Tại sao phải phân loại nợ


Thông tư số 200/2014/TT-BTC [TT 200] đã có một số thay đổi, bổ sung để phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế [IAS]. Tuy nhiên, một số nội dung liên quan đến việc phân loại ngắn hạn và dài hạn trong TT chưa nhất quán. Bài viết, đưa ra một số đề xuất, nhằm khắc phục vấn đề trên.

Phân loại ngắn hạn và dài hạn theo VAS Việt Nam:

Đoạn 37, VAS số 21 – Trình bày báo cáo tài chính [BCTC] quy định, khi lập bảng cân đối kế toán, phải phân loại và trình bày riêng biệt các tài sản thành ngắn hạn và dài hạn. Đây được xem là yêu cầu cơ bản khi lập bảng cân đối kế toán, vì các thông tin này nếu bị trình bày sai lệch sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp [DN]. VAS 21 qui định phân loại tài sản, nợ phải trả ngắn hạn và dài hạn như sau:

- Tại Đoạn 40, một tài sản được xếp vào loại tài sản ngắn hạn khi tài sản này:

+ Được dự tính để bán hoặc sử dụng trong khuôn khổ của chu kỳ kinh doanh bình thường của DN; hoặc

+ Được nắm giữ chủ yếu cho mục đích thương mại hoặc cho mục đích ngắn hạn và dự kiến thu hồi hoặc thanh toán trong vòng 12 tháng, kể từ ngày kết thúc niên độ; hoặc

+ Là tiền hoặc tài sản tương đương tiền mà việc sử dụng không gặp một hạn chế nào.

- Tại Đoạn 44, qui định một khoản nợ phải trả được xếp vào loại nợ ngắn hạn, khi khoản nợ này:

+ Được dự kiến thanh toán trong một chu kỳ kinh doanh bình thường của DN; hoặc

+ Được thanh toán trong vòng 12 tháng, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm.

- Đoạn 41 và 45 thì qui định, tất cả các tài sản khác ngoài tài sản ngắn hạn được xếp vào loại tài sản dài hạn.Tương tự, tất cả các khoản nợ phải trả khác ngoài nợ phải trả ngắn hạn được xếp vào loại nợ phải trả dài hạn.

Cách phân loại ngắn hạn và dài hạn của VAS 21 tương đồng với cách phân loại của VAS quốc tế.

Phân loại ngắn hạn và dài hạn trong chế độ kế toán:

Điều 102, Khoản 4 của TT 200/2014/TT-BTC, quy định về nguyên tắc lập và trình bày BCTC của DN, đáp ứng giả định hoạt động liên tục đã phân loại ngắn hạn và dài hạn như sau:

Tài sản và nợ phải trả trên bảng cân đối kế toán phải được trình bày thành ngắn hạn và dài hạn; trong từng phần ngắn hạn và dài hạn, các chỉ tiêu được sắp xếp theo tính thanh khoản giảm dần.

- Tài sản hoặc nợ phải trả có thời gian đáo hạn còn lại không quá 12 tháng hoặc một chu kỳ sản xuất, kinh doanh thông thường, kể từ thời điểm báo cáo được phân loại là ngắn hạn;

- Những tài sản và nợ phải trả không được phân loại là ngắn hạn thì được phân loại là dài hạn.

- Khi lập BCTC, kế toán phải thực hiện tái phân loại tài sản và nợ phải trả được phân loại là dài hạn trong kỳ trước nhưng có thời gian đáo hạn còn lại không quá 12 tháng hoặc một chu kỳ sản xuất, kinh doanh thông thường, kể từ thời điểm báo cáo thành ngắn hạn.”

Như vậy, mặc dù VAS sử dụng thuật ngữ “trong vòng 12 tháng” và Điều 102 của chế độ kế toán sử dụng thuật ngữ “không quá 12 tháng” nhưng bản chất của 2 thuật ngữ là như nhau. Điều này đảm bảo tính thống nhất giữa VAS và CĐKTDN. Tuy nhiên, trong các phần quy định cụ thể của chế độ kế toán lại có những cách diễn đạt chưa thống nhất với nguyên tắc lập BCTC, trình bày ở Điều 102. Cụ thể như sau:

- Điều 35, khi trình bày tiêu chuẩn tài sản cố định lại ghi “Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên”. Điều này không hợp lý vì “từ 1 năm trở lên” nghĩa là, bao gồm cả tài sản thời gian sử dụng 12 tháng. Trong khi đó, tài sản có thời gian sử dụng 12 tháng thì vẫn thuộc “trong vòng 12 tháng” hoặc “không quá 12 tháng” tức là phải thuộc nhóm tài sản ngắn hạn. Trong khi đó, tài sản cố định lại là một tài sản dài hạn.

- Nhiều trường hợp phân loại ngắn hạn, dựa vào mốc thời gian “dưới 12 tháng” và dài hạn dựa vào mốc thời gian “từ 12 tháng”. Việc quy định “dưới 12 tháng” đối với tài sản, nợ phải trả ngắn hạn và “từ 12 tháng” đối với tài sản, nợ phải trả dài hạn trong những trường hợp này chưa hợp lý và cũng không nhất quán với nguyên tắc lập BCTC, đã nêu tại Điều 102. Cụ thể gồm:

+ Điều 16, Mục 1, Điểm b, khi phân loại khoản đầu tư giữ đến ngày đáo hạn thì ghi “Khi lập BCTC, kế toán căn cứ vào kỳ hạn còn lại [dưới 12 tháng hay từ 12 tháng trở lên, kể từ thời điểm báo cáo] để trình bày là tài sản ngắn hạn hoặc dài hạn”.

+ Điều 112, Mục 1.2.1, Điểm a, khi trình bày nguyên tắc phân loại tài sản ngắn hạn và dài hạn ghi “Tài sản và nợ phải trả được thu hồi hay thanh toán từ 12 tháng trở lên, kể từ thời điểm báo cáo được xếp vào loại dài hạn”.

+ Phần hướng dẫn lập chỉ tiêu “Nợ dài hạn” [Mã số 330] của bảng cân đối kế toán thì ghi “Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tổng giá trị các khoản nợ dài hạn của DN, bao gồm những khoản nợ có thời hạn thanh toán còn lại từ 12 tháng trở lên,…”.

- Trong toàn bộ chế độ kế toán, khi phân biệt ngắn hạn và dài hạn thì dựa vào mốc thời gian 12 tháng và được tính tại thời điểm báo cáo nhưng tại Điều 112, khi hướng dẫn phân loại chi phí trả trước ngắn hạn và dài hạn thì lại căn cứ “thời điểm trả trước” tức là thời điểm phát sinh khoản trả trước chứ không tính từ thời điểm báo cáo. Đây là trường hợp duy nhất, có sự khác biệt trong việc phân loại tài sản ngắn hạn và dài hạn so với nguyên tắc chung trong chế độ kế toán và VAS.

3. Một số đề xuất

Mặc dù, CĐKTDN hiện nay đã có nhiều thay đổi, hoàn thiện để phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, để đảm bảo tính nhất quán trong toàn bộ chế độ kế toán và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn, tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:

Một là, tiêu chuẩn về thời gian để ghi nhận tài sản cố định cần được sửa đổi là “Có thời gian sử dụng trên 1 năm”.

Hai là, tất cả các nội dung hướng dẫn phân loại ngắn hạn và dài hạn trong chế độ kế toán DN cần thống nhất với nhau. Theo đó, đối với tài sản, nợ phải trả ngắn hạn cần sử dụng thuật ngữ “trong vòng 12 tháng” kể từ thời điểm báo cáo. Đối với tài sản, nợ phải trả dài hạn thì sử dụng thuật ngữ “trên 12 tháng” kể từ thời điểm báo cáo.

Ba là, đối với khoản chi phí trả trước. Trên thực tế, có thể thấy, việc phân loại các khoản chi phí trả trước thành ngắn hạn và dài hạn chỉ cần thiết khi lập BCTC tức là ở thời điểm cuối kỳ kế toán còn khi nghiệp vụ kinh tế phát sinh thì không cần thiết, phải phân chia các tài sản này thành ngắn hạn và dài hạn. Do đó, để đảm bảo thống nhất trong các khái niệm và phù hợp với thông lệ quốc tế, chế độ kế toán nên sửa đổi theo hướng vào thời điểm lập BCTC, DN sẽ phân loại các khoản chi phi trả trước thành ngắn hạn và dài hạn, để trình bày trên bảng cân đối kế toán căn cứ vào thời gian còn phân bổ của khoản trả trước./.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tài chính, 2003, VAS số 21

2. Bộ Tài chính, 2014, CĐKTDN, ban hành kèm theo TT số 200/2014/TT-BTC, ngày 22/12/2014.

Theo Tạp chí Kế toán & Kiểm toán của Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam – Bài viết của TS. Nguyễn Anh Hiền - Trường  Đại học Sài Gòn

Nợ xấu được hiểu là các khoản nợ khó đòi khi người vay không thể trả nợ khi đến hạn phải thanh toán như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Cụ thể, nếu quá thời gian quá hạn thanh toán trên 90 ngày thì bị coi là nợ xấu.

Xem thêm: Nợ xấu là gì? Cách kiểm tra nợ xấu ngân hàng

Theo khoản 8 Điều 3 Thông tư 11/2021/TT-NHNN, nợ xấu [NPL] là nợ xấu nội bảng, gồm nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại Điều 10 Thông tư 11/2021/TT-NHNN.

Thế nào là nợ xấu? Phân loại các nhóm nợ xấu hiện nay [Hình từ Internet]

2. Phân loại các nhóm nợ xấu

Khoản 1 Điều 10 Thông tư 11/2021/TT-NHNN, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện phân loại nợ [trừ các khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng] theo 05 nhóm như sau:

2.1 Các nhóm nợ chưa bị xem là nợ xấu

- Nhóm 1 [Nợ đủ tiêu chuẩn] bao gồm:

+ Khoản nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn;

+ Khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn;

+ Khoản nợ được phân loại nhóm nợ có rủi ro thấp hơn [tại mục 2.3 dưới đây].

- Nhóm 2 [Nợ cần chú ý] bao gồm:

+ Khoản nợ quá hạn đến 90 ngày;

[Trừ khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn, khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn [tại mục 2.4 dưới đây].];

+ Khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu còn trong hạn;

[Trừ khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn [kể cả nhóm 1], khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn.];

+ Khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 10 Thông tư 11/2021/TT-NHNN [Khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn hoặc cao hơn].

2.2 Các nhóm nợ được xem là nợ xấu

- Nhóm 3 [Nợ dưới tiêu chuẩn] bao gồm:

+ Khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;

[Trừ khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn.];

+ Khoản nợ gia hạn nợ lần đầu còn trong hạn;

[Trừ khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn [kể cả nhóm 1], khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn.];

+ Khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo thỏa thuận;

[Trừ khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn.]

+ Khoản nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi:

++ Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 3, 4, 5, 6 Điều 126 Luật Các tổ chức tín dụng [đã sửa đổi, bổ sung];

++ Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 127 Luật Các tổ chức tín dụng [đã sửa đổi, bổ sung];

++ Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 128 Luật Các tổ chức tín dụng [đã sửa đổi, bổ sung];

+ Khoản nợ trong thời hạn thu hồi theo kết luận thanh tra, kiểm tra;

+ Khoản nợ phải thu hồi theo quyết định thu hồi nợ trước hạn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng vi phạm thỏa thuận với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;

+ Khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 10 Thông tư 11/2021/TT-NHNN;

+ Khoản nợ phải phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 4 Điều 8  Thông tư 11/2021/TT-NHNN.

- Nhóm 4 [Nợ nghi ngờ] bao gồm:

+ Khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;

[Trừ khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn.]

+ Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn đến 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

[Trừ khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn.]

+ Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai còn trong hạn;

[Trừ khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn [kể cả nhóm 1], khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn.];

+ Khoản nợ quy định tại điểm c[iv] khoản 1 Điều 10 Thông tư 11/2021/TT-NHNN chưa thu hồi được trong thời gian từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;

+ Khoản nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra, kiểm tra nhưng quá thời hạn thu hồi theo kết luận thanh tra, kiểm tra đến 60 ngày mà chưa thu hồi được;

+ Khoản nợ phải thu hồi theo quyết định thu hồi nợ trước hạn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng vi phạm thỏa thuận với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa thu hồi được trong thời gian từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;

+ Khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 10 Thông tư 11/2021/TT-NHNN;

+ Khoản nợ phải phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 4 Điều 8 Thông tư 11/2021/TT-NHNN.

- Nhóm 5 [Nợ có khả năng mất vốn] bao gồm:

+ Khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;

+ Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 91 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

+ Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;

+ Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên;

[Trừ khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn [kể cả nhóm 1].]

+ Khoản nợ quy định tại điểm c[iv] khoản 1 Điều 10 Thông tư 11/2021/TT-NHNN chưa thu hồi được trên 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;

+ Khoản nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra, kiểm tra nhưng quá thời hạn thu hồi theo kết luận thanh tra, kiểm tra trên 60 ngày mà chưa thu hồi được;

+ Khoản nợ phải thu hồi theo quyết định thu hồi nợ trước hạn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng vi phạm thỏa thuận với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa thu hồi được trên 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;

+ Khoản nợ của khách hàng là tổ chức tín dụng đang được kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang bị phong tỏa vốn và tài sản;

+ Khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Thông tư 11/2021/TT-NHNN;

+ Khoản nợ phải phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 4 Điều 8 Thông tư 11/2021/TT-NHNN.

2.3 Khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn 

Khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn trong các trường hợp sau đây:

- Đối với khoản nợ quá hạn, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn [kể cả nhóm 1] khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

+ Khách hàng đã trả đầy đủ phần nợ gốc và lãi bị quá hạn [kể cả lãi áp dụng đối với nợ gốc quá hạn] và nợ gốc và lãi của các kỳ hạn trả nợ tiếp theo trong thời gian tối thiểu 03 [ba] tháng đối với nợ trung hạn, dài hạn, 01 [một] tháng đối với nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn;

+ Có tài liệu, hồ sơ chứng minh việc khách hàng đã trả nợ;

+ Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có đủ cơ sở thông tin, tài liệu đánh giá khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn.

- Đối với nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn [kể cả nhóm 1] khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

+ Khách hàng đã trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại trong thời gian tối thiểu 03 [ba] tháng đối với nợ trung hạn, dài hạn, 01 [một] tháng đối với nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn được cơ cấu lại;

+ Có tài liệu, hồ sơ chứng minh việc khách hàng đã trả nợ;

+ Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có đủ cơ sở thông tin, tài liệu để đánh giá khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn đã được cơ cấu lại.

2.4 Khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn

Khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn trong các trường hợp sau đây:

- Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tỷ lệ nợ trên vốn, dòng tiền, khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm liên tục qua 03 lần đánh giá, phân loại nợ liên tục;

- Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin theo yêu cầu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng;

- Khoản nợ đã được phân loại vào nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4 theo quy định tại điểm a, b Khoản này từ 01 [một] năm trở lên nhưng không đủ điều kiện phân loại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn;

- Khoản nợ mà hành vi cấp tín dụng bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

Như Mai

Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email .

Video liên quan

Chủ Đề