Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

  • /
  • /
  • Nhịp sống

Nhịp sống 20/03/2022 14:55

Show

Trong Bảng xếp hạng quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022, Việt Nam tiếp tục cải thiện thứ hạng, tăng 2 bậc lên vị trí 77 so với năm 2021.

Bảng xếp hạng hạnh phúc được đánh giá dựa vào các chỉ số như: tuổi thọ, sức khỏe, thu nhập bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội trong thời kỳ khó khăn, mức độ tham nhũng và lòng tin xã hội. Cùng với đó là độ rộng lượng của cộng đồng và người dân được tự do đưa ra các quyết định quan trọng trong cuộc sống.

Các chỉ số trên được tổng hợp từ hơn 150 quốc gia do Mạng lưới Giải pháp Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc thực hiện, lấy số liệu chủ yếu từ Gallup World.

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022
Việt Nam tăng 2 bậc trên Bảng xếp hạng quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Ảnh minh hoạ

Theo Bảng xếp hạng quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022, top 10 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới lần lượt là: Phần Lan, Đan Mạch, Iceland, Thụy Sỹ, Hà Lan, Luxembourg, Thụy Điển, Na Uy, Israel và New Zealand.

Đây là năm thứ 5 liên tiếp Phần Lan đứng đầu danh sách những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới, còn Lebanon - quốc gia đối mặt suy thoái kinh tế và Afghanistan - đất nước nhiều năm bị xung đột tàn phá lần lượt giữ các vị trí cuối bảng là 145 và 146.

Đây là kết quả được đưa ra trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới (World Happiness Report - WHR) 2022 nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3.

Liên Hợp Quốc quyết định lấy ngày 20/3 hàng năm để kỷ niệm ngày Quốc tế Hạnh phúc theo đề xuất của Bhutan - quốc gia được công nhận là đất nước hạnh phúc nhất thế giới. Ngày Quốc tế Hạnh phúc được công bố chính thức vào tháng 6/2012.

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022
Cụm 5 thành phố trực thuộc Trung ương phát huy tính chủ động trong công tác thi đua, khen thưởng

Sáng 19/3, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Cụm thi đua 5 thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức Hội nghị tổng kết thực ...

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022
Fed tăng lãi suất tác động thế nào đến xu hướng lãi suất của Việt Nam?

Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vừa chính thức thông báo nâng lãi suất tham chiếu thêm 0,25 điểm%, lên quanh mức 0,25 - ...

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Cách sống sót trong đám đông hỗn loạn

Khi bị mắc kẹt trong đám đông hỗn loạn, bạn cần làm gì để bảo vệ bản thân?

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Vinamilk chung tay chia sẻ khó khăn với đồng bào miền Trung

Từ ngày 20-22/10 vừa qua, nhằm chia sẻ với người dân các tỉnh thành bị lũ lụt do ảnh hưởng bởi cơn bão số 4 và số 5, Công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk) đã ủng hộ hơn 155 ngàn sản phẩm dinh dưỡng các loại với tổng trị giá hơn 1 tỷ đồng thông qua Mặt trận tổ quốc các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và Sở giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế.

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Chi tiết lịch chạy tàu Tết Quý Mão 2023

Để phục vụ nhu cầu đi lại của hành khách trong dịp Tết Nguyên Đán Quý Mão 2023 từ ngày 9/1/2023 đến hết ngày 5/2/2023 (tức từ ngày 18 tháng Chạp năm Nhâm Dần đến ngày 15 tháng Giêng năm Quý Mão), Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam tổ chức chạy như sau:

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Ngân hàng SHB chung tay ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo” 2022

Vừa qua tại Hà Nội, Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB) đã đóng góp 5 tỷ đồng cho Quỹ Vì người nghèo do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam phát động. Trước đó, SHB cũng đã ủng hộ 500 triệu đồng cho quỹ Vì người nghèo thành phố Hà Nội.

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Gợi ý những món quà tặng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 độc đáo, ý nghĩa

Với phụ nữ Việt Nam, 20/10 là ngày bản thân được yêu thương, chiều chuộng và tôn vinh. Còn đối với nửa còn lại thì đây lại là dịp để thể hiện tình cảm, cũng như sự trân trọng của mình đối với người phụ nữ bên cạnh.

Tin khác

Lời chúc 20/10 hay và ý nghĩa nhất

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 là ngày để kỷ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam. Nhân dịp 20/10, hãy dành những tình cảm tốt đẹp và yêu thương nhất cho những người phụ nữ thân yêu.

Nhịp sống 17/10/2022 13:11

Tập đoàn Masan đóng góp 1 tỷ đồng hỗ trợ người dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An khắc phục hậu quả thiệt hại do ảnh hưởng bão số 4

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Ngày 10/10/2022, tại xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, Công ty Cổ phần Tập đoàn Masan (Masan) phối hợp cùng Công an tỉnh Nghệ An đã đến thăm hỏi, trao tặng quà là thực phẩm thiết yếu cùng tiền mặt để hỗ trợ bà con vùng thiệt hại nặng nhất của Nghệ An do lũ quét ngày 2/10/2022.

Nhịp sống 12/10/2022 11:35

Cách làm hàu chiên giòn ăn kèm sốt đãi gia đình nhân ngày se lạnh

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Cách chế biến món hàu chiên giòn ăn kèm sốt Mayonnaise đơn giản mà các bà nội trợ có thể thực hiện nhanh chóng tại nhà.

Nhịp sống 11/10/2022 13:49

Từ ngày 10/10: Xếp lương phóng viên, biên tập viên theo hướng dẫn mới nhất

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Từ 10/10, Thông tư 13/2022/TT-BTTTT về mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và xếp lương đối với viên chức biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên... chính thức có hiệu lực, trong đó hướng dẫn cụ thể cách xếp lương cho các vị trí này.

Nhịp sống 10/10/2022 11:11

Cúng Rằm tháng 8 vào giờ nào, ngày nào tốt nhất?

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Tết Trung thu từ bao đời nay đã trở thành ngày lễ lớn trong đời sống văn hóa của người dân Việt Nam. Là ngày Tết của trẻ nhỏ nhưng ý nghĩa sâu xa hơn đó là ngày đoàn viên, là ngày để các thành viên trong gia đình quây quần, sum họp bên nhau.

Nhịp sống 06/09/2022 10:20

Mâm cỗ cúng Rằm tháng 8 gồm những gì?

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Theo phong tục truyền thống, ngày tết Trung thu nhiều nhà treo đèn lồng, rước đèn ngắm trăng, múa lân đốt pháo… Bên cạnh đó, các gia đình cũng chuẩn bị mâm cỗ cúng Rằm tháng 8 để thể hiện lòng thành kính với ông bà tổ tiên, cầu mong bình an, may mắn.

Nhịp sống 05/09/2022 13:27

Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022

Worldwide levels of happiness as measured by the World Happiness Report (2016).

The World Happiness Report is a publication that contains articles and rankings of national happiness, based on respondent ratings of their own lives,[1] which the report also correlates with various (quality of) life factors.[2] As of March 2022, Finland had been ranked the happiest country in the world five times in a row.[3][4][5][6]

The report is a publication of the Sustainable Development Solutions Network, a global initiative of the United Nations.[7] The report primarily uses data from the Gallup World Poll. Each annual report is available to the public to download on the World Happiness Report website.[8] The Editors of the 2020 report are John F. Helliwell, Richard Layard, Jeffrey D. Sachs, and Jan-Emmanuel De Neve. Associate Editors are Lara Aknin, Shun Wang, and Haifang Huang.

History[edit][edit]

In July 2011, the UN General Assembly adopted resolution 65/309 Happiness: Towards a Holistic Definition of Development[9] inviting member countries to measure the happiness of their people and to use the data to help guide public policy. On April 2, 2012, this was followed by the first UN High Level Meeting called Wellbeing and Happiness: Defining a New Economic Paradigm,[10] which was chaired by UN Secretary General Ban Ki-moon and Prime Minister Jigmi Thinley of Bhutan, a nation that adopted gross national happiness instead of gross domestic product as their main development indicator.[11]

The first World Happiness Report was released on April 1, 2012 as a foundational text for the UN High Level Meeting: Well-being and Happiness: Defining a New Economic Paradigm,[12] drawing international attention.[13] The first report outlined the state of world happiness, causes of happiness and misery, and policy implications highlighted by case studies. In 2013, the second World Happiness Report was issued, and in 2015 the third. Since 2016, it has been issued on an annual basis on the 20th of March, to coincide with the UN's International Day of Happiness.[14]

Methods and philosophy[edit]

The rankings of national happiness are based on a Cantril ladder survey. Nationally representative samples of respondents are asked to think of a ladder, with the best possible life for them being a 10, and the worst possible life being a 0. They are then asked to rate their own current lives on that 0 to 10 scale.[15] The report correlates the life evaluation results with various life factors.[2]

The life factor variables used in the reports are reflective of determinants that explain national-level differences in life evaluations across research literature. However, certain variables, such as unemployment or inequality, are not considered as comparable data is not yet available across all countries. The variables used illustrate important correlations rather than causal estimates.[16]

The use of subjective measurements of wellbeing is meant to be a bottom-up approach which emancipates respondents to evaluate their own wellbeing.[17] In this context, the value of the Cantril Ladder is the fact that a respondent can self-anchor themselves based on their perspective.[18]

In the reports, experts in fields including economics, psychology, survey analysis, and national statistics, describe how measurements of well-being can be used effectively to assess the progress of nations, and other topics. Each report is organized by chapters that delve deeper into issues relating to happiness, including mental illness, the objective benefits of happiness, the importance of ethics, policy implications, and links with the Organisation for Economic Co-operation and Development's (OECD) approach to measuring subjective well-being and other international and national efforts.

WELLBYs[edit][edit]

From 2021 the World Happiness Report has advocated for the use of WELLBYs (Well-Being-Adjusted Life-Years); it argues that QALYs only count the individual patient's health-related quality of life, and instead WELLBYs should be used. Policy-makers should aim to maximise the WELLBYs of all who are born, and also include the WELLBYs of future generations (subject to a small discount rate).[19][20][21]

Annual report topics[edit]

World Happiness Reports were issued in 2012, 2013, 2015, 2016 (an update), 2017, 2018, 2019, 2020, and 2021. In addition to ranking countries happiness and well-being levels, each report has contributing authors and most focus on a particular theme. The data used to rank countries in each report is drawn from the Gallup World Poll,[22] as well as other sources such as the World Values Survey, in some of the reports. The Gallup World Poll questionnaire[23] measures 14 areas within its core questions: (1) business & economic, (2) citizen engagement, (3) communications & technology, (4) diversity (social issues), (5) education & families, (6) emotions (well-being), (7) environment & energy, (8) food & shelter, (9) government and politics, (10) law & order (safety), (11) health, (12) religion & ethics, (13) transportation, and (14) work.

2022 World Happiness Report[edit]

The 2022 World Happiness Report included a section looking at possible genetic effects on individual happiness.[24]

Finland is in the top position in the world happiness report in 2022. Followed by Denmark and Iceland in second and third place. Switzerland, Netherlands, Luxembourg, Sweden, Norway, Israel and New Zealand, were among the top 10 'happiest' countries in the world [1].

Among 146 countries ranked by the report, Afghanistan scores the lowest point of 2.523 and was ranked as the least 'happy' country in the world in 2022.

2021 World Happiness Report[edit]

Descriptions

The 2021 World Happiness Report, released on March 20, 2021, ranks 156 countries based on an average of three years of surveys between 2017 and 2019. The 2020 report especially focuses on the environment – social, urban, and natural, and includes links between happiness and sustainable development.[25]

Finland holds the rank of the happiest country in the world for the fourth consecutive year.[26] It is followed by Denmark, Switzerland, Iceland and Netherlands. Afghanistan received the lowest score, with South Sudan and Rwanda just above it. In addition to country rankings, this is the second year that the World Happiness Report ranks cities. The happiest city in the world is Helsinki, the capital of Finland. The report shows that the happiness ranking of cities is almost identical to that of the countries they are in.

2020 World Happiness Report[edit]

Descriptions

The 2020 World Happiness Report, released on March 20, 2020, ranks 156 countries based on an average of three years of surveys between 2017 and 2019. The 2020 report especially focuses on the environment – social, urban, and natural, and includes links between happiness and sustainable development.[27]

Finland holds the rank of the happiest country in the world for the third consecutive year.[28] It is followed by Denmark, Switzerland, Iceland and Norway. Afghanistan received the lowest score, with South Sudan and Zimbabwe just above it.[29] In addition to country rankings, this is the first year that the World Happiness Report ranks cities. The happiest city in the world is Helsinki, the capital of Finland. The report shows that the happiness ranking of cities is almost identical to that of the countries they are in.

In 2020, the editorial team expanded and Jan-Emmanuel De Neve became a co-editor, joining John F. Helliwell, Richard Layard, Jeffrey D. Sachs, and the Oxford Wellbeing Research Centre became a fourth research pillar for the report. Associate editors were Lara Aknin, Haifang Huang and Shun Wang, and Sharon Paculor was recognized as production editor. From 2020, Gallup became a full data partner.

2019 World Happiness Report[edit]

Descriptions

The 2019 World Happiness Report focuses community. According to the 2019 Happiness Report, Finland is the happiest country in the world,[30] with Denmark, Norway, Iceland, and The Netherlands holding the next top positions.

The second chapter of the report, 'Changing World Happiness', measures year-to-year changes in happiness across countries. For this, changes are reported from 2005-2008 to 2016-2018. Of the 132 countries with data for 2005-2008 and 2016-2018, 106 had significant changes: 64 were significant increases and 42 were significant decreases. Benin was the top gainer, while Venezuela showed the greatest decrease. The chapter also considers how happiness has been affected by changes in the quality of government. The third chapter considers happiness and voting behaviour, with data suggesting that happier people are more likely to vote, and to vote for incumbents.

The fourth chapter is an examination of happiness and pro-social behaviour, finding that people are more likely to derive happiness from helping others when they feel free to choose whether or how to help, when they feel connected to the people they are helping, and when they can see how their help is making a difference.

The final topic of the report, digital and information technologies and happiness, is covered in the remaining chapters.

The editorial team for the 2019 report was expanded to include Lara Aknin as associate editor.

2018 World Happiness Report[edit]

Descriptions

The 2018 iteration was released on 20 March and focused on the relation between happiness and migration.

2017 World Happiness Report[edit]

Descriptions

The fifth World Happiness Report emphasizes the importance of the social foundations of happiness, which are analysed by comparing the life experiences between the top and bottom ten countries in the year’s happiness rankings. Norway topped the global happiness rankings in this report, jumping from fourth place in 2016 to first in 2017. It was followed by Denmark, Iceland and Switzerland. The second chapter of the report focuses on the global rankings and calculates that bringing the social foundations from the lowest levels up to world average levels in 2014-2016 would increase life evaluations by almost two points. This means that social foundations effects are together larger than those of GDP per capita and healthy life expectancy.

Chương thứ ba tập trung vào tăng trưởng kinh tế và phúc lợi ở Trung Quốc, và cho thấy rằng thất nghiệp và thay đổi của mạng lưới an toàn xã hội giải thích cả sau năm 1990 rơi vào cấp độ hạnh phúc và sự phục hồi tiếp theo kể từ năm 2005. Chương thứ tư thảo luận về lý do tại sao các quốc gia ở Châu Phi thường bị tụt lại phía sau những người khác trong các đánh giá cuộc sống. Chương thứ năm phân tích các yếu tố chính quyết định hạnh phúc, bao gồm thu nhập, sức khỏe tâm thần và sức khỏe thể chất. Chương thứ sáu xem xét yếu tố quyết định việc làm và công việc nói riêng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm cho hạnh phúc trên toàn thế giới. Chương cuối cùng sử dụng lịch sử hạnh phúc trong mười năm qua, phân tích trường hợp của Hoa Kỳ thông qua lăng kính của các nền tảng xã hội của hạnh phúc.

Báo cáo hạnh phúc thế giới 2016 [Chỉnh sửa][edit]

Mô tả

Báo cáo Hạnh phúc Thế giới 2016 -Rome đã được phát hành trong hai phần dưới dạng bản cập nhật. Phần một có bốn chương: (1) thiết lập giai đoạn, (2) phân phối hạnh phúc thế giới, (3) thúc đẩy đạo đức thế tục, và (4) hạnh phúc và phát triển bền vững: các khái niệm và bằng chứng. Phần hai có sáu chương: (1) Bên trong hộp đen thỏa mãn cuộc sống, (2) sự hưng thịnh của con người, lợi ích chung và giảng dạy xã hội Công giáo, (3) những thách thức của hạnh phúc công cộng: Tái thiết phương pháp học lịch sử, (4) Địa lý về việc làm cha mẹ và hạnh phúc: trẻ em có làm cho chúng ta hạnh phúc, ở đâu và tại sao ?, và (5) hạnh phúc đa chiều ở châu Âu đương đại: phân tích về việc sử dụng bản đồ tự tổ chức được áp dụng để chia sẻ dữ liệu.

Chương 1, Thiết lập sân khấu được viết bởi John F. Helliwell, Richard Layard và Jeffrey Sachs. Chương này khảo sát ngắn gọn Phong trào Hạnh phúc ("Càng ngày, hạnh phúc được coi là thước đo đúng đắn về tiến bộ xã hội và mục tiêu của chính sách công.") Đưa ra một cái nhìn tổng quan về các báo cáo và bản tóm tắt năm 2016 của cả hai phần của bản cập nhật bổ sung Rome 2016.

Chương 2, Sự phân phối hạnh phúc thế giới được viết bởi John F. Helliwell, ca ngợi Huang và Shun Wang. Chương này báo cáo mức độ hạnh phúc của các quốc gia và đề xuất việc sử dụng bất bình đẳng hạnh phúc giữa các cá nhân như một biện pháp bất bình đẳng tốt hơn bất bình đẳng thu nhập và tất cả mọi người trong một dân số tốt hơn về hạnh phúc khi có ít bất bình đẳng trong hạnh phúc trong khu vực của họ . Nó bao gồm dữ liệu từ các chỉ số phát triển thế giới và của Tổ chức Y tế Thế giới, cũng như cuộc thăm dò của Gallup World. Nó làm sáng tỏ quan niệm rằng mọi người nhanh chóng thích nghi với những thay đổi trong hoàn cảnh sống và nhanh chóng trở lại cơ sở sự hài lòng ban đầu, thay vào đó là những thay đổi trong hoàn cảnh sống như chính sách của chính phủ, các sự kiện lớn trong cuộc sống (thất nghiệp, khuyết tật lớn) và nhập cư thay đổi cuộc sống cơ sở của mọi người mức độ hài lòng. Chương này cũng đề cập đến biện pháp ảnh hưởng (cảm xúc), phát hiện ra rằng ảnh hưởng tích cực (hạnh phúc, tiếng cười, sự thích thú) có nhiều "ảnh hưởng lớn và có ý nghĩa cao" đến sự hài lòng của cuộc sống so với ảnh hưởng tiêu cực (lo lắng, buồn bã, tức giận). Chương này cũng xem xét sự khác biệt về mức độ hạnh phúc được giải thích bởi các yếu tố của (1) hỗ trợ xã hội, (2) thu nhập, (3) cuộc sống lành mạnh, (4) tin tưởng vào chính phủ và kinh doanh, (5) nhận thấy tự do đưa ra quyết định cuộc sống và ( 6) Sự hào phóng.

Chương 3, thúc đẩy đạo đức thế tục được viết bởi Richard Layard, chương này lập luận về sự hồi sinh của một cuộc sống đạo đức và thế giới, đang trở nên khó khăn khi các tổ chức tôn giáo là một lực lượng thống trị. Nó kêu gọi các tổ chức phi lợi nhuận thế tục thúc đẩy "cuộc sống đạo đức theo cách cung cấp cảm hứng, nâng cao, niềm vui và sự tôn trọng lẫn nhau", và đưa ra các ví dụ về việc thực hiện bởi một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập bởi Richard Layard, [31] Hành động cho hạnh phúc, cung cấp thông tin trực tuyến từ tâm lý học tích cực và giáo lý Phật giáo.

Chương 4, Hạnh phúc và Phát triển bền vững: Các khái niệm và bằng chứng được viết bởi Jeffrey Sachs. Chương này xác định các cách mà các chỉ số phát triển bền vững (các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường) có thể được sử dụng để giải thích các biến thể trong hạnh phúc. Nó kết thúc với một báo cáo về một kháng cáo để bao gồm các chỉ số phúc lợi chủ quan vào các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (SDGs).

Phần hai 2016 Phiên bản Rome đặc biệt được chỉnh sửa bởi Jeffrey Sacks, Leonardo Becchetti và Anthony Arnett.

Chương 1, Inside The Life Hadine Blackbox được viết bởi Leonardo Becchetti, Luisa Carrado, [32] và Paolo Sama. Chương này đề xuất sử dụng các phép đo chất lượng cuộc sống (một loạt các biến số mà đánh giá cuộc sống) thay cho hoặc ngoài các đánh giá cuộc sống tổng thể trong các báo cáo hạnh phúc thế giới trong tương lai.

Chapter 2, Human Flourishing, the Common Good, and Catholic Social Teaching is written by Anthony Annett. This chapter contains explanations for three theories: (1) It is human nature to broadly define happiness and understand the connection between happiness and the common good, (2) that the current understanding of individuality is stripped of ties to the common good, and (3) that there is a need to restore the common good as central value for society. The chapter also proposes Catholic school teachings as a model for restoring the common good as a dominant value.

Chapter 3, The Challenges of Public Happiness: An Historical-Methodological Reconstruction is written by Luigino Bruni and Stefano Zemagni. This chapter contemplates Aristotelian concepts of happiness and virtue as they pertain to and support the findings in the World Happiness Reports regarding the impact of social support, trust in government, and equality of happiness.

Chapter 4, The Geography of Parenthood and Well-Being. Do Children Make Us Happy, Where and Why? is written by Luca Stanca.[33] This chapter examines other research findings that children do not add happiness to parents. Using data from the World Values Survey, it finds that, with the exception of widowed parents, having children has a negative effect on life satisfaction for parents in 2/3 of the 105 countries studied, with parents in richer countries suffering more. Once parents are old, life satisfaction increases. The chapter concludes that "existing evidence is not conclusive" and a statement that the causes for the low life satisfaction levels may be that for richer countries, having children is valued less, and in poorer countries, people suffer in financial and time costs when they have children.

Chapter 5, Multidimensional Well-Being in Contemporary Europe: Analysis of the Use of Self-Organizing Map Allied to SHARE Data is written by Mario Lucchini, Luca Crivelli[34] and Sara della Bella. This chapter contains a study of well-being data from older European adults. It finds that this chapter's study results were consistent with the World Happiness Report 2016 update: positive affect (feelings) have a stronger impact on a person's satisfaction with life than do negative affect (feelings).

2015 World Happiness Report[edit]

Descriptions

The 2015 World Happiness Report has eight chapters: (1) Setting the Stage, (2) The Geography of World Happiness, (3) How Does Subjective Well-being Vary Around the World by Gender and Age?, (4) How to Make Policy When Happiness is the Goal, (5) Neuroscience of Happiness, (6) Healthy Young Minds Transforming the Mental Health of Children, (7) Human Values, Civil Economy, and Subjective Well-being, and (8) Investing in Social Capital.

Chapter 1, Setting the Stage is written by John F. Helliwell, Richard Layard and Jeffrey Sachs. This chapter celebrates the success of the happiness movement ("Happiness is increasingly considered a proper means of social progress and public policy."), citing the OECD Guidelines on Measuring Subjective Well-being, a referendum in the EU requiring member nations to measure happiness, and the success of the World Happiness reports (with readership at about 1.5 million), and the adoption of happiness by the government of the United Arab Emirates, and other areas. It sets an aspiration of the inclusion of subjective well-being into the 2015 Sustainable Development Goals (not fulfilled), and outlines the 2015 report. It also address the use of the term Happiness, identifying the cons (narrowness of the term, breath of the term, flakiness), and defining the use of the term for the reasons that the 2011 UN General Assembly Resolution 65/309 Happiness Towards A Holistic Approach to Development[35] and April 2012 UN High Level Meeting: Well-being and Happiness: Defining a New Economic Paradigm,[36] Bhutan's Gross National Happiness[37] philosophy, the term's "convening and attention attracting power", and the asset in a "double usage of happiness" as an emotional report and life evaluation.

Chapter 2, The Geography of Happiness is written by John F. Helliwell, Hailing Huang and Shun Wang. This chapter reports the happiness of nations measured by life evaluations. It includes color coded maps and an analysis of six factors the account for the differences: (1) social support in terms of someone to count on in times of need, (2) GDP per capita (income), (3) life expectancy (in terms of healthy years), (4) sense of corruption in government and business (trust), (5) perceived freedom to make life decisions, and (6) generosity. The first three factors were found to have the biggest impact on a population's happiness. Crisis (natural disasters and economic crisis) the quality of governance, and social support were found to be the key drivers for changes in national happiness levels, with the happiness of nations undergoing a crisis in which people have a strong sense of social support falling less than nations where people do not have a strong sense of social support.

Chương 3, Làm thế nào để sự thịnh vượng chủ quan khác nhau trên toàn cầu theo giới tính và tuổi tác? được viết bởi Nicole Fortin, John F. Helliwell và Shun Wang. Chương này sử dụng dữ liệu cho 12 trải nghiệm: hạnh phúc (cảm xúc), mỉm cười hoặc cười, thích thú, cảm thấy an toàn vào ban đêm, cảm thấy được nghỉ ngơi tốt và cảm thấy quan tâm, cũng như sự tức giận, lo lắng, buồn bã, trầm cảm, căng thẳng và đau đớn để kiểm tra sự khác biệt theo giới tính và tuổi tác. Các phát hiện được báo cáo bao gồm rằng không có nhiều sự khác biệt trong đánh giá cuộc sống giữa nam và nữ trên khắp các quốc gia hoặc trong độ tuổi trong một quốc gia (phụ nữ có đánh giá cuộc sống cao hơn một chút so với nam giới: 0,09 theo thang điểm mười). Nó báo cáo rằng hạnh phúc tổng thể rơi vào hình chữ U với tuổi trên trục X và hạnh phúc trên Y, với điểm thấp là tuổi trung niên (45-50) đối với hầu hết các quốc gia (trong một số hạnh phúc không tăng lên nhiều trong suốt sau này, Vì vậy, hình dạng giống như một đường trượt xuống dốc), và hình dạng U giữ cho cảm giác được nghỉ ngơi tốt ở tất cả các khu vực. Nó phát hiện ra rằng đàn ông thường cảm thấy an toàn hơn vào ban đêm so với phụ nữ, nhưng khi so sánh các quốc gia, người dân ở Mỹ Latinh có cảm giác an toàn thấp nhất vào ban đêm, trong khi người dân ở Đông Á và Tây Âu có cảm giác an toàn cao nhất vào ban đêm. Nó cũng phát hiện ra rằng khi phụ nữ già cảm, cảm giác hạnh phúc của họ suy giảm và căng thẳng tăng lên nhưng lo lắng giảm đi, vì tất cả mọi người đều già đi cười, sự thích thú và tìm thấy một điều gì đó đáng quan tâm cũng suy giảm, rằng sự tức giận được cảm nhận ở khắp mọi nơi gần như như nhau bởi đàn ông và phụ nữ, những đỉnh cao căng thẳng trong Thời trung cổ, và phụ nữ trải qua trầm cảm hơn nam giới. Nó phát hiện ra rằng nơi người già hạnh phúc hơn, có ý thức hỗ trợ xã hội, tự do để đưa ra lựa chọn cuộc sống và sự hào phóng (và thu nhập không phải là yếu tố nhiều như ba yếu tố này).

Chương 4, Làm thế nào để thực hiện chính sách khi hạnh phúc là mục tiêu được viết bởi Richard Layard và Gus O'Donnell. Chương này ủng hộ một "hình thức phân tích lợi ích chi phí mới" cho các chi tiêu của chính phủ, trong đó một "mức độ hạnh phúc quan trọng" mang lại bởi một dự án được thiết lập. Nó dự tính ưu tiên tăng hạnh phúc của hạnh phúc so với giảm đau khổ của những người khốn khổ, cũng như các vấn đề về tốc độ chiết khấu (cân nặng) cho hạnh phúc của các thế hệ tương lai. Nó bao gồm một phụ lục kỹ thuật với các phương trình tính toán tối đa hóa hạnh phúc trong chi tiêu công, chính sách thuế, quy định, phân phối hạnh phúc và tỷ lệ chiết khấu.

Chương 5, Khoa học thần kinh hạnh phúc được viết bởi Richard J. Dawson và Brianna S. Schuyler. Chương này báo cáo về nghiên cứu về khoa học não và hạnh phúc, xác định bốn khía cạnh giải thích cho hạnh phúc: (1) cảm xúc tích cực duy trì, (2) phục hồi cảm xúc tiêu cực (khả năng phục hồi), (3) sự đồng cảm, lòng vị tha và hành vi ủng hộ xã hội, và (4) Chánh niệm (bệnh tâm trí/bệnh tật tình cảm). Nó kết luận rằng tính đàn hồi của bộ não chỉ ra rằng người ta có thể thay đổi cảm giác hạnh phúc và sự hài lòng của một người (các hậu quả tích cực nhưng chồng chéo) bằng cách trải nghiệm và thực hành chánh niệm, lòng tốt và sự hào phóng; và kêu gọi nghiên cứu thêm về các chủ đề này.

Chương 6, Tâm trí trẻ khỏe mạnh: Biến đổi sức khỏe tinh thần của trẻ em được viết bởi Richard Layard và Ann Hagell. [38] Chương này xác định sự phát triển cảm xúc là tầm quan trọng hàng đầu, (so với các yếu tố học thuật và hành vi) trong sự phát triển của trẻ và quyết tâm liệu một đứa trẻ có phải là một người trưởng thành hạnh phúc và hoạt động tốt hay không. Sau đó, nó tập trung vào vấn đề bệnh tâm thần ở trẻ em, với lý do thống kê rằng trong khi 10% trẻ em trên toàn thế giới (khoảng 200 triệu) gặp phải các vấn đề về sức khỏe tâm thần có thể chẩn đoán đang trong điều trị. Nó xác định các bước hành động để điều trị cho trẻ em có vấn đề về sức khỏe tâm thần: các chương trình chăm sóc sức khỏe trẻ em của cộng đồng địa phương, đào tạo các ngành nghề chăm sóc sức khỏe để xác định các vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em, ngang bằng các vấn đề và điều trị về tinh thần và thể chất, tiếp cận với bằng chứng- Dựa trên điều trị sức khỏe tâm thần cho gia đình và trẻ em, thúc đẩy hạnh phúc trong các trường học với các quy tắc hạnh phúc thông báo cho hành vi tổ chức của các trường học, đào tạo giáo viên để xác định sức khỏe tâm thần ở trẻ em, giáo lý về kỹ năng sống, đo lường sức khỏe của trẻ em bằng cách Các trường học, phát triển các ứng dụng miễn phí có sẵn quốc tế để điều trị bệnh tâm thần ở thanh thiếu niên và bao gồm sức khỏe tâm thần với mục tiêu sức khỏe thể chất trong các mục tiêu phát triển bền vững. Chương này liệt kê những lợi ích của việc điều trị sức khỏe tâm thần của trẻ em: cải thiện hiệu suất giáo dục, giảm tội phạm thanh thiếu niên, thu nhập và việc làm được cải thiện ở tuổi trưởng thành và nuôi dạy con tốt hơn của thế hệ tiếp theo.

Chapter 7, Human Values, Civil Economy and Subjective Well-being is written by Leonardo Bechhetti,[39] Luigino Bruni and Stefano Zamagni. This chapter begins with a critique of the field of economics ("Economics today looks like physics before the discovery of electrons"), identifying reductionism in which humans are conceived of as 100% self-interested individuals (economic reductionism), profit maximization is prioritized over all other interests (corporate reductionism), and societal values are narrowly identified with GDP and ignore environmental, cultural, spiritual and relational aspects (value reductionism). The chapter them focuses on a theoretical approach termed "Civil Economy paradigm", and research about it demonstrating that going beyond reductionism leads to greater socialization for people and communities, and a rise in priority of the values of reciprocity, friendship, trustworthiness, and benevolence. It makes the argument that positive social relationships (trust, benevolence, shared social identities) yield happiness and positive economic outcomes. It ends with recommendations for move from the dominant model of elite-competitive democracy to a participatory/deliberative model of democracy with bottom-up political and economic participation and incentives for non-selfish actions (altruistic people) and corporations with wider goals than pure profit (ethical and environmentally responsible corporations).

Chapter 8, Investing in Social Capital is written by Jeffrey Sachs. This chapter focuses on "pro-sociality" ("individuals making decisions for the common good that may conflict with short-run egoistic incentives"). It identifies pro-social behaviors: honesty, benevolence, cooperation and trustworthiness. It recommends investment in social capital through education, moral instruction, professional codes of conduct, public censure and condemnation of violators of public trust, and public policies to narrow income inequalities for countries where there is generalized distrust of government and business, pervasive corruption and lawless behavior (such as tax evasion).

2013 World Happiness Report[edit]

Descriptions

The 2013 World Happiness Report has eight chapters: (1) Introduction, (2) World Happiness: Trends, Explanations and Distribution, (3) Mental Illness and Unhappiness, (4) The Objective Benefits of Subjective Well-being, (5) Restoring Virtue Ethics in the Quest for Happiness, (6) Using Well-being as a Guide to Policy, (7) The OECD Approach to Measuring Subjective Well-being, and (8) From Capabilities to Contentment: Testing the Links between Human Development and Life Satisfaction.

Chapter 1, Introduction is written by John F. Helliwell, Richard Layard and Jeffrey Sachs. It synopsizes the chapters and gives a discussion of the term happiness.

Chapter 2, World Happiness: Trends, Explanations and Distributions is written by John F. Helliwell and Shun Wang. It provides ratings among countries and regions for satisfaction with life using the Cantril Ladder, positive and negative affect (emotions), and log of GDP per capita, years of healthy life expectancy, having someone to count on in times of trouble, perceptions of corruption, prevalence of generosity, and freedom to make life choices.

Chapter 3, Mental Illness and Unhappiness is written by Richard Layard, Dan Chisholm, Vikram Patel, and Shekhar Saxel. It identifies the far ranging prevalence of mental illness around the world (10% of the world's population at one time) and provides the evidence showing that "mental illness is a highly influential - and...the single biggest - determinant of misery". It concludes with examples of interventions implemented by countries around the world.

Chapter 4, The Objective Benefits of Subjective Well-being is written by Jan-Emmanuel de Neve, Ed Diener, Louis Tay and Cody Xuereb. It provides an explanation of the benefits of subjective well-being (happiness) on health & longevity, income, productivity & organizational behavior, and individual & social behavior. It touches on the role of happiness in human evolution through rewarding behaviors that increase evolutionary success and beneficial to survival.

Chapter 5, Restoring Virtue Ethics in the Quest for Happiness is written by Jeffrey Sachs. It argues that "a renewed focus on the role of ethics, and in particular of virtuous behavior, in happiness could lead us to new and effective strategies for raising individual, national and global well-being", looking to the eightfold noble path (the teachings of the dharma handed down in the Buddhist tradition that encompass wise view/understanding, wise intention, wise speech, wise action, wise livelihood, and effort, concentration and mindfulness), Aristotelian philosophy (people are social animals, "with individual happiness secured only within a political community...[which] should organize its institutions to promote virtuous behavior), and Christian doctrine of St. Thomas Aquinas ("placing happiness in the context of servicing God's will"). It gives an explanation of the evolution of the field of economics up t the "failures of hyper-commercialism" and suggests an antidote based on four global ethical values: (1) non-violence and respect for life, (2) justice and solidarity, (3) honesty and tolerance, and (4) mutual esteem and partnership.

Chương 6, sử dụng hạnh phúc làm hướng dẫn chính sách công được viết bởi Gus O'Donnell. Chương này đưa ra một báo cáo tình trạng về các vấn đề mà chính phủ phải vật lộn trong việc áp dụng các biện pháp và mục tiêu hạnh phúc và hạnh phúc cho chính sách, từ việc hiểu dữ liệu hay xác định xem một chính sách cụ thể có cải thiện hạnh phúc hay không, để tìm ra cách "kết hợp hạnh phúc vào chính sách tiêu chuẩn ". Nó cung cấp các ví dụ về những nỗ lực để đo lường hạnh phúc và hạnh phúc từ Bhutan, New Zealand, Nam Phi, Vương quốc Anh, và các thành phố và cộng đồng ở Mỹ, Canada, Úc và Tasmania. Nó xác định các lĩnh vực chính sách chính của y tế, giao thông và giáo dục cho các nhà hoạch định chính sách tập trung và bao gồm các cuộc thảo luận về khả năng so sánh giữa các cá nhân (tập trung vào "khiến mọi người thoát khỏi sự khốn khổ" thay vì làm cho những người hạnh phúc hạnh phúc hơn), tỷ lệ chiết khấu (chúng ta có đầu tư nhiều hơn vào Hạnh phúc cho mọi người ngày nay hay trong tương lai?) Và đặt giá trị tiền tệ vào hạnh phúc cho các quyết định đánh đổi chính sách (ví dụ: nếu "giảm 10% tiếng ồn SWB thêm một đơn vị, thì chúng ta có thể suy luận rằng giảm 10% là" đáng giá "1.000 đô la" khi 1.000 đô la sẽ tăng SWB của một người thêm một đơn vị).

Chương 7, Cách tiếp cận OECD để đo lường hạnh phúc chủ quan được viết bởi Martine Durand và Conal Smith. Chương này được viết cùng năm, OECD đã ban hành các hướng dẫn của mình về việc đo lường sức khỏe chủ quan, [40] và là một bản tóm tắt như vậy. Nó bao gồm một định nghĩa cho hạnh phúc chủ quan: đánh giá cuộc sống (phản ánh của một người về hoàn cảnh cuộc sống và cuộc sống của họ), ảnh hưởng (cảm xúc tích cực và tiêu cực) và eudaimonia; Các biện pháp cốt lõi, một cuộc thảo luận về quy trình thu thập dữ liệu, khảo sát và thiết kế mẫu, các khía cạnh khác của việc sử dụng các số liệu chủ quan và ý tưởng về cách các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng dữ liệu hạnh phúc chủ quan. Nó khảo sát tình trạng của các quốc gia giàu có quá trình thu thập dữ liệu chủ quan và xác định các hướng thử nghiệm trong tương lai và các biện pháp thu nhập tốt hơn, trích dẫn nghịch lý Easterlin làm cơ sở cho cuộc gọi này.

Chương 8, Từ khả năng đến sự hài lòng: Kiểm tra các liên kết giữa sự phát triển của con người và sự hài lòng của cuộc sống được viết bởi Jon Hall. [41] Chương này giải thích các thành phần của sự phát triển của con người bằng cách sử dụng các số liệu khách quan: (1) Giáo dục, Sức khỏe và Chỉ huy về Thu nhập và Tài nguyên Dinh dưỡng, (2) Tham gia và Tự do, (3) An ninh con người, (4) Vốn chủ sở hữu và (5) Tính bền vững; Những phát hiện chính của Chỉ số Phát triển Con người (HDI) ("Mối quan hệ yếu giữa tăng trưởng kinh tế và thay đổi về sức khỏe và giáo dục" cũng như tuổi thọ) và xem xét mối quan hệ giữa HDI và hạnh phúc, tìm thấy rằng (1) các thành phần của HDI "Tương quan mạnh mẽ với các đánh giá cuộc sống tốt hơn" và (2) có một mối quan hệ mạnh mẽ giữa đánh giá cuộc sống và "HDI không thu nhập". Nó dự tính đo lường các điều kiện của cuộc sống ngoài HDI quan trọng đối với hạnh phúc: (1) điều kiện làm việc tốt hơn, (2) an ninh chống lại tội phạm và bạo lực thể xác, (3) tham gia vào các hoạt động kinh tế và chính trị, (4) tự do và (5) Bất bình đẳng. Kết luận với các tuyên bố rằng HDI và SWB có cách tiếp cận tương tự và quan trọng là kết nối, với hai ngành cung cấp các quan điểm phát triển thay thế và bổ sung.

Báo cáo hạnh phúc thế giới 2012 [Chỉnh sửa][edit]

Mô tả

Báo cáo hạnh phúc thế giới năm 2012 được ban hành tại cuộc họp cấp cao của Liên Hợp Quốc và hạnh phúc: Xác định một mô hình kinh tế mới [42] của các biên tập viên John F. Helliwell, Richard Layard và Jeffrey Sachs. Phần một có phần giới thiệu (Chương 1) và ba chương: (2) Trạng thái hạnh phúc thế giới, (3) nguyên nhân của hạnh phúc và đau khổ, một số ý nghĩa chính sách. Phần hai có ba chương, mỗi chương, một nghiên cứu trường hợp, của Bhutan, Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh và OECD.

Chương 1, phần giới thiệu là của Jeffrey Sachs và tài liệu tham khảo Phật và Aristotle, xác định thời đại ngày nay là Anthropocene, và xác định lý do GDP không phải là một biện pháp đủ để hướng dẫn chính phủ và xã hội.

Chương 2, Tình trạng hạnh phúc thế giới, được viết bởi John F. Helliwell và Shun Wang, [43] và chứa một cuộc thảo luận về các biện pháp phúc lợi chủ quan, từ tính hợp lệ của các biện pháp hạnh phúc chủ quan đến sự nghiêm trọng của hạnh phúc, Hạnh phúc đặt ra các điểm và so sánh văn hóa, và nó bao gồm dữ liệu từ cuộc thăm dò của Gallup World, Khảo sát xã hội châu Âu và Khảo sát giá trị thế giới. [44]

Chương 3, Nguyên nhân của hạnh phúc và sự khốn khổ được viết bởi Richard Layard, Andrew Clark, [45] và Claudia Senik, [46] và dự tính nghiên cứu về tác động đến hạnh phúc của các yếu tố bên ngoài của thu nhập, công việc, cộng đồng và quản trị, giá trị, giá trị và tôn giáo, cũng như các yếu tố nội bộ của sức khỏe tâm thần, sức khỏe thể chất, kinh nghiệm gia đình, giáo dục, và giới tính và tuổi tác.

Chương 4, Một số hàm ý chính sách, được viết bởi John F. Helliwell, Richard Layard và Jeffrey Sachs, kêu gọi sự hiểu biết lớn hơn về cách chính phủ có thể đo lường hạnh phúc, quyết định hạnh phúc và sử dụng dữ liệu hạnh phúc và phát hiện về các yếu tố quyết định cho mục đích chính sách. Nó cũng nhấn mạnh vai trò của GDP ("GDP rất quan trọng nhưng không phải là tất cả những gì quan trọng") như một hướng dẫn cho các nhà hoạch định chính sách, tầm quan trọng của các nhà hoạch định chính sách nên đặt cơ hội cho việc làm; Vai trò của hạnh phúc trong việc hoạch định chính sách ("biến hạnh phúc thành một mục tiêu của các chính phủ do đó sẽ không dẫn đến" xã hội phục vụ ", và thực sự hoàn toàn ngược lại ... hạnh phúc đến từ cơ hội để nhào nặn tương lai của chính mình, và do đó phụ thuộc vào Mức độ tự do mạnh mẽ. "); Vai trò của các giá trị và tôn giáo ("Trong các xã hội hoạt động tốt, có sự hỗ trợ rộng rãi cho giá trị phổ quát mà chúng ta nên đối xử với người khác vì chúng ta muốn họ đối xử với chúng ta. một cảm giác của sự bất lực trong phần còn lại của xã hội. "); kêu gọi tiếp cận rộng hơn các liệu pháp tâm lý trong một phần về sức khỏe tâm thần trích dẫn thực tế là một phần ba của tất cả các gia đình bị ảnh hưởng bởi bệnh tâm thần; Xác định những cải tiến về sức khỏe thể chất là "có lẽ là yếu tố quan trọng nhất đã cải thiện hạnh phúc của con người" và kêu gọi khoảng cách nghèo trong việc chăm sóc sức khỏe giữa các nước giàu và nghèo; các cuộc gọi về nơi làm việc và chính sách của chính phủ khuyến khích cân bằng cuộc sống của công việc và giảm căng thẳng, bao gồm hỗ trợ gia đình và chăm sóc trẻ em; và tuyên bố rằng "tiếp cận phổ quát vào giáo dục được đánh giá rộng rãi là một quyền cơ bản của con người ..." Chương kết luận với một cuộc thảo luận triết học.

Chương 5, Nghiên cứu trường hợp: Hạnh phúc quốc gia Bhutan Gross và Chỉ số GNH được viết bởi Karma Ura, [47] Sabine Alkire, [48] và Tsoki Zangmo. Nó đưa ra một lịch sử ngắn về sự phát triển của khái niệm Hạnh phúc quốc gia (GNH) trong Bhutan, và một lời giải thích về chỉ số GNH, thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu, bao gồm cả phương pháp xếp hạng để xác định xem một cá nhân có trải nghiệm mức độ đầy đủ cũng như ý nghĩa chính sách và lối sống

Chương 6, Nghiên cứu trường hợp: ONS đo lường sức khỏe chủ quan: Văn phòng kinh nghiệm thống kê quốc gia Vương quốc Anh được viết bởi Stephen Hicks. Nó bao gồm cơ sở để tạo ra chương trình phúc lợi quốc gia đo lường [49] tại Văn phòng Thống kê Quốc gia của Vương quốc Anh [50] (ONS) và phát triển phương pháp của họ để đo lường sức khỏe.

Chương 5, Nghiên cứu trường hợp Hướng dẫn OECD về việc đo lường sức khỏe chủ quan là một lời giải thích về quá trình và lý do mà OECD đã thực hiện để phát triển các hướng dẫn của mình về việc đo lường sức khỏe chủ quan, [51] mà nó được ban hành vào năm 2013.

Bảng xếp hạng quốc tế [Chỉnh sửa][edit]

Dữ liệu được thu thập từ người dân ở hơn 150 quốc gia. Mỗi biến số được đo cho thấy điểm trung bình có trọng số dân cư trên thang điểm chạy từ 0 đến 10 được theo dõi theo thời gian và so sánh với các quốc gia khác. Các biến này hiện bao gồm:

  • GDP thực sự bình quân đầu người
  • hỗ trợ xã hội
  • Tuổi thọ lành mạnh
  • Tự do đưa ra lựa chọn cuộc sống
  • sự hào phóng
  • Nhận thức về tham nhũng

Mỗi quốc gia cũng được so sánh với một quốc gia giả định gọi là dystopia. Dystopia đại diện cho mức trung bình quốc gia thấp nhất cho từng biến chính và cùng với lỗi dư, được sử dụng làm điểm chuẩn hồi quy. Sáu số liệu được sử dụng để giải thích mức độ ước tính mà mỗi yếu tố này góp phần tăng sự hài lòng về cuộc sống khi so sánh với quốc gia giả thuyết của dystopia, nhưng bản thân chúng không có tác động đến tổng số điểm được báo cáo cho mỗi quốc gia. [52]

Báo cáo 2022 [Chỉnh sửa][edit]

không xác định

Báo cáo 2021 [Chỉnh sửa][edit]

Báo cáo năm 2020 [Chỉnh sửa][edit]

Báo cáo năm 2020 có điểm số hạnh phúc trung bình trong những năm 2017 20172019. Phần Lan là quốc gia 'hạnh phúc nhất' trên thế giới, tiếp theo là Đan Mạch, Thụy Sĩ, Iceland và Na Uy. Dữ liệu đến từ cuộc thăm dò của Gallup World, hoàn toàn dựa trên điểm số khảo sát và câu trả lời cho câu hỏi đánh giá cuộc sống chính được hỏi trong cuộc thăm dò.

Báo cáo 2019 [Chỉnh sửa][edit]

Báo cáo năm 2019 có điểm số hạnh phúc trung bình trong những năm 2016 20162018. Theo Chỉ số Hạnh phúc 2019, Phần Lan là quốc gia 'hạnh phúc nhất' trên thế giới. Đan Mạch, Na Uy, Iceland và Hà Lan giữ các vị trí hàng đầu tiếp theo. Báo cáo được xuất bản vào ngày 20 tháng 3 năm 2019 bởi UN. Báo cáo đầy đủ có thể được đọc tại báo cáo năm 2019. Báo cáo Hạnh phúc Thế giới là một cuộc khảo sát mang tính bước ngoặt về tình trạng hạnh phúc toàn cầu.

Báo cáo 2018 [Chỉnh sửa][edit]

Báo cáo năm 2018 có điểm số hạnh phúc trung bình trong những năm 2015 20152017. Theo Chỉ số Hạnh phúc 2018, Phần Lan là quốc gia 'hạnh phúc nhất' trên thế giới. Na Uy, Đan Mạch, Iceland và Thụy Sĩ giữ các vị trí hàng đầu tiếp theo. Báo cáo được xuất bản vào ngày 14 tháng 3 năm 2018 bởi UN. Báo cáo đầy đủ có thể được đọc tại báo cáo năm 2018. Báo cáo Hạnh phúc Thế giới là một cuộc khảo sát mang tính bước ngoặt về tình trạng hạnh phúc toàn cầu. Báo cáo Hạnh phúc Thế giới 2018, xếp hạng 156 quốc gia theo cấp độ hạnh phúc của họ và 117 quốc gia bởi hạnh phúc của người nhập cư, đã được phát hành vào ngày 14 tháng 3 tại một sự kiện ra mắt tại Học viện Khoa học Giáo hoàng ở Vatican.

Báo cáo 2017 [Chỉnh sửa][edit]

Báo cáo năm 2017 có điểm số hạnh phúc trung bình trong những năm 2014 20142016. Đối với thời gian đó, Na Uy là quốc gia 'hạnh phúc' chung nhất trên thế giới, mặc dù giá dầu đã giảm. Đóng phía sau là Đan Mạch, Iceland và Thụy Sĩ trong một gói chặt chẽ. Bốn trong số năm quốc gia hàng đầu theo mô hình Bắc Âu. Tất cả mười quốc gia hàng đầu đều có điểm số cao trong sáu loại. Các quốc gia tiếp theo được xếp hạng trong top 10 là: Phần Lan, Hà Lan, Canada, New Zealand, Úc và Thụy Điển.

Báo cáo năm 2016 [Chỉnh sửa][edit]

Criticism[edit][edit]

Metrics[edit][edit]

Các nhà phê bình đã chỉ ra sự khác biệt giữa các đánh giá và kinh nghiệm của phúc lợi. [58] . Sự không nhất quán trong kết quả của các cuộc điều tra đo lường hạnh phúc khác nhau cũng đã được ghi nhận, ví dụ, một cuộc khảo sát của 43 quốc gia trong năm 2014 (loại trừ hầu hết châu Âu) có Mexico, Israel và Venezuela hoàn thành thứ nhất, thứ hai và thứ ba. [61] Những người khác chỉ ra rằng các biến số quan tâm được sử dụng bởi Báo cáo Hạnh phúc Thế giới phù hợp hơn để đo lường cấp quốc gia chứ không phải là hạnh phúc cấp cá nhân. [62]

Methodology[edit][edit]

Báo cáo Hạnh phúc Thế giới Việc sử dụng một chỉ số đơn hàng duy nhất về sức khỏe chủ quan về cơ bản khác với các phương pháp chỉ số truyền thống hơn sử dụng một loạt các chỉ số như Chỉ số phát triển con người của Liên Hợp Quốc, Chỉ số cuộc sống tốt hơn của OECD năm 2011 hoặc Chỉ số tiến bộ xã hội năm 2013. Cũng đã có một cuộc tranh luận đang diễn ra liên quan đến thang đo đơn hàng và nhiều mục như các biện pháp hài lòng trong cuộc sống. [63]

Ý tưởng rằng hạnh phúc chủ quan có thể được ghi lại bởi một cuộc khảo sát cũng đã được các nhà kinh tế tranh luận, những người đã xác định rằng những đánh giá của mọi người về hạnh phúc của họ có thể bị ảnh hưởng bởi cách mà, ví dụ, các kỳ thi hệ thống giáo dục của đất nước họ và Các câu hỏi khảo sát về phúc lợi chủ quan bị ảnh hưởng bởi các kiểu phản hồi. [64]

Xem thêm [sửa][edit]

  • Chỉ số Bhutan GNH
  • Các biện pháp rộng lớn về tiến bộ kinh tế
  • Năm điều chỉnh cho người khuyết tật năm
  • Kinh tế học
  • Sản phẩm quốc gia xanh
  • Chỉ số phát triển liên quan đến giới
  • Chỉ số tiến độ chính hãng
  • Hạnh phúc toàn dân tộc
  • Kinh tế hạnh phúc
  • Chỉ số hành tinh hạnh phúc
  • Chỉ số phát triển con người
  • Ngày hạnh phúc quốc tế
  • Chỉ số thịnh vượng Legatum
  • Sự hài lòng giải trí
  • Cải giàu tiền, nghèo thời gian
  • OECD Chỉ số cuộc sống tốt hơn
  • Post-materialism
  • Lý thuyết sử dụng tiến bộ
  • Tâm lý học
  • Sự hài lòng sống chủ quan
  • Chỉ số nơi sinh ra
  • WikiproTHER
  • Khảo sát giá trị thế giới
  • WIN/GIA

Notes[edit][edit]

  1. ^Điểm không bao gồm trong báo cáo ban đầu, nhưng đã đạt được bằng cách thêm điểm của châu Âu và sau đó chia cho trung bình: 6.08044. Score not included in the original report, but was attained by adding up Europe's scores and then dividing for an average: 6.08044.
  2. ^Điểm không bao gồm trong báo cáo ban đầu, nhưng đã đạt được bằng cách thêm tất cả các điểm và sau đó chia cho trung bình: 5.3053935483871. Score not included in the original report, but was attained by adding up all the scores and then dividing for an average: 5.3053935483871.
  3. ^Tình trạng chính trị của Kosovo bị tranh chấp. Có sự độc lập đơn phương khỏi Serbia vào năm 2008, Kosovo được chính thức công nhận là một quốc gia độc lập của 100 quốc gia Liên Hợp Quốc (với 13 quốc gia khác nhận ra nó tại một số điểm nhưng sau đó rút lại sự công nhận của họ) và 93 quốc gia không công nhận nó, trong khi Serbia tiếp tục tuyên bố Nó như một phần của lãnh thổ có chủ quyền của riêng mình. The political status of Kosovo is disputed. Having unilaterally declared independence from Serbia in 2008, Kosovo is formally recognised as an independent state by 100 UN member states (with another 13 states recognising it at some point but then withdrawing their recognition) and 93 states not recognizing it, while Serbia continues to claim it as part of its own sovereign territory.
  4. ^Xem những điều sau đây về các tiêu chí nhà nước: See the following on statehood criteria:
    • Mendes, Errol (30 tháng 3 năm 2010). "Nhà nước và Palestine cho các mục đích của Điều 12 (3) của Đạo luật ICC" (PDF). Ngày 30 tháng 3 năm 2010: 28, 33. Truy cập 2011-04-17: "... Nhà nước Palestine cũng đáp ứng các tiêu chí truyền thống theo Công ước Montevideo ..."; "... Thực tế là phần lớn các quốc gia đã công nhận Palestine là một quốc gia nên dễ dàng thực hiện thực tiễn nhà nước cần thiết".(PDF). 30 March 2010: 28, 33. Retrieved 2011-04-17: "...the Palestinian State also meets the traditional criteria under the Montevideo Convention..."; "...the fact that a majority of states have recognised Palestine as a State should easily fulfill the requisite state practice".
    • McKinney, Kathryn M. (1994). "Các tác động pháp lý của Tuyên ngôn Nguyên tắc của Israel-Plo: Các bước hướng tới tình trạng của Palestine". Đánh giá luật của Đại học Seattle. Đại học Seattle. 18 (93): 97. Lưu trữ từ bản gốc vào năm 2011-07-22. Truy cập 2011-04-17: "Tuy nhiên, có thể tranh luận về tình trạng của người Palestine dựa trên lý thuyết cấu thành".18 (93): 97. Archived from the original on 2011-07-22. Retrieved 2011-04-17: "It is possible, however, to argue for Palestinian statehood based on the constitutive theory".
    • McDonald, Avril (Mùa xuân năm 2009). "Chiến dịch Diễn viên dẫn đầu: Vẽ các đường chiến đấu của tranh chấp pháp lý". Tóm tắt nhân quyền. Đại học Luật Washington, Trung tâm Nhân quyền và Luật nhân đạo. 25.25. Retrieved 2011-04-17: "Whether one applies the criteria of statehood set out in the Montevideo Convention or the more widely accepted constitutive theory of statehood, Palestine might be considered a state."

References[edit][edit]

  1. ^"Câu hỏi thường gặp". WorldHappiness.Report. Truy cập 2019-08-27. "FAQ". worldhappiness.report. Retrieved 2019-08-27.
  2. ^ ab "Trang chủ báo cáo hạnh phúc thế giới".a b "World Happiness Report homepage".
  3. ^Astor, Maggie (ngày 14 tháng 3 năm 2018). "Bạn muốn hạnh phúc? Hãy thử chuyển đến Phần Lan". Thời báo New York. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2018. Astor, Maggie (March 14, 2018). "Want to Be Happy? Try Moving to Finland". The New York Times. Retrieved March 14, 2018.
  4. ^Pullella, Philip (ngày 14 tháng 3 năm 2018). "Phần Lan là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới, Hoa Kỳ bất mãn phát triển: Báo cáo của Hoa Kỳ". Tin tức & Báo cáo thế giới của Hoa Kỳ. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2018. Pullella, Philip (March 14, 2018). "Finland Is World's Happiest Country, U.S. Discontent Grows: U.N. Report". U.S. News & World Report. Retrieved March 14, 2018.
  5. ^"Trong một năm than thở, Phần Lan một lần nữa là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới". Mạng lưới giải pháp phát triển bền vững. 19 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2021. "In a Lamentable Year, Finland Again is the Happiest Country in the World". Sustainable Development Solutions Network. 19 March 2021. Retrieved 19 March 2021.
  6. ^Hunter, Marnie (18 tháng 3 năm 2022). "Các quốc gia hạnh phúc nhất thế giới cho năm 2022". CNN. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2022. Hunter, Marnie (18 March 2022). "The world's happiest countries for 2022". CNN. Retrieved 18 March 2022.
  7. ^"Trang chủ". WorldHappiness.Report. Truy cập 2022-08-01. "Home". worldhappiness.report. Retrieved 2022-08-01.
  8. ^"Báo cáo hạnh phúc thế giới". "World Happiness Report".
  9. ^"Hạnh phúc & nbsp; Kho lưu trữ DAG. "Happiness : towards a holistic approach to development : resolution / adopted by the General Assembly". UN DAG Repository.
  10. ^"Xác định một mô hình kinh tế mới: Báo cáo về cuộc họp cấp cao về phúc lợi và hạnh phúc". Nền tảng kiến ​​thức phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. "Defining a New Economic Paradigm: The Report of the High-Level Meeting on Wellbeing and Happiness". UN Sustainable Development Knowledge Platform.
  11. ^"Khảo sát GNH 2010" (PDF). Trung tâm nghiên cứu Bhutan. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2013. "GNH Survey 2010" (PDF). The Centre for Bhutan Studies. Retrieved 17 October 2013.
  12. ^"Xác định một mô hình kinh tế mới: Báo cáo về cuộc họp cấp cao về phúc lợi và hạnh phúc". Nền tảng kiến ​​thức phát triển bền vững. "Defining a New Economic Paradigm: The Report of the High-Level Meeting on Wellbeing and Happiness". Sustainable Development Knowledge Platform.
  13. ^Helliwell, John; Layard, Richard; Sachs, Jeffrey (ngày 2 tháng 4 năm 2012). "Báo cáo hạnh phúc thế giới" (PDF). Viện Trái đất Đại học Columbia. Truy cập 2014-06-29. Helliwell, John; Layard, Richard; Sachs, Jeffrey (April 2, 2012). "World Happiness Report" (PDF). Columbia University Earth Institute. Retrieved 2014-06-29.
  14. ^Kyu Lee (2013-09-09). "Mạng lưới giải pháp phát triển bền vững | Báo cáo hạnh phúc thế giới 2013". unsdsn.org. Truy cập 2014-04-25. Kyu Lee (2013-09-09). "Sustainable Development Solutions Network | World Happiness Report 2013". unsdsn.org. Retrieved 2014-04-25.
  15. ^"Câu hỏi thường gặp". WorldHappiness.Report. "FAQ". worldhappiness.report.
  16. ^"Câu hỏi thường gặp". WorldHappiness.Report. "FAQ". worldhappiness.report.
  17. ^"Thành phố và hạnh phúc: Một bảng xếp hạng và phân tích toàn cầu". Ngày 20 tháng 3 năm 2020. "Cities and Happiness: A Global Ranking and Analysis". March 20, 2020.
  18. ^"Hiểu cách Gallup sử dụng thang điểm Cantril". 24 tháng 8 năm 2009. "Understanding How Gallup Uses the Cantril Scale". 24 August 2009.
  19. ^"Tổng quan: Cuộc sống dưới Covid-19". "Overview: Life under COVID-19".
  20. ^"Sống lâu và sống tốt: Cách tiếp cận Wellby". "Living long and living well: The WELLBY approach".
  21. ^"Báo cáo hạnh phúc thế giới: Sống lâu và sống tốt". 19 tháng 3 năm 2021. "World Happiness Report: Living long and living well". 19 March 2021.
  22. ^"Phương pháp luận - Thăm dò ý kiến ​​thế giới Gallup hoạt động như thế nào?". www.gallup.com. 14 tháng 10 năm 2014. "Methodology - How Does the Gallup World Poll Work?". www.gallup.com. 14 October 2014.
  23. ^"Câu hỏi thăm dò ý kiến ​​thế giới - Gallup" (PDF). "World Poll Questions - Gallup" (PDF).
  24. ^"Khám phá cơ sở sinh học cho hạnh phúc". "Exploring the biological basis for happiness".
  25. ^"Báo cáo hạnh phúc thế giới 2021". WorldHappiness.Report. 20 tháng 3 năm 2021. Truy cập 2021-12-03. "World Happiness Report 2021". worldhappiness.report. 20 March 2021. Retrieved 2021-12-03.
  26. ^"Trong một năm than thở, Phần Lan một lần nữa là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới". WorldHappiness.Report. Truy cập 2022-03-02. "In a Lamentable Year, Finland Again is the Happiest Country in the World". worldhappiness.report. Retrieved 2022-03-02.
  27. ^"Báo cáo hạnh phúc thế giới năm 2020". WorldHappiness.Report. 20 tháng 3 năm 2020. Truy cập 2020-12-03. "World Happiness Report 2020". worldhappiness.report. 20 March 2020. Retrieved 2020-12-03.
  28. ^"Đó là một ba than bùn, Phần Lan giữ vị trí hàng đầu là đất nước hạnh phúc nhất trên thế giới". WorldHappiness.Report. Truy cập 2020-12-03. "It's a Three-Peat, Finland Keeps Top Spot as Happiest Country in the World". worldhappiness.report. Retrieved 2020-12-03.
  29. ^"Nụ cười? Kết quả từ Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2020 là". Thời báo New York. Truy cập 2020-12-03. "Smile? The Results from the 2020 World Happiness Report are in". The New York Times. Retrieved 2020-12-03.
  30. ^"Đây là đất nước hạnh phúc nhất thế giới". Du lịch CNN. 2018-03-14. Truy cập 2018-03-14. "This is the world's happiest country". CNN Travel. 2018-03-14. Retrieved 2018-03-14.
  31. ^"Tại sao hạnh phúc?". Hành động cho hạnh phúc. "Why Happiness?". Action for Happiness.
  32. ^"Khoa Kinh tế - Tiến sĩ Luisa Corrado". Đại học Cambridge. "Faculty of Economics - Dr Luisa Corrado". University of Cambridge.
  33. ^"Đại học Luca Stanca của Milan, Milano · Khoa Kinh tế, Quản lý và Phương pháp định lượng Demm". Cổng nghiên cứu. "Luca Stanca University of Milan, Milano · Department of Economics, Management and Quantitative Methods DEMM". Research Gate.
  34. ^"Luca Crivelli - tiểu sử". Đại học Della Svizzera Italiana. "Luca Crivelli - Biography". Università della Svizzera italiana.
  35. ^"Hạnh phúc & nbsp; "Happiness : towards a holistic approach to development : resolution / adopted by the General Assembly".
  36. ^"Xác định một mô hình kinh tế mới: Báo cáo về cuộc họp cấp cao về phúc lợi và hạnh phúc". "Defining a New Economic Paradigm: The Report of the High-Level Meeting on Wellbeing and Happiness".
  37. ^"2015 Báo cáo khảo sát GNH". Trung tâm nghiên cứu Bhutan. "2015 GNH Survey Report". Center for Bhutan Studies.
  38. ^"Tiến sĩ. Ann Hagell". Quỹ Nuffield. "Dr. Ann Hagell". Nuffield Foundation.
  39. ^"Leonardo Becchetti, Giáo sư ordinario". Đại học Rome "Tor Vergata". "Leonardo Becchetti, Professore Ordinario". University of Rome "Tor Vergata".
  40. ^"Hướng dẫn OECD về đo lường sức khỏe chủ quan". Ngày 20 tháng 3 năm 2013. "OECD Guidelines on Measuring Subjective Well-being". March 20, 2013.
  41. ^"Jon Hall - Trưởng phòng Phát triển Đơn vị Liên Hợp Quốc". "Jon Hall - Head of Unit United Nations Development Programme".
  42. ^"Xác định một mô hình kinh tế mới: Báo cáo về cuộc họp cấp cao về phúc lợi và hạnh phúc". 2012. "Defining a New Economic Paradigm: The Report of the High-Level Meeting on Wellbeing and Happiness". 2012.
  43. ^"Giáo sư Shun Wang -Assistant tại Trường Chính sách và Quản lý Công, Viện Phát triển Hàn Quốc". voxeu.org/. "Shun Wang -Assistant Professor at the School of Public Policy and Management, Korea Development Institute". voxeu.org/.
  44. ^"Chào mừng bạn đến trang web khảo sát giá trị thế giới". "Welcome to the World Values Survey site".
  45. ^"Tiểu sử nhân viên Tiến sĩ Andrew Clark". Trung tâm hiệu quả kinh tế. "Staff Biography Dr. Andrew Clark". Center for Economic Performance.
  46. ^"Claudia Senik". Kinh tế phục vụ xã hội. "Claudia Senik". Economics Serving Society.
  47. ^"Karma ura". Viện Quản trị Hoàng gia và Nghiên cứu Chiến lược. Được lưu trữ từ bản gốc vào năm 2017-01-18. "Karma Ura". Royal Institute for Governance and Strategic Studies. Archived from the original on 2017-01-18.
  48. ^"Sabina Alkire". Sáng kiến ​​phát triển và nghèo đói của Oxford. "Sabina Alkire". Oxford Poverty & Human Development Initiative.
  49. ^"Hạnh phúc". Văn phòng thống kê quốc gia. "Well-being". Office for National Statistics.
  50. ^"Chào mừng bạn đến văn phòng thống kê quốc gia". "Welcome to the Office for National Statistics".
  51. ^Oecd. "Hướng dẫn OECD về đo lường sức khỏe chủ quan". OECD. "OECD Guidelines on Measuring Subjective Well-being".
  52. ^"Câu hỏi thường gặp". WorldHappiness.Report. "FAQ". worldhappiness.report.
  53. ^Helliwell, J .; Layard, r .; Sachs, J. (2017). Báo cáo hạnh phúc thế giới 2017. New York: Mạng lưới giải pháp phát triển bền vững. ISBN & NBSP; 978-0-9968513-5-0. Helliwell, J.; Layard, R.; Sachs, J. (2017). World Happiness Report 2017. New York: Sustainable Development Solutions Network. ISBN 978-0-9968513-5-0.
  54. ^"Bản cập nhật báo cáo hạnh phúc thế giới năm 2016". Mạng lưới giải pháp phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc; Viện Trái đất (Đại học Columbia). Trang & nbsp; 20 trận212222. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 17 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016. "World Happiness Report 2016 Update". UN Sustainable Development Solutions Network; Earth Institute (University of Columbia). pp. 20–21–22. Archived from the original on 17 March 2016. Retrieved 20 Mar 2016.
  55. ^"Chương 2: Phân phối hạnh phúc thế giới", Bản cập nhật báo cáo hạnh phúc thế giới 2016 (PDF), tr. 4, para. 1, lấy ngày 20 tháng 3 năm 2016 "Chapter 2: The Distribution of World Happiness", World Happiness Report 2016 Update (PDF), p. 4, para. 1, retrieved 20 Mar 2016
  56. ^"Cập nhật báo cáo cập nhật tải xuống" (PDF). Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016. "2016 Update Report download" (PDF). Retrieved 20 Mar 2016.
  57. ^2016 Tải xuống bảng (XLS), Hình2.2, Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016 2016 Table download (XLS), Figure2.2, retrieved 20 Mar 2016
  58. ^Dolan, Paul; et & nbsp; al. (20 tháng 8 năm 2016). "Các biện pháp có vấn đề: Một cuộc điều tra về các biện pháp đánh giá và dựa trên kinh nghiệm về dữ liệu sử dụng thời gian". Chỉ số xã hội nghiên cứu. 134 (1): 57 bóng73. doi: 10.1007/s11205-016-1429-8. PMC & NBSP; 5599459. PMID & NBSP; 28983145. Dolan, Paul; et al. (August 20, 2016). "The Measure Matters: An Investigation of Evaluative and Experience-Based Measures of Wellbeing in Time Use Data". Social Indicators Research. 134 (1): 57–73. doi:10.1007/s11205-016-1429-8. PMC 5599459. PMID 28983145.
  59. ^Kushlev, Kostadin; et & nbsp; al. (Ngày 9 tháng 1 năm 2015). "Thu nhập cao hơn có liên quan đến nỗi buồn hàng ngày ít hơn nhưng không nhiều hạnh phúc hàng ngày". Khoa học tâm lý và nhân cách xã hội. 6 (5): 483 bóng489. doi: 10.1177/1948550614568161. S2CID & NBSP; 147042924. Kushlev, Kostadin; et al. (January 9, 2015). "Higher Income Is Associated With Less Daily Sadness but not More Daily Happiness". Social Psychological and Personality Science. 6 (5): 483–489. doi:10.1177/1948550614568161. S2CID 147042924.
  60. ^"Ai là người hạnh phúc nhất thế giới?". www.linkedin.com. "Who Are the Happiest People in the World?". www.linkedin.com.
  61. ^"Khảo sát hạnh phúc thế giới đó hoàn toàn tào lao". 22 tháng 3 năm 2017. "That world happiness survey is complete crap". 22 March 2017.
  62. ^"Có thể hạnh phúc thực sự được đo lường?". www.dailytrust.com.ng. Được lưu trữ từ bản gốc vào năm 2016-04-10. "Can happiness really be measured?". www.dailytrust.com.ng. Archived from the original on 2016-04-10.
  63. ^Helliwell, John F .; Barrington-Leigh, Christopher P. (2010). "Đo lường và hiểu hạnh phúc chủ quan". Helliwell, John F.; Barrington-Leigh, Christopher P. (2010). "Measuring and Understanding Subjective Well-being".
  64. ^ Marquez-Padilla, Fernanda; Alvarez, Jorge (2018). "Phân loại hạnh phúc: Hệ thống chấm điểm nào cho chúng ta biết về các so sánh phúc lợi xuyên quốc gia". Bản tin kinh tế. 38 (2): 1138 Từ1155. Marquez-Padilla, Fernanda; Alvarez, Jorge (2018). "Grading happiness: what grading systems tell us about cross-country wellbeing comparisons". Economics Bulletin. 38 (2): 1138–1155.

Liên kết bên ngoài [Chỉnh sửa][edit]

  • Trang web chính thức
  • Mạng lưới giải pháp phát triển bền vững
  • Người bảo vệ
  • Bản đồ tương tác của các quốc gia bằng điểm hạnh phúc cũng như GDP, tuổi thọ, sự hào phóng, hỗ trợ xã hội, tự do và tham nhũng

Đất nước hạnh phúc nhất thế giới 2022 là gì?

Quốc gia hạnh phúc nhất thế giới là Bắc Âu năm thứ năm liên tiếp, Phần Lan là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới, theo bảng xếp hạng Hạnh phúc thế giới chủ yếu dựa trên các đánh giá cuộc sống từ cuộc thăm dò của Gallup World.Finland is the world's happiest country, according to World Happiness Report rankings based largely on life evaluations from the Gallup World Poll.

3 quốc gia hạnh phúc nhất là gì?

Có lẽ chỉ mơ mộng về việc đến thăm các quốc gia này sẽ giúp bạn tăng cường hạnh phúc ...
Finland..
Đan mạch.....
Nước Iceland.....
Thụy sĩ.....
Nước Hà Lan.....
Luxembourg.....
Thụy Điển.....
Na Uy.....

Đất nước nào là số 1 trong hạnh phúc?

Năm thứ năm liên tiếp, Phần Lan đã được vinh danh là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới, với Đan Mạch đứng thứ hai, tiếp theo là Iceland, Thụy Sĩ và Hà Lan.

Đất nước hạnh phúc thứ 5 trên thế giới là gì?

Các quốc gia hạnh phúc nhất thế giới, phiên bản 2022..
Finland..
Denmark..
Iceland..
Switzerland..
Netherlands..
Luxembourg..
Sweden..
Norway..