ khí tư tưởng, nó đã tập
trung mọi cố gắng vào việc giáo dục, đào tạo, xây dựng “con người mới”. Phát
hiện “con người cộng đồng” trong mỗi cá nhân, con người như sản phẩm hoàn hảo
của hiện thực cách mạng là cống hiến của văn học với tư cách một mặt trận tư
tưởng. Nhà văn thông qua con người để biểu hiện lịch sử, con người trở thành
phương tiện khám phá lịch sử.
Sau 1975, đất nước bước vào thời kì đổi mới, những quy luật thời bình chi
phối văn học. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi các nhà văn đã
thật sự quan tâm đến con người, có nhiều khám phá về con người. Nguyễn Minh
Châu có dịp để thực hiện điều tâm niệm từ lâu : “Bây giờ ta phải cho quyền sống
còn của dân tộc, sau này ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm

sao cho con người ngày càng tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài”. Ông
khẳng định một tư tưởng đầy sáng suốt và nhân hậu về con người để định hướng
cho ngòi bút : “ Cuộc sống trên trái đất thời nào và ở đâu cũng đầy rẫy oan khiên,
oan khuất, cái ác bao giờ cũng mạnh mẽ và lẫm liệt đầy mưu ma chước ác quỷ,
còn cái thiện thì ngu ngơ và ngây thơ, lại thường cả tin. Nhà văn tồn tại ở trên đời
có lẽ trước hết là vì thế : Để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những kẻ
cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân
tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề,
hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại trên đời để
bênh vực cho những con người không còn ai để bênh vực”.
Mười năm đầu sau khi kháng chiến chống Mĩ kết thúc, văn xuôi vẫn gắn bó
với truyền thống cũ, lấy lịch sử làm điểm quy chiếu, nhưng đã có sự quan tâm hơn
đến số phận con người. Miền cháy, Những người đi từ trong rừng ra [Nguyễn
Minh Châu], Năm 1975 họ đã sống như thế [Nguyễn Trí Huân], Đất trắng
[Nguyễn Trọng Oánh], Họ cùng thời với những ai [Thái Bá Lợi]… đã đào xới sâu
hơn vào đời sống nội tâm con người, những cảm xúc, suy nghĩ riêng tư, những dằn
vặt trăn trở…khiến cho nhân vật trở nên sinh động, chân thực hơn, đem đến cho
người đọc ấn tượng về một hiện thực không đơn giản.
Nếu trước 1975, các nhà văn có thiên hướng minh họa con người theo tiêu
chí giai cấp, thì văn học sau 1975 dần dần quan tâm đến con người ở tư cách cá
10


nhân như một “ nhân vị” độc lập. Xuất hiện con người “không trùng khít với chính
mình”, con người phức tạp nhiều chiều. Bức tranh của Nguyễn Minh Châu là con
người đối diện với chính mình, là “tòa án lương tâm” sáng suốt nhất phân xử tư
cách con người. Nguyễn Khải triết lí : “Cái thế giới tinh thần của con người là vô
cùng phức tạp vì sự vân động của nó luôn luôn nhằm tới cái thật cao thật xa”. Các
tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Dấu vết nghề nghiệp, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở
miền Nam của Nguyễn Minh Châu…đều ít nhiều diễn tả cái phức tạp của đời sống,

những giằng xé nội tâm khiến con người nhiều lúc như bị phân thân biến dạng.
Văn xuôi từ sau 1975 còn đem lại cảm giác con người là một tiểu vũ trụ đầy
bí ẩn, không thể biết hết. Các nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp, [trong Kiếm sắc,
Vàng lửa, Tướng về hưu, Những bài học nông thôn, Chút thoáng Xuân Hương],
của Nguyễn Thị Thu Huệ [trong Những đêm thắp nắng, Mùa đông ấm áp], của Ma
Văn Kháng [trong Chọn chồng, Thanh minh trời trong sáng, Anh thợ chữa khóa]
… đều có những tâm lí, tính cách, những hành động bất ngờ không thế đoán
trước.Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là “tổng hòa các mối quan hệ
xã hội”. Con người hành động có khi theo lí trí tỉnh táo, có khi lại bị chi phối bởi
tiếng nói của tâm linh, của vô thức, bản năng.
Trong văn học thời kì này thế giới con người vô cùng phức tạp: những con
người khát thèm danh vọng và quyền lực, sẵn sàng chà đạp lên đạo lí trong Bến
không chồng [Dương Hướng], Mảnh đất lắm người nhiều ma [Nguyễn Khắc
Trường]… ; những con người tầm thường, tẻ nhạt, tham lam, xấu tính, không tự ý
thức được về nghĩa lí của kiếp người trong Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng [Nguyễn
Minh Châu], Thiên sứ[Phạm Thị Hoài],Heo may gió lộng, Bồ nông ở biển, Trung
du chiều mưa buồn [Ma Văn Kháng]… ; những con người méo mó nhân tính trong
Những thiên đường mù [Dương Thu Hương]. Con người như nó vốn có, không lí
tưởng hóa, thần thánh hóa nó là đặc điểm nổi bật trong quan niệm con người của
văn học từ sau 1975. Quan niệm “con người đời thường”, “con người phàm tục”,
“không hoàn hảo” vừa giống như một sự đối thoại với quá khứ, khước từ những
quy phạm cũ, vừa đề xuất hệ giá trị mới để đánh giá con người: hệ giá trị nhân bản.
3.2. Con người đa diện
a. Con người như sản phẩm của lịch sử: Văn học sau 1975 phát hiện và bổ
sung thêm một hình thức mới của mối quan hệ con người – lịch sử: sự “lệch pha”,
11


sự không thống nhất giữa con người và cộng đồng, với cơ chế xã hội. Bên cạnh
con người chủ nhân của lịch sử, có thêm con người nạn nhân. Ở cấp “vĩ mô” của

lịch sử, cộng đồng đi theo chiều “thuận”, nhưng ở cấp độ “vi mô”, ở một cá thể
nào đó có khi lại là chiều “ngược”. Đó là tư tưởng mới của Nguyễn Khải : “Trong
cuộc đổi thay, số phận của nhiều cá nhân sẽ rất bi thảm, nhưng số phận cộng đồng
thời sau cũng cao hơn thời trước.” [Anh hùng bĩ vận]. Ở tư cách chủ nhân lịch sử,
sáng tạo ra lịch sử, con người vẫn được nhìn nhận trên tinh thần căn bản như giai
đoạn trước đây. Mẫu người tích cực cao cả, toàn tâm toàn ý phụng sự cộng đồng,
kiên trì lí tưởngmình vì mọi người có mặt trong nhiều tác phẩm : Gặp gỡ cuối
năm, Thời gian của người…[Nguyễn Khải], Mảnh đất tình yêu, Cơn giông
[Nguyễn Minh Châu], Năm 1975 họ đã sống như thế [Nguyễn Trí Huân], Họ cùng
thời với những ai [Thái Bá Lợi]…
Bên cạnh tư cách con người lịch sử, xuất hiện tư cách con người cá nhân.
Thật ra chỉ khi quan tâm đến con người như những cá nhân cụ thể, văn học mới có
thể khám phá ra sự không thống nhất giữa con người với lịch sử, với những
phương diện nào đó của mô hình xã hội. Có vô vàn lí do để mối quan hệ của một
cá nhân với cộng đồng xảy ra trục trặc. Khi đó, có thể có bi kịch, có thể có cô đơn,
bất hạnh. Cuộc đời Giang Minh Sài [Thời xa vắng] thực sự là một tấn bi hài kịch :
“… nửa đời phải yêu cái người khác yêu. Nữa đời còn lại đi yêu cái mình không
có”. Căn nguyên trực tiếp của bi kịch là anh ta thiếu bản lĩnh cá nhân : “Giá ngày
ấy em cứ sống với tình cảm của chính mình, mình có thể cứ sống như thế, không
sợ ai, không chiều theo ý ai, sống hộ ý định của người khác, cốt là để cho đẹp mặt
mọi người chứ không phải cho hạnh phúc của mình”. Nhưng căn nguyên sâu xa là
sự áp đặt của cộng đồng lên cá nhân. Sài có ý thức phản kháng nhưng anh ta đã bị
gia đình, họ hàng, đơn vịđè bẹp. Còn có thể tìm thấy những bi kịch cá nhân do
không hòa hợp với lịch sử như ở Mê lộ [Đỗ Chu], Chuyện làng ngày ấy [Võ Văn
Trực], Đám cưới không có giấy giá thú [Ma Văn Kháng], Bến không chồng
[Dương Hướng], Bi kịch nhỏ [Lê Minh Khuê]…
b. Con người duy ý chí, ảo tưởng: Văn học sau 1975 có xuất hiện những dạng con
người duy ý chí. Một dạng chuyên áp đặt ý chí chủ quan lên người khác, bất chấp
quy luật đời sống. Chúng rất có ý thức về quyền lực ý chí của mình mà không có
khả năng hiểu biết sự thật về con người, không có khái niệm về quyền cá nhân của

con người [Tuyên trong Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê, Bời trong Phiên chợ Giát
của Nguyễn Minh Châu]…Dạng thứ hai là dạng người méo mó nhân cách, hành
12


động không khác gì cái máy [chú Vạn trong Bến không chồng của Dương Hướng,
Hà, Hiếu trong Thời xa vắngcủa Lê Lựu...]. Dạng thứ ba của bệnh duy ý chí là
kiểu người cơ hội chủ nghĩa. Những người này vừa bằng sức mạnh ý chí chủ quan,
vừa lợi dụng lòng tin mù quáng của kẻ khác để mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân
[Dương, Cẩm trong Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Luông
trong Côi cút giữa cảnh đời....]
Việc phê phán mạnh mẽ quan niệm duy ý chí qua các nhân vật trên cũng
chính là để đi đến một quan niệm đầy đủ hơn, hợp lí hơn về con người. Đây là
hứng thú, một nội dung quan trọng của sự thể hiện con người trong văn xuôi từ
sau 1975.
c. Con người mang thuộc tính nhân loại:“Nhân tính” hay “con người nhân loại”
là một đặc điểm trong quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học sau 1975.
Nỗi buồn chiến tranh của Kiên [Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh] chính là khát
vọng hòa bình của loài người. Quy [Chim én bay – Nguyễn Trí Huân] đi qua cuộc
chiến tranh, trở về đời sống bình thường mà không sao sống thanh thản được. Chị
luôn luôn day dứt mãi với kỉ niệm về “những cái chết mà chị gieo cấy” cho kẻ
thù. Chị cứ “muốn tìm lại nhà những thằng ác ôn bị chị giết chết hơn mười năm
trước. Cái gì đã thúc đẩy chị, chị không thể giải thích được”.
Tình yêu là phương tiện thể hiện rõ nhất tính nhân loại của con người. Vì
mang tính cá nhân nên trong hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ nó ít có cơ hội
thể hiện. Bởi “Khi riêng tây ta thấy mình xấu hổ” [Chế Lan Viên]. Bây giờ tình
yêu đi liền với những khao khát hạnh phúc đời thường, những khao khát bản năng;
không chỉ khát khao dâng hiến mà còn là khát vọng hưởng thụ tình yêu, không chỉ
là tình yêu lí tưởng mà còn là tình yêu trần thế, không chỉ yêu về tinh thần mà còn
là về thể xác....Thơ khai thác tình yêu ở nhiều khía cạnh: hạnh phúc hay đau khổ, lí

tưởng và đời thường, được và mất... nhưng có lẽ nhiều hơn cả là những bi kịch,
nghịch lí éo le, xót đắng để chia sẻ, đồng cảm với con người [Lê Thị Mây, Đoàn
Thị Lam Luyến, Đinh Thị Thu Vân...].Thơ tình thế hệ trẻ những năm gần đây bắt
đầu xuất hiện sự quyết liệt, táo tợn. Ngay cả cách đặt nhan đề bài thơ cũng đã khác:
Giấc mơ của lưỡi, Thất vọng tạm thời, Mùa anh, Thung lũng anh và em.... [Vi
Thùy Linh], Lỗ rỗng, Căng, Nẻ, Đào thoát [Phương Lan]...

13


Việc trình bày nỗi đau khổ, cảm giác bất hạnh cô đơn, sự ghê tởm bạo lực,
việc đề cao những tình cảm có tính nhân bản của con người… cũng là những khám
phá phần con người nhân loại. Đây là điều kiện cần có để mở rộng quan niệm nghệ
thuật về con người, giúp cho văn học phản ánh cuộc sống một cách đa dạng, phong
phú, chân thực hơn.
d. Con người như một thực thể tự nhiên: Văn học thời kì này còn nhìn con người
như một sản phẩm tự nhiên với một số phương diện mà văn học Việt Nam trước
1975 hầu như không đề cập tới : nhu cầu tình dục, bản năng của con người.Một
thời kì khá dài, do hoàn cảnh chiến tranh căng thẳng, tinh thần khắc khổ dần dần
thấm sâu vào lối sống, cách nghĩ của con người khiến một số nhu cầu tự nhiên bị
hạ thấp, bị phủ nhận. Văn học sau 1975 dường như có nhu cầu cân bằng lại. Với
nhu cầu tình dục, số đông tác phẩm đã diễn tả vấn đề với tinh thần lành mạnh và
dân chủ.
Ở văn xuôi, Võ Thị Hảo trong Người sót lại của rừng cười viết về một cảnh
ngộ thật thương tâm của những người nữ thanh niên xung phong thời chống Mĩ
cứu nước, những con người đã “từng qua chiến tranh, trải qua nỗi cô đơn đặc
quánh”. Chuyện trong Bốn mươi chín cây cơm nguội của Nguyễn Quang Lập
không nghiệt ngã tới mức ấy, nhưng cũng để lại cảm giác tê tái buồn thương.
Người con gái đi qua chiến tranh, không còn cơ hội tạo dựng hạnh phúc, nhưng
nhu cầu ái ân không thôi ám ảnh, giữa khuya, chị đã lao vào cơn mưa mịt mù, đi

như kẻ mộng du, áp mặt vào một thân cây cơm nguội để tự lừa mình đó là khuôn
ngực đàn ông. Ở chừng mực đậm nhạt khác nhau, rất nhiều tác phẩm có hứng thú
diễn tả tình dục, đưa tình dục vào nhãn quan văn hóa và nhân văn : Nỗi buồn chiến
tranh [Bảo Ninh], Mảnh đất lắm người nhiều ma [Nguyễn Khắc Trường], Đám
cưới không có giấy giá thú, Chọn chồng [Ma Văn Kháng]…
Ở thơ, nếu những năm 60, những hình ảnh sex trong Người đi tìm mặt của
Hoàng Hưng bị coi là những hình ảnh sống sượng, trắn trợn; Dư Thị Hoàn khiến
cho bao người kinh ngạc khi dám đưa vào thơ cả chuyện: “Sau giây phút/ Êm đềm
trên ghế đá/ Anh không cài khuy áo ngực cho em” [Tan vỡ], thì đến hôm nay, một
đội ngũ đông đảo những cây bút trẻ của thế kỉ XXI dám nói một cách thành thực,
táo bạo nhất những điều riêng tư nhất. Họ sẵn sàng phơi trần những khát khao đam
mê: “Em yêu anh cuồng điên/ Yêu đến tan cả em/ Ào tung kí ức” [Người dệt tầm
gai], “Khỏa thân trong chăn/ Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên. Chỉ cần anh gối
14


lên đùi/ Mình ôm lấy anh ôm mình/ Biết sự bình yên của mặt đất” [Chân dung – Vi
Thùy Linh]. Tình yêu và tính dục được phơi bày một cách cuồng bạo, mãnh liệt
trong thơ Phương Lan, Quế Chi, Lynh Bacardi, Khương Hà...
e. Con người và đời sống tâm linh: Con người tâm linh là phương diện mới của
quan niệm về con người trong văn học sau 1975. Một số tác phẩm văn xuôi đề cập
đến khả năng bí ẩn của con người, sự “thông linh” giữa người sống với người chết,
giữa cõi âm và cõi dương. Trong Nỗi buồn chiến tranh, Kiên và đồng đội của anh
đã không ít lần nghe thấy những tiếng chuyện trò, đàn hát, những tiếng khóc, tiếng
gọi nhau dội lên từ dưới tầng sâu của cánh rừng đại ngàn. Linh cảm của Kiên ở tác
phẩm này cũng như những lời tiên tri của Viên trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng
cuối cùng đều ứng nghiệm cả. Ở Chim én bay, cậu bé Dũng giống như đã thấy
trước được cái chết của mình. Sự bí ẩn của cuộc đời khiến nhân vật Quy [người
bạn gái của Dũng] cho đến khi đi trọn cuộc chiến tranh, nếm trải bao biến cố, trở
nên dày dạn “vẫn âm thầm tự hỏi liệu con người có khả năng biết trước những điều

sắp xảy ra với mình không ?”.
Các nhà thơ cũng chú trong khai thác thế giới tâm linh của con người. Thế
giới thơ Hoàng Cầm là thế giới hư hư thực thực, mông lung, vô định: “Hư vô tràn
hơi ấm/ Cõi thực lạnh trăm chiều/ Mê lộ khép đìu hiu/ Khi nửa mình vắng bóng”
[Vào đường mê]. Hoàng Cầm còn viết về những người đã khuất, những mối tình đã
thành kỉ niệm, những người tình đã thành thiên cổ. Giữa họ và nhà thơ vẫn có
những mối thông giao, cách mặt mà không khuất lời, tình sâu vẫn ăm ắp. Tập thơ
99 tình khúc là cuộc trò chuyện giữa thi nhân với 13 người con gái đã đi qua đời
ông. “Khắp thơ ông cứ vang vọng tiếng khấn khứa. Mỗi thi phẩm như một giá
đồng” [Chu Văn Sơn]. Nguyễn Quang Thiều cũng luôn bị ám ảnh bởi linh hồn
những người đã chết. Chết chỉ có nghĩa là kết thúc sự sống sinh học, còn có một
đời sống khác ở ngoài con người. “Họ tiếp tục sống một đời sống đột ngột bị cắt
đứt/ Họ tiếp tục mơ những giấc mơ bị tan biến giữa chừng”, và “mượn thân xác
chúng ta, mượn giọng nói chúng ta” [Đoản ca về một buổi tối]. Thế giới tâm linh
còn bao phủ trong cả thơ Phùng Khắc Bắc, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn,
Từ Dạ Thảo.... Nhìn chung, việc thừa nhận sự tồn tại của đời sống tâm linh, sự
khám phá, phát hiện các năng lực bí ẩn cũng như biểu hiện của nó là một đóng góp
mới của văn xuôi sau 1975, khẳng định quan niệm đa chiều, giàu ý nghĩa nhân bản
về con người.
15


Với sự mở rộng một số bình diện khám phá con người, các nhà văn đã xác
lập được một hệ thống tiêu chí giá trị phù hợp với con người trong thời đại mới. Sự
thay đổi hay mở rộng hệ giá trị như vậy sẽ tạo điều kiện cho văn học nước ta hòa
nhập với văn học thế giới.

C. PHẦN KẾT LUẬN
Từ 1945 đến nay, nền văn học Việt Nam đã đi qua một chặng đường dài đầy
biến động. Sự biến động của lịch sử, tư tưởng, xã hội đã tác động mạnh mẽ đến sự

biến đổi của văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người của văn học ba mươi
năm chiến tranh cho đến thời kì đổi mới và xây dựng đất nước có cơ sở từ trong đời
sống xã hội- chính trị, đồng thời cũng thể hiện trình độ ý thức, mức độ phát triển
của nền văn học. Quan niệm ấy chi phối cả nền văn học, ở từng thể loại văn học và
mỗi tác giả nhưng ở mỗi nhà văn lại có những nét riêng những đặc điểm và sự quy
định không giống nhau tạo thành quan niệm riêng của họ.
Ở giai đoạn hiện nay, văn học Việt Nam cũng đang có những biến đổi to lớn,
sâu sắc và toàn diện. Sự biến đổi quan niệm về con người vẫn là trung tâm mọi biến
đổi của nền văn học đang ở trong một thời kì đầy phức tạp và chuyển động mạnh
mẽ. Mọi chuyển biến đang theo hướng tích cực, hướng tới xây dựng một nền văn
học vì con người, dân chủ, giàu tính nhân văn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16


1. Nguyễn Thị Bình. Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 những đổi mới cơ bản.
NXB Giáo dục, 2007
2. Nguyễn Khoa Điềm. Một vài cảm nhận về đời sống văn chương hôm nay.
Báo Văn nghệ số 35, 1994
3. Lê Bá Hán. Từ điển thuật ngữ văn học. NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999
4. Đỗ Đức Hiểu. Đổi mới phê bình văn học. NXB Khoa học xã hội, 1993
5. Nguyễn Văn Long. Văn học Việt Nam trong thời đại mới. NXB Giáo dục,
2002
6. Nguyễn Văn Long. Giáo trình Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945. NXB Đại học Sư phạm, 2007
7. Nguyễn Đăng Mạnh. Chân dung văn học. NXB Thuận Hóa, 1990
8. Nguyễn Phượng. Sự đổi mới quan niệm về con người trong văn học Việt
Nam mười năm cuối thế kỉ XX. www.doko.vn

9. Trần Đình Sử. Dẫn luận thi pháp học. NXB Giáo dục, 2005
10.Đặng Thu Thủy. Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay, những
đổi mới cơ bản. NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2011

17



Video liên quan

Chủ Đề