Tại sao phải thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình cho vị đủ minh hóa

KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH LÀ GÌ?

Kế hoạch hóa gia đình là việc lập kế hoạch để kiểm soát quá trình sinh sản, đồng thời sử dụng các kỹ thuật khác để thực hiện kế hoạch đó. Chính vì vậy, việc thiết lập kế hoạch hóa gia đình sẽ giúp cho việc sinh con có được một sức khỏe ổn định, đảm bảo sức khỏe để yên tâm công tác.

Các yếu tố của kế hoạch hóa gia đình là việc sử dụng các biện pháp tránh thai một cách chủ động, an toàn và hợp lý nhằm hạn chế được việc có thai ngoài ý muốn, kiểm soát tình trạng sinh con, số lượng con theo ý muốn của các cặp vợ chồng một cách khoa học nhất. Kế hoạch gia đình giúp cho nữ giới giảm được nguy cơ mắc bệnh sau sinh, bảo vệ sức khỏe vợ chồng và đảm bảo cho những đứa trẻ chào đời được trong tình trạng đầy đủ vật chất lẫn tinh thần, xây dựng một xã hội phát triển bền vững.

Kế hoạch hóa gia đình là vấn đề then chốt quyết định đến sự tồn vinh cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao được chất lượng cuộc sống của người dân. Do đó, dưới đây là các phương pháp kế hoạch hóa hiệu quả hiện nay:

Thuốc tránh thai được chia làm 2 loại là thuốc tránh thai hàng ngày và thuốc tránh thai khẩn cấp. Các loại thuốc tránh thai hàng ngày được sử dụng đều đặn mỗi ngày vào khung giờ cố định trong ngày, uống vào ngày đầu tiên của chu kỳ.

  • Thuốc tránh thai hàng ngày thì chị em sẽ bắt đầu uống vào ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt và cần uống đều đặn mỗi ngày.
  • Thuốc tránh thai khẩn cấp là cách ngừa thai áp dụng cho những trường hợp không sử dụng bất cứ biện pháp tránh thai nào hoặc áp dụng cách xuất tinh ra ngoài âm đạo bị thất bại.

Bao cao su là một cách phổ biến để tránh thai đồng thời ngăn chặn được hầu hết các bệnh tật lây qua đường tình dục, thậm chí cả HIV/AIDS.

Đây là một trong những cách ngừa thai mang lại hiệu quả vô cùng cao, được áp dụng rất phổ biến hiện nay. Bao cao su có 2 loại là bao cao su nữ giới và bao cao su nam giới.

Vòng tránh thai là một trong những dụng cụ phổ biến được các chị em tin tưởng sử dụng, phương pháp này không gây đau đớn hay ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như đời sống tình dục của chị em.

Biệp pháp này có thể gây viêm nhiễm đường sinh dục, xuyên tử cung để từ đó kéo theo các biến chứng khác, khó tháo. Vì vậy, để có một chiếc vòng tránh thai phù hợp và vừa vặn với cơ thể thì chị em cần đến trung tâm y tế để được tư vấn và thực hiện đặt vòng.

Cách ngừa thai này có tác dụng ngăn cản sự thụ tinh của trứng và tinh trùng do trong màng chắn có chứa chất diệt tinh trùng. Chính vì vậy, chị em cần lưu ý không phải chị em nào cũng có thể áp dụng cách ngừa thai này.

Thắt ống dẫn trứng cũng là một biện pháp tránh thai có hiệu quả lâu dài. Khi thắt ống dẫn trứng thì vòi trứng bị tắc, ngăn ngừa sự thụ thai.

Việc duy trì tốt kế hoạch hóa gia đình sẽ giúp cho mỗi người dân xây dựng được hạnh phúc gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống và góp phần phát triển bền vững của toàn xã hội. Do đó, cách tốt nhất là tìm ra cho mình một phương pháp kế hoạch hóa gia đình tốt nhất bạn nhé!

Kế hoạch hóa gia đình là một phần của quyền con người

[ĐCSVN] – Trong suốt những năm vừa qua, các vấn đề dân số luôn là trung tâm trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo và thúc đẩy phát triển bền vững. Tỷ lệ tăng trưởng, cơ cấu về tuổi, khả năng sinh sản và tử vong, di cư, có ảnh hưởng đến tất cả các khía cạnh của quá trình phát triển con người, kinh tế và xã hội.
Kế hoạch hóa gia đình rất cần thiết cho việc trao quyền cho phụ nữ
[Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: Khánh Linh]

Thực tế trên đòi hỏi các chính phủ phải có khả năng thu thập và phân tích các xu hướng nhân khẩu học để hoạch định và thực hiện các chính sách đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai. Trong khi đó, các xu hướng nhân khẩu học lại bị ảnh hưởng bởi những quyết định cá nhân liên quan đến sinh sản. Trong bối cảnh này, sức khỏe sinh sản và bình đẳng giới là những yếu tố quan trọng.

Cách đây 26 năm, vào ngày 11/7/1987, công dân thứ 5 tỷ của thế giới đã chào đời tại Nam Tư. Sự kiện này được coi là dấu mốc cho sự bùng nổ của dân số thế giới. Một thế giới bùng nổ về dân số sẽ dẫn đến nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, môi trường ô nhiễm – những thách thức đối với tất cả các quốc gia. Chính vì vậy, tại Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển năm 1989, Liên hợp quốc đã quyết định lấy ngày sinh của cậu bé thứ 5 tỷ [11/7] để kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới.

Kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới hàng năm là dịp để các quốc gia cùng nhìn lại quá trình kiểm soát sự phát triển dân số, từ đó tiếp tục đề xuất những chính sách, giải pháp hữu hiệu để thực hiện ngày càng tốt hơn mục tiêu dân số và phát triển trong chiến lược phát triển chung về kinh tế – xã hội. Đây cũng là dịp để thu hút sự chú ý của cộng đồng đến tính cấp bách và tầm quan trọng của vấn đề dân số.

Dân số và phát triển

Theo các chuyên gia, các nhà khoa học, lịch sử phát triển nhân loại cho thấy trong mọi hình thái kinh tế – xã hội, dân số là động lực, là trung tâm của phát triển. Những biến đổi về quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số chính là yếu tố quan trọng liên quan đến phát triển. Các nhà lãnh đạo và quản lý của nhiều quốc gia đã ngày càng nhận thức sâu sắc về sự ổn định quy mô dân số với sự gia tăng hợp lý. Điều đó sẽ giúp đất nước giảm bớt những căng thẳng về nguồn tài nguyên cạn kiệt, suy thoái môi trường, quá tải dân cư đô thị..., từ đó tăng các nguồn lực đầu tư phát triển dài hạn, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm, chăm sóc sức khỏe, giáo dục... cho người dân.

Tính toán của các nhà nhân khẩu học kinh tế cho thấy giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ phát triển dân số có mối tương quan chặt chẽ theo tỉ lệ nghịch. Như vậy, theo mục tiêu phấn đấu tăng trưởng kinh tế – xã hội thì mỗi quốc gia phải xác định và khống chế tốc độ dân số ở mức hợp lý để đảm bảo cho việc phát triển kinh tế, đảm bảo khả năng tích lũy.

Theo ước tính, dân số thế giới sẽ đạt 8,6 tỷ người vào năm 2030, 9,8 tỷ người vào năm 2050 và 11,2 tỷ người vào năm 2100.

Thực tế cũng đã cho thấy các xu hướng nhân khẩu học có ảnh hưởng quyết định trong cuộc chiến chống đói nghèo và thúc đẩy phát triển. Làm chậm tốc độ tăng trưởng dân số và tăng cường đầu tư cho các lĩnh vực sức khỏe sinh sản, phòng chống HIV; giáo dục, nâng cao vị thế của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới chính là những biện pháp thiết yếu góp phần xóa đói giảm nghèo.

Theo Liên hợp quốc, việc giảm tỷ suất sinh phụ thuộc phần lớn vào khả năng tự chủ của người nam giới và phụ nữ cũng như vào khả năng tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ sức khỏe sinh sản của họ.

Các quyền về sức khỏe sinh sản chính là nền tảng cho việc sinh con khỏe mạnh, các mối quan hệ thân thiết và các gia đình hạnh phúc. Điều này đồng nghĩa với việc mỗi đứa trẻ đều được sinh ra theo ý muốn, đều được sinh ra an toàn, các thanh niên khỏe mạnh, phụ nữ và trẻ em gái được đối xử tôn trọng và bảo toàn nhân phẩm.

Để mở rộng phạm vi tiếp cận với các dịch vụ sinh sản, Quỹ Dân số Liên hợp quốc [UNFPA] ủng hộ các chính sách kế hoạch hóa gia đình, đồng thời bảo đảm nguồn cung cấp chất lượng và ổn định các biện pháp tránh thai, giúp tăng cường hệ thống y tế quốc gia và thu thập dữ liệu để hỗ trợ các biện pháp can thiệp phù hợp. Quỹ cũng bảo đảm tinh thần lãnh đạo toàn cầu về việc cải thiện tiếp cận với kế hoạch hóa gia đình. Với mục đích này, Quỹ Dân số Liên hợp quốc tập hợp các đối tác, trong đó có các chính phủ, để phát triển chính sách địa phương và cung cấp hỗ trợ tổ chức, kỹ thuật và tài chính cho các nước đang phát triển.

Kế hoạch hóa gia đình là một phần của quyền con người

Năm 2018 kỷ niệm 50 năm Hội nghị Quốc tế về Quyền con người được tổ chức vào năm 1968. Tại hội nghị này, lần đầu tiên kế hoạch hóa gia đình được công nhận và khẳng định là một trong những quyền cơ bản của con người trên phạm vi toàn cầu. Văn bản cuối cùng của hội nghị, được biết đến với tên gọi Tuyên bố Tehran, nêu rõ: “Cha mẹ có quyền quyết định một cách có trách nhiệm số con và khoảng cách giữa các lần sinh con".

Từ đó, nhận thức của cộng đồng cũng có nhiều thay đổi. Phụ nữ và trẻ em gái không phải gánh chịu đến kiệt sức, cũng không phải chịu nguy cơ quá nhiều lần mang thai và mang thai quá gần nhau. Thay vào đó, nam giới và phụ nữ có quyền lựa chọn và quyết định việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Mỗi cá nhân có quyền xác định hướng và phạm vi tương lai của mình theo cách cơ bản này.

Điều này tiếp tục được ghi nhận trong Chương trình Hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển [ICPD] được tổ chức vào năm 1994. Chương trình Hành động này chính là cơ sở để UNFPA thiết kế và thực hiện phần lớn các hoạt động của mình tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.

Trong thông điệp đưa ra nhân Ngày Dân số Thế giới năm nay [11/7/2018], Tiến sỹ Natalia Kanem, Giám đốc điều hành của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc [UNFPA] cho biết: Kế hoạch hóa gia đình không chỉ là vấn đề nhân quyền. Nó cũng rất cần thiết cho việc trao quyền cho phụ nữ, giảm nghèo và phát triển bền vững. Tuy nhiên, ở các vùng đang phát triển, khoảng 214 triệu phụ nữ vẫn chưa có phương pháp lập kế hoạch hóa gia đình an toàn và hiệu quả, vì lý do thiếu thông tin hoặc dịch vụ vì thiếu sự hỗ trợ từ đối tác hay cộng đồng. Những thiếu sót này đe dọa khả năng xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân, gia đình và cộng đồng của họ.

Trong bối cảnh đó, UNFPA kêu gọi chính phủ thực hiện các cam kết đối với việc tiếp cận phổ cập các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, bao gồm kế hoạch hóa gia đình và các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, như đã thống nhất theo thỏa thuận tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển 1994 và trong Chương trình phát triển bền vững năm 2030. Bằng cách đầu tư vào kế hoạch hóa gia đình, chúng ta đang đầu tư vào sức khỏe và hạnh phúc của hàng triệu phụ nữ vì các thế hệ tương lai.

Theo Liên hợp quốc, 9 tiêu chuẩn để bảo vệ quyền con người đối với kế hoạch hóa gia đình, như sau:

Không phân biệt đối xử: Thông tin và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình không thể bị hạn chế về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, liên kết chính trị, nguồn gốc quốc gia, độ tuổi, tình trạng kinh tế, nơi cư trú, khuyết tật, tình trạng hôn nhân.

Tình trạng sẵn có: Thông tin và phương tiện tránh thai phải sẵn có, đủ số lượng và đa dạng để đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người.

Khả năng tiếp cận: Các quốc gia phải bảo đảm rằng tất cả các sản phẩm và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đều có thể tiếp cận được bởi tất cả mọi người. Điều này có nghĩa là các dịch vụ và thông tin phải có thể dễ dàng tiếp cận về mặt vật lý và với giá cả phải chăng.

Chấp nhận: Các dịch vụ và thông tin về tránh thai phải được cung cấp một cách nghiêm túc, tôn trọng cả y đức hiện đại và văn hóa của người dân tiếp nhận các dịch vụ này.

Chất lượng: Thông tin về kế hoạch hoá gia đình cần được truyền đạt rõ ràng và chính xác về mặt khoa học.

Thông báo việc ra quyết định: Về mặt sinh sản, mỗi người cần phải được trao quyền để lựa chọn một cách độc lập, không chịu áp lực, ép buộc hoặc che giấu thông tin.

Quyền riêng tư và bảo mật: Tất cả các cá nhân cần hưởng quyền riêng tư khi tìm kiếm thông tin và dịch vụ lập kế hoạch hóa gia đình.

Tham gia:Các quốc gia có nghĩa vụ bảo đảm sự tham gia tích cực và các cá nhân được thông báo về các quyết định ảnh hưởng đến họ, đặc biệt là vấn đề sức khỏe.

Trách nhiệm: Các hệ thống y tế, hệ thống giáo dục, nhà lãnh đạo và người ra quyết định phải có trách nhiệm nỗ lực thực hiện quyền con người đối với kế hoạch hoá gia đình.
Khánh Linh

TIN LIÊN QUAN

  • Tuổi trẻ Đà Nẵng ra quân Tết trồng cây Xuân Nhâm Dần 2022
  • Đồng Tháp mong muốn các chuyên gia đóng góp cho định hướng tái cơ cấu nông nghiệp của tỉnh
  • Bến Tre chú trọng thu hút đầu tư với các doanh nghiệp Hàn Quốc
  • Trên 1.600 người là nạn nhân của nhóm lừa đảo đầu tư trực tuyến
  • Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và Cung ứng nhân lực ký kết hợp tác với 5 đơn vị tỉnh Đắk Lắk
  • Có tình trạng đưa vào Việt Nam thuốc trị COVID-19, găng tay y tế, kit xét nghiệm đã qua sử dụng
  • Một số hình ảnh tại Hội nghị gặp mặt các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước

Sự cần thiết thay đổi chính sách từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển

[ĐCSVN] – Có thể nói, điểm mới đáng chú ý đầu tiên về công tác dân số trong tình hình mới chính là việc chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề dân số về quy mô, cơ cấu, phân bố chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế, xã hội.

Bước ngoặt quan trọng trong chính sách

Theo GS.TS Nguyễn Đình Cử, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu Dân số, Gia đình và Trẻ em [IPFCS]: Nghị quyết 21-NQ/TW về Công tác dân số trong tình hình mới với việc chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển là bước ngoặt lớn của chính sách dân số Việt Nam trong thời kỳ mới.

Để hiểu được tại sao nước ta cần chuyển hướng chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển thì cần điểm qua một số đặc điểm mới, nổi bật của dân số nước ta hiện nay và xu hướng biến đổi đến giữa thế kỷ.

Công tác dân số trong tình hình mới đã chuyển trọng tâm từ chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình
sang dân số và phát triển. Ảnh: chinhphu.vn

Thực tế cho thấy, hơn 50 năm qua, với chính sách sinh đẻ có kế hoạch, mục tiêu của chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình [DS-KHHGĐ] là giảm sinh “đã đạt được một cách vững chắc”. So với thời điểm hoạch định chính sách DS-KHHGĐ [1961], dân số nước ta đã xuất hiện những đặc điểm và những xu hướng mới, tác động rất lớn đến sự phát triển bền vững của Việt Nam theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, mang lại cả cơ hội và thách thức.

Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số lớn, mật độ dân số rất cao. Theo dự báo, dân số Việt Nam vẫn tiếp tục tăng nhưng chậm lại [giai đoạn 2009-2019 bình quân hàng năm khoảng 1%, sau đó sẽ dưới 1%]. Năm 2025, nước ta sẽ có 100 triệu dân và tiếp tục tăng chậm lên đến khoảng 107-108 triệu vào giữa thế kỷ. Dân số đông là một thị trường lớn, hấp dẫn đầu tư nhưng cũng là thách thức lớn về an ninh lương thực, năng lượng,… Bên cạnh đó, mặc dù tỉ lệ dân thành thị thấp nhưng tốc độ di cư, đô thị hóa, tích tụ dân số đang diễn ra khá mạnh. Di dân góp phần thay đổi cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, nâng cao năng suất lao động nhưng việc tích tụ dân số với mật độ rất cao cũng dẫn tới nhiều áp lực tới hạ tầng cơ sở; gây tắc ách giao thông, ô nhiễm môi trường…

Chúng ta đang trong thời kỳ cơ cấu dân số “vàng” với số người trong độ tuổi lao động hơn gấp đôi số người phụ thuộc. Điều này mang lại nhiều “dư lợi” về lao động nhưng cũng là thách thức về tạo việc làm và việc làm có năng suất, thu nhập cao. Cơ cấu dân số “vàng” sẽ chấm dứt vào khoảng đầu thập niên 40 của thế kỷ này. Vì vậy, nếu không khai thác nhanh và hiệu quả, cơ hội “vàng” sẽ bị bỏ qua.

Với sự phát triển kinh tế - xã hội và những thành tựu về y học, tuổi thọ của người dân tăng lên, song chúng ta cũng đang phải đối mặt với tình trạng già hóa với tốc độ vào nhanh nhất thế giới. Dù tuổi thọ trung bình đã tăng lên [74 tuổi] nhưng số năm sống khỏe mạnh trong cả cuộc đời không cao. Hơn 70% người cao tuổi sống ở nông thôn, khu vực có trình độ phát triển thấp hơn đô thị, phải sống phụ thuộc vào con cái... Những đặc điểm trên làm trầm trọng thêm thách thức về già hóa trong quá trình phát triển.

Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Số trẻ sơ sinh trai trên 100 trẻ sơ sinh gái cao [112,2/100], ảnh hưởng lớn đến cấu trúc dân số trong tương lai. Hiện tượng biết trước giới tính thai nhi ngày càng phổ biến, tỷ lệ phụ nữ mang thai biết trước giới tính thai nhi là 83%. Sự mất cân bằng giới tính khi sinh do nhiều nguyên nhân, trong đó có ảnh hưởng của Nho giáo, bất bình đẳng giới, lạm dụng kỹ thuật. Tình trạng này không được cải thiện, đương nhiên sẽ dẫn đến sự phát triển không bền vững về mặt xã hội.

Chất lượng dân số tăng lên nhưng chưa cao. Việt Nam chưa bao giờ lọt vào top 100 nước có “Chỉ số phát triển con người” [HDI] cao nhất. Nhiều năm nay, Tổng cục DS-KHHGĐ thực hiện các dự án nâng cao chất lượng dân số, như tư vấn tiền hôn nhân; sàng lọc trước sinh và sơ sinh… đã thu được những kết quả tốt. Tuy nhiên, các thành công vẫn chỉ mới trong khuôn khổ các dự án.

Theo đó, Nghị quyết số 21-NQ/TW nhấn mạnh, việc chuyển đổi mục tiêu, nội dung trọng tâm của chính sách dân số là hoàn toàn cần thiết. Nó làm cho chính sách dân số phù hợp với tình hình dân số thực tế hiện nay và giúp cho công tác dân số hiệu quả hơn. Vì vậy, thay đổi chính sách dân số là nhu cầu cấp bách.

Việc chuyển trọng tâm này nhằm “giải quyết toàn diện các vấn đề dân số cả về quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số”. Kết luận 119-KL/TW cũng chỉ rõ các nội dung gồm: Duy trì mức sinh thay thế; Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; Tận dụng cơ cấu dân số vàng; Thích ứng với quá trình già hóa dân số; Điều chỉnh phân bố dân số hợp lý; Nâng cao chất lượng dân số.

Dân số Việt Nam vẫn tiếp tục tăng nhưng chậm lại, dự báo đạt 100 triệu dân vào năm 2025.
Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: nld.com.vn

Tập trung giải quyết các mối quan hệ dân số và phát triển

Như vậy, trọng tâm của chính sách dân số sẽ là tập trung giải quyết các mối quan hệ dân số và phát triển chứ không chỉ là kế hoạch hóa gia đình. Ví dụ như, trước đây chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình tập trung vào nội dung kế hoạch hóa gia đình với mục tiêu giảm sinh, thì nay chính sách dân số với 6 nội dung trên với phạm vi rộng lớn hơn nhiều. “Duy trì mức sinh thay thế” hay bảo đảm mức trung bình mỗi cặp vợ chồng chỉ có khoảng 2,1 con, tức là cần phải thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Do đó, việc “chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển” về bản chất là sự mở rộng chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình. Đây là một chủ trương lớn của Đảng. Thực hiện được điều này sẽ tạo ra một bước ngoặt lớn cho chính sách dân số của Việt Nam. Vì vậy, ngay từ bây giờ các nhà quản lý và các nhà khoa học cần nghiên cứu về vấn đề này một cách sâu sắc để góp phần triển khai Nghị quyết số 21-NQ/TW của Trung ương Đảng về công tác dân số trong tình hình mới đi vào cuộc sống một cách hiệu quả.

Thứ hai, chuyển trọng tâm sang dân số và phát triển tuyệt đối không phải là “từ bỏ kế hoạch hóa gia đình” mà kế hoạch hóa gia đình được thực hiện theo hướng xã hội hóa một cách có hiệu quả. Vấn đề là cần tổ chức kế hoạch hóa gia đình theo phương thức mới. Trước đây, mức sinh ở cả nước cũng như ở từng địa phương đều rất cao, yêu cầu giảm sinh là mục tiêu cốt lõi và thống nhất trong cả nước, không phân biệt vùng, miền, như vậy là hợp lý. Nhưng, thực tiễn cho thấy, mức sinh ở các địa phương do điều kiện kinh tế - xã hội không đồng đều nên kết quả thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình cũng rất khác nhau. Vì vậy, hiện nay theo yêu cầu mới, mục tiêu mức sinh phải được phân biệt theo từng địa phương. Nghị quyết số 21-NQ/TW đã nêu: “Giảm sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh còn cao; duy trì kết quả đã đạt được ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp” là rất hợp lý. Từ những kết luận nêu trên, việc truyền thông, phương thức cung cấp phương tiện, dịch vụ giữa các địa phương cũng đòi hỏi phải bố trí khác nhau.

Thứ ba, lồng ghép các hoạt động về dân số vào kế hoạch hóa phát triển. Nghị quyết số 21-NQ/TW nêu rõ: “Cấp ủy, chính quyền các cấp cần tiếp tục đưa công tác dân số và phát triển thành một nội dung trọng tâm trong công tác, hoạt động thường kỳ; đưa các mục tiêu, chỉ tiêu về dân số và phát triển vào nghị quyết chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội”. Tức là, trong mọi kế hoạch hóa phát triển đều phải tiến hành dự báo và tính đến cơ cấu dân số mà trước hết là kế hoạch hóa lao động, việc làm để tận dụng cơ cấu “dân số vàng”; kế hoạch hóa giáo dục và đào tạo cũng như y tế cần tính đến cơ cấu dân số theo tuổi biến đổi nhanh; phong trào di cư, đô thị hóa; chính sách an sinh xã hội cần tính đến già hóa dân số...

Thứ tư, đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, vận động về dân số và phát triển, làm cho mọi tầng lớp xã hội, nhất là cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, đặc biệt là đối với những nhà hoạch định chính sách ngày càng nhận thức đúng, đầy đủ về việc “chuyển trọng tâm từ dân số - kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển”. Từ đó, từng bước đổi mới tư duy về chính sách dân số, nhất là tư duy kế hoạch hóa gia đình đã ăn sâu, bám rễ trong mỗi gia đình Việt Nam. Việc đa dạng hóa các kênh truyền thông, truyền tải những thông điệp phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền là yêu cầu cấp bách hiện nay. Đây cũng là chủ trương được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương: “Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, vận động về dân số và phát triển”, là một trong những giải pháp then chốt, cần đi trước một bước.

Như vậy, nếu trước đây, chính sách DS-KHHGĐ, chỉ tập trung vào 01 nội dung là KHHGĐ với mục tiêu giảm sinh thì nay, chính sách dân số mới với nhiều nội dung hơn, phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Ở đây cần lưu ý, chúng ta chuyển trọng tâm, chứ không phải là “từ bỏ KHHGĐ” mà KHHGĐ được thực hiện theo phương thức mới.

Rõ ràng, xây dựng và thực hiện chính sách dân số mới mà trọng tâm là “Dân số và phát triển” là một chủ trương mới và rất lớn của Đảng. Thực hiện điều này thực sự là một bước ngoặt lớn cho chính sách dân số của Việt Nam kể từ năm 1961. Đồng thời đòi hỏi nỗ lực lớn trong việc đổi mới tư duy về chính sách dân số và triển khai thực hiện./.

Lam Hạ [TH]

Mục lục

Mục đíchSửa đổi

Nuôi dưỡng một đứa trẻ đòi hỏi khá nhiều nguồn tài nguyên: thời gian,[5] xã hội, tài chính[6], môi trường. Kế hoạch hoá có thể giúp đảm bảo có được các nguồn tài nguyên đó.

Sức khoẻSửa đổi

Xem thêm: Sức khoẻ bà mẹ và mang thai vị thành niên

Chờ ít nhất tới khi bà mẹ đủ 18 tuổi trước khi tìm cách có thai là cách để cải thiện sức khoẻ bà mẹ và trẻ em.[7] Tương tự, nếu mong muốn có thêm con sau đứa con thứ nhất, bà mẹ và trẻ sơ sinh sẽ có sức khoẻ tốt hơn nếu đợi ít nhất hai năm sau lần sinh trước [nhưng không hơn 5 năm].[7] Sau một lần sảy thai hay phá thai, nên chờ ít nhất 6 tháng.[7]

Tài chínhSửa đổi

Xem thêm: Kinh tế gia đình

Sinh đẻ và chăm sóc sức khoẻ trước khi sinh mất khoảng $7,090 nếu sinh bình thường tại Hoa Kỳ năm 1996.[8] Bộ nông nghiệp Mỹ ước tính cho việc sinh một đứa trẻ năm 2007, một gia đình Mỹ sẽ tiêu trung bình khoảng $11,000 tới $23,000 mỗi năm trong 17 năm đầu tiên của đứa trẻ.[5] [Tổng ước tính đã bù trừ lạm phát: $196,000 tới $393,000, tuỳ thuộc vào thu nhập hộ.][5]

Video liên quan

Chủ Đề