So sánh tác phẩm vợ nhặt

                      

Đề bài: Anh/Chị hãy phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt từ đó liên hệ với tâm trạng nhân vật liên tới cảnh chiều tà trong truyện ngắn hai đứa trẻ để làm nổi bật vẻ đẹp tình người trong cuộc sống

                      
Bài làm
                      
            Có một điểm chung giữa những tác phẩm trong thời kì 1930 – 1945, đó là đều có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa hiện thực và lãng mạn. Từ đó, các tác phẩm trong giai đoạn này luôn hiển hiện hiện thực xót xa thế nhưng lại có điều gì nhẹ nhàng lắm. Điều gì có thể khiến cho một hiện thực phũ phàng của những năm khắc nghiệt ấy trở nên dịu đi? Ấy là tình người! Từng tác phẩm dù cho viết theo thể loại gì, phong cách tác giả ra sao, nhưng tác phẩm lại luôn có tình người trong đó. Kim Lân và Thạch Lam cũng không ngoại lệ. Cách hành văn của hai tác giả có thể không giống nhau, thế nhưng từ trong câu truyện của mỗi người lại luôn nổi bật một vẻ đẹp rất nhân văn – vẻ đẹp tình người. Và chúng ta có thể nhìn rõ ràng điều đó từ bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt của Kim Lân và các nhân vật trong cảnh chiều tà của trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
                      
            Một nhà văn vô danh đã thốt lên trước dòng sông Thames rằng: "Thứ kì diệu nhất trong cuộc đời vô nghĩa chính là tình người. Chỉ cần có một chút nước thì nó nhất định vươn lên xanh tốt." Tâm tư của con người là thứ khó có thể miêu tả hay giải thích bằng lời mà chúng ta chỉ có thể cảm nhận qua chính tâm tư của bản thân. Tình người phát triển từ những tâm tư trắc ẩn và đơn thuần, chính là những suy nghĩ, cảm xúc chân thành và đẹp đẽ nhất của nhân loại. Dù là trong tăm tối hay ngoài ánh sáng, tình người vẫn giống như mầm cây tiềm tàng sức sống mãnh liệt, và sẽ bật lên tươi mát. Chính điều này là động lực, là niềm an ủi cho con người hy vọng, đưa ta vượt qua mọi khó khăn. Có ai đọc qua truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O'Henry hay tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao? Tình người chính là niềm hy vọng giúp cho Johnsy vượt qua căn bệnh hiểm nghèo, cũng chính là tình người đã vớt lên lương tâm là gợi sự sống cho Chí. Những ai tìm hiểu về Kim Lân đều biết ông được mệnh danh là "con đẻ của đồng ruộng, một lòng đi về với đất, với người thuần hậu, nguyên thủy, chất phác". Sáng lên trong tác phẩm của Kim Lân là vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân Việt Nam, những người sống cực  nhọc, lam lũ, nghèo khổ những vẫn chất phác yêu đời, lạc quan và hóm hỉnh. Tác phẩm Vợ Nhặt vẫn là một tác phẩm mang đậm phong cách của Kim Lân. Nổi bật trong những nhân vật của truyện là bà cụ Tứ - một bà mẹ già đã chịu nhiều cơ cực, khổ đau của cuộc đời.
                      
            Mượn hiện thực của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 khiến gần 2 triệu người dân chết đói, Kim Lân đem khung cảnh tiêu điều  thê thảm ấy hắt bóng đen lên từng trang viết khiến người đọc ám ảnh từ đầu đến cuối. Và trên nền của màn đói tối sầm đất trời ấy, có một câu chuyện dở khóc dở cười diễn ra: Anh Tràng, một người dân ngụ cư, đang bon chen trong dòng đời tránh những ngày chết đói, nhặt được vợ. Hoàn cảnh sáng tác và tình huống truyện đã trở thành "hậu trường" đặc sắc để nét đẹp nhân văn được bộc lộ rõ nét. Người bị ảnh hưởng và phải suy nghĩ nhiều nhất chưa chắc đã là nhân vật Tràng mà lại bà cụ Tứ. Kim Lân đã đi thật chậm, để chắc họa từng vết nhăn ở bà cụ ấy.
                              
– “Nhà văn Kim Lân viết không nhiều và chuyên về một thể loại, lại “gác bút “sớm nhưng dấu ấn của ông để lại trong lòng độc giả thì rất sâu đậm. Chỉ với 3 thiên truyện: Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí.. câu chữ của Kim Lân “gan lỳ” thách thức thời gian, đi vào chỗ sâu nhất của tâm trí người đọc.” [Lê Thành Nghị] “Kim Lân là nhà văn của đồng ruộng một lòng đi về với đất, với người thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn ngày trước” [Nguyên Hồng]

– “Vợ nhặt” dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng 8” [ Vũ Dương Quỹ]

– “Nhà văn dùng “Vợ nhặt” để làm cái đòn bẩy nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện “Vợ nhặt” đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. [Dẫn theo Hoài Việt – Nhà văn trong nhà trường: Kim Lân, NXB Giáo dục, 1999, tr.39].

2. Nhan đề “Vợ nhặt”

Đọc xong “Vợ nhặt” có nhà thơ đã viết:

“Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi

Xin từ điển hãy thêm từ “vợ nhặt”

Ngòi bút Kim Lân tưởng như cười như khóc

Đói quắt quay nhưng tha thiết tình người”

Có thể nói, “Vợ nhặt” là một cách kết hợp từ rất mới mẻ, độc đáo, thâu tóm được giá trị nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Bởi lẽ “nhặt” tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ [Kim Lân]. Trong bối cảnh nạn đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối phủ xuống mọi xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị con người trở nên rẻ rúng, người ta có thể nhặt được vợ chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ…. [Nêu ý nghĩa của nhan đề]

3. Tình huống truyện: Tràng nhặt được vợ giữa nạn đói 1945 chỉ bằng câu nói bông đùa gợi liên tưởng tới:

– Lời “tỏ tình” của Chí Phèo: Từ ngàn xưa, đôi lứa nên duyên chồng vợ thường bắt đầu từ những lời yêu thương đong đầy. Với Tràng và thị, một lời cầu hôn nghiêm túc vẫn là xa xỉ, đâu ước mong lãng mạn, ngọt ngào. Kì thực thị theo Tràng về làm vợ chỉ bằng mấy câu nói đùa cợt cho vui. Hai bận gặp gỡ mà nên duyên vợ chồng. Tràng đâu có chủ tâm gì cho cam, gã trai xấu xí, thô kệch ấy cũng chỉ tầm phơ, tầm phào sau khi chiêu đãi cô ả đói rách bốn bát bánh đúc giữa bàn dân, thiên hạ: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Tràng đùa mà thị lại theo về thật. Theo về tìm chốn nương thân, chạy trốn tử thần. Vậy là Tràng có vợ. Đâu như Chí Phèo thật bụng, mang cả tấm chân tình để tỏ bày “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” mà vẫn “xôi hỏng bỏng không”. Vậy đấy, người thật lòng lại chẳng nên cơm cháo, kẻ trớt nhả thật ít hơn đùa mà lại yên bề. Được hay thua chung quy đều tội nghiệp.

[Diêm Phố – THPT Hậu Lộc 4 ]

Sính lễ thiếu: Lệ thường, trai gái cưới xin phải sính lễ đường hoàng. Không to tát cũng phải đủ đầy thủ tục. Năm xưa chàng Sơn Tinh tài ba cưới được công chúa Mị Nương xinh đẹp phải có “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” sang trọng đấy thôi. Cô gái nghèo trong ca dao cũng thách cả “nhà khoai lang” bình dân mà ấm bụng, ấm lòng. Còn cô thị? Có gì đâu ngoài mấy câu nói chơi, bốn bát bánh đúc, cái thúng con con và một bữa no nê. Chỉ vậy mà theo người ta về làm vợ. Giá trị con người rẻ rúng, bọt bèo đến thảm hại. Nghe mà nhói nhói trong lòng, vừa tội lại càng thương cho giá trị thảm hại của con người trong năm đói thê thảm, thương đau.

[Diêm Phố – THPT Hậu Lộc 4 ]

– Nghi lễ cưới cũng chẳng có gì: Chẳng mai mối, không cưới hỏi, đón đưa dâu. Chàng nàng lầm lũi tự dắt díu nhau về trong nỗi thẹn thùng tội nghiệp. Người dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, bất ngờ, chẳng thể tin vào mắt mình, thậm chí ai đó còn mai mỉa, gièm pha: “giời đất này còn rước cải của nợ ấy về”. So với đám cưới của cô bé Dần trong truyện “Một đám cưới” của Nam Cao, cuộc hôn nhân của Tràng thiếu đi nhiều thứ. Chí ít, cô Dần còn được người ta đến rước dâu, có miếng trầu, bát nước chè tươi đãi khách, được bố và hai đứa em đưa về nhà chồng. Trái lại, thị về làm dâu giữa buổi chiều ảm đạm, một mình bước đi trong nỗi e thẹn, ngượng ngùng, chân nọ díu cả chân kia trong bộ quần áo tả tơi, cái nón tàng che lấp khuôn mặt lưỡi cày xám xịt. Đọc văn Kim Lân, biết bao người xót xa thương cảm cho phận người tủi cực, đáng thương. Ấn sâu trong trang văn là tấm lòng nhân đạo của người cầm bút.

[Diêm Phố – THPT Hậu Lộc 4 ]

4.Khung cảnh nạn đói năm 1945:

Bức tranh xóm ngụ cư bị nạn đói hoành hành, được tác giả miêu tả chân thực từ hình ảnh đến âm thanh, mùi vị [….] Nạn đói ám ảnh như Nam Cao đã từng nói: “Có lẽ cho đến những năm 2000, con cháu chúng ra cũng phải kể cho nhau nghe để rùng mình”. Điều này đã được thể hiện rất rõ qua các tác phẩm văn học cùng thời kì như: – “Chuyện cũ của Hà Nội” [Tô Hoài]: +Càng phấp phỏng, càng hoảng hốt khi trông thấy lũ lượt người đói các nơi kéo vào … Người ngồi, người chết la liệt các via hè. Suốt ngày đêm xe kéo xác chết lầm lui qua”. + Đau đớn hơn khi phải chứng kiến những đứa trẻ sống trong cảnh ấy chẳng khác nào một thứ hàng: “Lại thêm người đói các nơi ùn tới. Trong đầu chợ, nhan nhân người đem bán trẻ con. Ở làng tôi, người quay trẻ con sang bán ở các chợ bên kia sông Hồng. Có người chuyên đi buôn trẻ con, như thời thường mua bán gà lợn. Nhưng đâu bây giờ cũng hết cái ăn, ai còn mua trẻ con làm gì. Bắt đi lắm khi lại dắt về. Khốn khổ”.

– “Ô Cầu Dền” trong tập tản văn “Bát phố” [Bảo Sinh]: “Năm 1945, đây là mà chôn chung của nạn nhân chết đói. Hàng ngày, xe bò chở đầy xác chất trên phủ mảnh chiếu, chân tay thò ra ngoài, lọc cọc, rập rình, xe đu đưa những cánh tay, căng chân cũng đu đưa theo. Xác chết được đổ đầy vào một cái hố chôn chung, sau đó lấp đất phẳng, không có dấu hiệu mồ mả gì cả”. Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãi

Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!

Những thây ma thất thểu đầy đường,

Rồi ngã gục không đứng lên vì… đói!

Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,

Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm. -[“Đói” – Bàng Bá Lân]

5. Nhân vật Tràng

– Nguồn gốc, lai lịch: Là người lao động nghèo khổ, là dân ngụ cư – người từ nơi khác tản cư đến. Ngày xưa, kiếp ngụ cư vốn tủi nhục trăm bề, họ bị dân chính gốc khinh rẻ, không ai gả con gái cho: “Trai làng ở góa còn đông Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư?” – Sự thay đổi ở nhân vật Tràng vào buổi sáng hôm sau: Tràng cảm nhận được ánh sáng “sáng lóa vào hai con mắt còn cay xè của hắn”, cảm động khi nghe thấy âm thanh “tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”, hình ảnh “vợ hẳn quét lại cái sân”. Đây vốn dĩ là những hình ảnh, âm thanh rất bình dị, quen thuộc trong cuộc sống thường ngày nhưng hôm nay Tràng lại cảm thấy vô cùng cảm động, thấm thía. Chi tiết này gợi nhớ đến sự thay đổi trong diễn biến tâm lí của nhân vật Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở. Đó có lẽ là lần đầu tiên sau chuỗi ngày bị tha hóa, Chí cảm nhận được về ánh sáng và âm thanh xung quanh: “Mặt trời chắc đã lên cao và nắng chắc là rực rỡ”, nghe thấy “tiếng những người đi chợ về”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cả”. => Hạnh phúc không phải điều gì quá xa vời mà hạnh phúc có trong những điều bình thường giản dị có trong chính cuộc sống gia đình thường ngày. – Nhận xét về nhân vật: Câu chuyện về nhân vật Tràng chính là một minh chứng cho quan niệm sống đầy giá trị: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình trong những hi sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy” [“Mùa lạc” – Nguyễn Khải]. Đó là niềm tin của nhà văn Kim Lân, là sự diễn tiến tất yếu của hình tượng nhân vật và cũng là sự thật mà lịch sử đã chứng minh.

6. Nhân vật người vợ nhặt

– Tên gọi: Cách gọi tên nhân vật người vợ nhặt khiến ta nhớ tới nhân vật người đàn bà làng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” [Nguyễn Minh Châu]. Họ đều là những người đàn bà vô danh, nếu nhân vật trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được gọi là “người đàn bà”, “bà”, “mẹ”, “mụ rỗ mặt”… thì nhân vật trong “Vợ nhặt” được gọi là “thị”, “cô ả”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”…Không phải Kim Lân và Nguyễn Minh Châu nghèo vốn từ đến mức không thể đặt cho nhân vật của mình một cái tên mà qua cách gọi các nhân vật cũng đã thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Họ chính là những con người điển hình cho thời đại mà họ đang sống: Người đàn bà làng chài là điển hình cho những đau khổ, bất hạnh của những con người thời hậu chiến. Còn thị lại chính là điển hình cho số phận nghèo khổ của con người gữa nạn đói khủng khiếp năm 1945. – Tư thế “ngồi mớm ở mép giường” của thị khi về đến nhà Tràng gợi nhớ đến tư thế của người đàn bà khi đến tòa án huyện: “Sợ sệt, lúng túng tìm đến một góc tường để ngồi”. Cả hai tư thế ngồi đều cho thấy trạng thái tâm lí bất ổn, tự ti, mặc cảm của những con người nghèo khổ, bất hạnh. bất an, – Ngoại hình xấu xí của thị “cái ngực gầy lép”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “bộ quần áo rách tả tơi như tổ địa” khiến ta liên tưởng tới ngoại hình của nhân vật Thị Nở [“Chí Phèo” — Nam Cao]: “Cái mặt nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài”, “cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”. Có thể thấy, rõ ràng bức chân dung của hai người phụ nữ này không được nhìn qua con mắt của những kẻ đang yêu, không hề có sự đẽo gọt của ngôn từ nên nó trần trụi, xấu xí đến thê thảm mà mục đích chủ yếu đó là qua đó để thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Nếu nhân vật Thị Nở giúp Nam Cao cực tả bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo. Thì nhân vật thị trong “Vợ nhặt” lại giúp Kim Lân thể hiện hình ảnh số đông những con người đang lay lắt, đói khổ, đang mấp mé bên bờ vực của cái chết giữa nạn đói năm 1945.

– Hành động theo Tràng về làm vợ sau khi ăn bốn bát bánh đúc của ở nhân vật thị: + Đã cho thấy tình cảnh bi đát và thân phận tủi nhục của người nông dân trong nạn đói 1945. Bởi lẽ, theo quan niệm truyền thống của dân tộc “người ta là hoa đất”, việc dựng vợ, gả chồng là việc đại sự nên phải tìm hiểu, tính toán, chuẩn bị chu đáo kĩ càng:

“Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông

Tuy nhiên, hành động này cũng thể hiện lòng ham sống mãnh liệt của thị. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vượt lên trên cái thảm đạm, bi đát của hoàn cảnh để dựng xây mái ấm gia đình. Suy cho cùng, đó chẳng phải là niềm lạc quan, là phẩm chất đáng quý ở thị hay sao?

Tác phẩm Vợ nhặt nói về cái gì?

Tác phẩm Vợ nhặt được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo.

Tại sao lại đặt tên tác phẩm là Vợ nhặt?

Nhan đề “Vợ nhặt” gợi lại thực nạn đói khủng khiếp năm 1945. Từ đó, thấy được sự tàn bạo của chế độ thực dân, phát xít, thấy giá trị con người rẻ rúng – người ta có thể nhặt được như cọng rơm, cọng rác ngoài đường.

Chủ đề của tác phẩm Vợ nhặt là gì?

Truyện ngắn Vợ nhặt được sáng tác năm 1954 – với tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” viết năm 1945. Chủ đề của truyện: Viết về cái đói nhưng thể hiện niềm tin vào cuộc sống và tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những con người nghèo khổ.

Tác phẩm Vợ nhặt xuất xứ ở đâu?

Vợ nhặt là một tác phẩm văn học của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945 diễn ra tại Thái Bình. Được in trong tập Con chó xấu xí [truyện ngắn 1962], tiền thân của truyện là tiểu thuyết Xóm ngụ cư [1946] được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo.

Chủ Đề