Tuyệt khéo nghĩa là gì


Còn có gì tuyệt khéo nữa? Cảnh đánh nhau giữa chị Dậu và tên cai lệ diễn ra dữ dội và hết sức bất ngờ. Người đàn bà con mọn chỉ có hai bàn tay không. Trong lúc đó, tên cai lệ, tên hầu cận lý trưởng nào roi song, nào dây thừng tay thước. Bị bịch vào ngực, bị tát đánh bốp vào mặt, người chồng ốm đau sắp bị trói, chị Dậu đã phản ứng lại dữ dội. Sau cái nghiến hai hàm răng thách thức, chị Dậu đã túm lấy cổ và ấn dúi tên cai lệ, làm cho hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất. Thật hài hước, kẻ hút nhiều xái cũ tuy đã bị đánh ngã nhào, nhưng miệng hắn vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu. Sau đó, chị Dậu còn vật nhau với tên hầu cận lí trưởng. Chị đã túm tóc và lẳng cho một cái, làm cho hắn ngã nhào ra thềm. Người đọc vô cùng hả hê trước sức mạnh phản kháng của chị Dậu. Người đàn bà con mọn đã hạ nhục, đã đánh ngã nhào bọn đầu trâu mặt ngựa, tay chân lũ cường hào gian ác, tanh hôi.

Cảnh tức nước vỡ bờ còn có gì tuyệt khéonữa? Những lời đối thoại thật khéo. Ngòi bút của Ngô Tất Tố tuyệt khéo khi nói về cách đối đáp, ứng xử, tinh thần, thái độ, hành động của chị Dậu. Lúc đầu chị nín nhịn nhẫn nhục van xin: nhà cháu đã túng lại phải Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất; không nạn ! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại! Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!

Sau đó, chị Dậu đã hoàn toàn thay đổi. Chị trở nên táo bạo và quyết liệt. Chồng sắp bị trói, chị bị tên cai lệ chửi và bịch vào ngực mấy cái. Chị cự lại: chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Cai lệ tát đánh bốp vào mặt chị Dậu. Như lửa đổ thêm dầu, chị đã nghiến hai hàm răng thách thức: mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!Và chị đã đã đánh ngã nhào hai tên chó má! Dưới ngòi bút tuyệt khéo của ông Đầu xứ Tố, ta thấy trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa, hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu [Nguyễn Tuân].

Thật vậy, Ngô Tất Tố viết tuyệt khéo. Sự việc ở nông thôn ngày xưa rất thực, rất sống. Trang văn thấm đầy tình nhân đạo. Ông đã chỉ ra cái hiện tượng con giun xéo mãi cũng quằn. Ông đã nêu lên một quy luật hiển nhiên: có áp bức, có đấu tranh. Chị Dậu là một người vợ, người mẹ đảm đang, giàu tình thương và rất cứng cỏi. Cái tuyệt khéo của Ngô Tất Tố là đã dựng nên bức chân dung chị Dậu.

=> Các chữ in đậm là phương tiện chuyển đoạn. Người viết đã chứng minh cái tuyệt khéo trong cảnh tức nước vỡ bờ. Các đoạn văn được nối kết khá chặt chẽ.

6. Đề tập làm văn: Hãy tưởng tượng : em nhập vai chị Dậu kể lại chuyện đánh tên Cai lệ.

Xế trưa hôm ấy, lí trưởng làng Đông Xá bắt tôi giải ra đình. Chúng bắt tôi khai về chuyện chống đối chính quyền, để lập cung giải huyện. Có đủ mặt quan viên. có cả lí cựu nữa. Nhiều người dân kéo đến, đứng lố nhố phía ngoài đình.

- Thị Đào, sao mày dám đánh người nhà của quan! Tội mày to lắm. Tù mọt gông! Mày hãy kể lại việc làm ngỗ ngược của mày, để làng lập cung.

- Lí đương vừa nói vừa đập tay xuống chiếu. Mấy tên tay chân chạy lăng xăng. Tôi chẳng sợ.

- Các ông nên hỏi hai thằng khốn nạn ấy chứ! Nhưng các ông muốn lập cung chứ gì? Ừ thì tôi nói. Chồng tôi bị ông lí đánh trói thập tử nhất sinh. Sợ xảy ra án mạng, ông lí đã sai tay chân gánh chồng tôi về nhà trả cho mẹ con tôi. Mẹ con tôi, bà con hàng xóm chạy chữa mãi, chồng tôi mới hoàn hồn.

- Thị Đào, mày dài dòng lắm! Nói ngay vào sự việc! Lí đương ngắt lời tôi và nạt bằng giọng lè nhè.

- Trời đánh còn tránh miếng ăn, có phải không nào? Chồng tôi vừa kề miệng vào bát cháo thì tên cai lệ xồng xộc kéo tới, hắn thét trói. Chồng tôi chết ngất lăn đùng ra! Tôi van xin. Tôi đâu phải là kẻ quá quắt. Nhưng hắn lá đứa bất nhân đã chửi tôi thậm tệ. Hắn gào lên: Tha này! Tha này!. Hắn bịch vào ngực tôi mấy bịch. Hắn sấn đến trói chồng tôi. Phải cứu chồng tôi chứ. Tôi nghiêm sắc mặt, nói với hắn: chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Sự đời mềm nắn, rắn buông! Ai ngờ, hắn lấn tới áp chế. Hắn tát đánh bốp vào mặt tôi. Hắn như con chó dại lồng lên, hắn nhảy vào trói chồng tôi. Máu trong người tôi sôi lên. Tôi nghiến hai hàm răng. Tôi chỉ tay vào mặt hắn: mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!Tôi còn sợ gì nữa. Cái đồ nghiện oặt ấy, tôi coi như rơm như rác. Tôi túm lấy cổ hắn, tôi ấn dúi hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất. Còn cái thằng hầu cận ông lí, không tự biết thân lại còn giơ gậy đánh tôi. Hắn bị tôi túm tóc, lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm. Hai thằng khốn nạn ấy lồm ngồm bò dậy, chạy thục mạng về đình. Chúng đã bỏ lại ở nhà tôi roi song, tay thước, dây thừng Đáng lẽ tôi phải đánh cho hai tên ấy một trận nhừ tử. Nhưng đánh chó còn ngó đến chúa nhà. Tôi nể ông Lí đấy!..

Xung quanh đình có tiếng cười rúc rích.

Lí Cựu ngồi trên chiếu, xoay mình vuốt râu, tủm tỉm cười.

Lí đương cất tiếng: con thị Đào này ghê gớm lắm! Bướng bỉnh lắm! Phải giải ngay lên quan phủ để trừng trị!..



7.Phân tích đặc điểm nhân vật chị Dậu trong đoạn trích «Tức nước vỡ bờ» của Ngô Tất Tố

I - Mở bài:

- Ngô Tất Tố là nhà văn hiện thực, xuất sắc viết rất thành công và chân thực về hình tượng người nông dân trước CMT8.

- Với một nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo và trái tim yêu thương con người tha thiết, Đoạn trích «tức nước vỡ bờ» đã cho ta thấy thêm một vẻ đẹp bất ngờ trong tính cách của chị Dậu, đó là sự vùng lên chống trả quyết liệt ách áp bức của giai cấp thống trị mà sức mạnh chính là lòng căm hờn, uất hận và tình yêu thương chồng con vô bờ bến

II- Thân bài:

1. Chị Dậu - một người nhẫn nhục, chịu đựng

a. Thái độ của chị Dậu khi bọn tay sai ập vào

- Mọi cố gắng chăm sóc chồng của chị Dậu đều uổng phí [ Anh Dậu vừa kề bát cháo đến miệng, nghe tiếng thét của Cai Lệ thì sợ quá lăn đùng ra phản]

- Thái độ của bọn tay sai: hách dịch, hành động thì hung hãn, lời nói thì thô lỗ

- Trong hoàn cảnh ấy, thái độ của chị Dậu

+ Run run [ chị sợ thì ít mà lo cho chồng thì nhiều]

+ Chị cầu khẩn bằng giọng thiết tha «nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại»

+ Cách xưng hô: gọi «ông» và xưng «cháu»

b. Nhận xét: Cách cư xử của chị thể hiện thái độ nhẫn nhục, chịu đựng của chị. Chị có thái độ như vậy là vì chị biết thân phận bé mọn của mình, biết cái khó khăn ngặt nghèo của gia đình mình. Trong hoàn cảnh này, chị chỉ mong cho chúng tha cho anh Dậu, không đánh trói, hành hạ anh]



2. Chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt.

a. Phân tích lời nói bộc lộ tính cách của nhân vật chị Dậu

- Khi tên Cai Lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu thì:

+ Chị xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống, đỡ lấy tay hắn và tiếp tục van xin: «ông tha cho nhà cháu»

«Xám mặt»-> Tức là chị đã rất tức giận, bất bình trước sự vô lương tâm của lũ tay sai. Thái độ của chị thì bất bình nhưng lời nói của chị vẫn nhũn nhặn => Chứng tỏ sức chịu đựng của chị

- Khi tên Cai Lệ bịch vào ngực chị và đánh trói anh Dậu:

+ Chị cự lại bằng lời nói: «chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ» -> Lời nói đanh thép như một lời cảnh cáo

+ Cách xưng hô: ngang hàng «ông- tôi»=> thể hiện sự uất ức củ chị

+ Thái độ: quyết liệt: một chị Dậu dịu dàng đã trở nên mạnh mẽ, đáo để

- Khi Cai Lệ tát chị Dậu và tiếp tục nhẩy vào cạnh anh Dậu

+ Chị nghiến hai hàm răng=> Thể hiện sự uất ức cao độ không thể kìm nén

+ Ngang nhiên thách thức: «mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!»

+ Túm cổ Cai Lệ, ấn dúi ra cửa

+ Lẳng người nhà Lý trưởng ra thềm

=> Chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong tư thế ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ.



b. Nhận xét, đánh giá, bình luận

* Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh của lòng căm hờn

- Uất hận vì bị dồn nén đến mức không thể chịu nổi nữa

- Là sức mạnh của lòng yêu thương chồng con vô bờ bến

- Hành dộng dã man của tên Cai Lệ là nguyên nhân trực tiếp làm cho sức chịu đựng của chị lên đến quá mức...

* Từ hình ảnh chị Dậu liên tưởng đến người nông dân trước cách mạng

- Tự ti, nhẫn nhục, an phận do bị áp bức lâu đời

- Họ sẽ phản kháng quyết liệt khi bị áp bức bóc lột tàn tệ

- Sự phản kháng của chị Dậu còn tự phát, đơn độc nên chưa có kết quả

* Liên hệ quy luật xã hội

- Ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh

* Thái độ của nhà văn: Những trang viết với sự hả hê, nhà văn đứng về phía những người cùng khổ đồng tình với họ, lên án, tố cáo sự dã man của bọn tay sai, phong kiến.

* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

- Miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế

- Tính cách nhân vật chị Dậu hiện lên thật nhất quán.

III- Kết luận

Tóm lại chưa mấy nhà văn cùng thời như Ngô Tất Tố thấy được sức sống tiềm tàng, tinh thần kiên cường bất khuất của những người nông dân bị chà đạp tưởng đâu chỉ biết an phận, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương. Đoạn trích đã cho thấy sự tìm tòi khám phá và tiến bộ trong ngòi bút của Ngô Tất Tố. Vì thế Ngô Tất Tố đã thành công đặc biệt trong việc thể hiện chân thực vẻ đẹp và sức mạnh tâm hồn của người phụ nữ nông dân. Với hình tượng chị Dậu, lần đầu tiên trong VHVN có một điển hình chân thực, toàn vẹn, đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân lao động.

* Dặn dò:Ôn tập văn bản" Lão Hạc"

* Rút kinh nghiệm:..................................................................................................

Ngày tháng năm

Ngày soạn:22/9

Ngày dạy:

Chuyên đề : Truyện và kí Việt Nam 1930-1945

A. Mục tiêu:

1. Kiến thức:

1.1. Kiến thức trọng tâm

- Khái quát trào lưu văn học hiện thực Việt Nam 1930-1945

- Hiện thực đời sống con người và xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8.

- Những phẩm chất cao đẹp của người nông dân trong xh cũ.

- Trào lưu hiện thực gồm các nhà văn hướng ngòi bút vào việc phơi bày hiện thực bất công, thối nát của xã hội và đi sâu phản ánh thực trạng thống khổ của tầng lớp quần chúng bị áp bức, bóc lột đương thời. Nói chung các sáng tác của trào lưu văn học này mang giá trị hiện thực sau sắc và thấm đượm tinh thần nhân đạo.

- Văn học hiện thực có nhiều thành tựu đặc sắc ở thể loại văn xuôi với các tên tuổi lớn như: Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Nam Cao

- Liên hệ mở rộng một số tác giả có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện thực như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng

1.2. Kiến thức mở rộng, nâng cao.

- Giá trị hiện thực và nhân đạo trong các tác phẩm truyện kí VN 1930-1945.



2. Kỹ năng

- Biết trình bày suy nghĩ về nhân vật, về giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.

-Rèn kĩ năng viết đoạn văn trình bày suy nghĩ, đánh giá của mình về nội dung, ý nghĩa của văn bản.

- Rèn kĩ năng tổng hợp, khái quát vấn để văn học.

-Rèn luyện các kĩ năng xác định đề, xây dựng dàn ý, dựng đoạn, hành văn, khái quát, liên hệ, nâng cao

- Rèn kĩ năng luyện đề tổng hợp.



3. Các dạng bài

- Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về một nét tính cách của nhân vật.

- Chứng minh làm sáng tỏ một nhận xét, đánh giá về nhân vật hoặc một lớp nhân vậtcó nét chung.

- Làm sáng tỏ giá trị hiện thực và nhân đạo của các văn bản.

- Nhân xét, đánh giá những đặc sắc nghệ thuật của các truyện kí.

4. Các văn bản:

- Tôi đi học: Thanh Tinh

- Trong lòng mẹ: Nguyên Hồng

- Tức nước vỡ bờ: Ngô Tất Tố

- Lão Hạc: Nam Cao

5. Thời lượng: 5 buổi
B. Chuẩn bị

Giáo viên: soạn giáo án

Học sinh: ôn tập, đọc tài liệu

C. Tiến trình

VĂN BẢN: LÃO HẠC

Nam Cao
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao

I. Cuộc đời


II. Sự nghiệp văn học
Mười năm cầm bút, Nam Cao để lại cho đời một khối lượng sáng tác khá đồ sộ - Toàn tập Nam Cao gồm 1400 trang được hoàn thiện năm 1999.
1. Quan điểm nghệ thuật
Sinh thời, Nam Cao thường suy nghĩ về vấn đề sống và viết. Sự nghiệp của ông bắt đầu bằng các trang văn lãng mạn. Lúc này, quan điểm sáng tác lãng mạn ảnh hưởng đến Nam Cao khá rõ. Nhưng rồi, tác giả nhận ra: văn chương lãng mạn có phần xa lạ với đời sống lầm than, nhà văn lãng mạn thoát li không ưa sự thật; âm điệu ảo não, thất tình tràn đầy các trang sách của họ.
Sau bao trăn trở, khi nhận ra: nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, Nam Cao khước từ chủ nghĩa lãng mạn để coi trọng nghệ thuật hiện thực vị nhân sinh. Trong thời kì này, Trăng sáng [1943] được xem là một tuyên ngôn nghệ thuật. Truyện ngắn trên đánh dấu bước trưởng thành của Nam Cao về quan điểm sáng tác. Nó thể hiện cuộc đấu tranh day dứt của nhà văn Điền trước hai lối viết, hai cách sống [mơ mộng hay thực tế; lãng mạn hay hiện thực ...]. Qua Điền, Nam Cao thiết tha khẳng đinh: nghệ thuật có thể chỉ là tiếng kêu đau khổ kia toát ra từ những kiếp lầm than. Vì thế, văn nhân không được trốn tránh sự thật, mà cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời. Sau Trăng sáng, Nam Cao là nhà văn hiện thực người thư kí trung thành của thời đại. Với quan niệm chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, văn chương sẽ không có giá trị, ông nghĩ: viết thì rất cần sự thực. Từ những việc nhỏ nhoi, xoàng xĩnh, người sáng tác phải nêu được những vấn đề có ý nghĩa xã hội.
Tác phẩm văn học có giá trị phải thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc, chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng Nó làm cho người gần người hơn [Đời thừa]. Trước Cách mạng, Nam Cao đã coi trọng đôi mắt tình thương và khẳng định: nhà văn phải là nhà nhân đạo. Qua Trăng sáng, Đời thừa,... ông muốn văn học phản ánh cuộc đời của tầng lớp sống dưới đáy xã hội. Từ bi kịch của Hộ, Nam Cao khuyên nhà văn tạm thời hi sinh nghệ thuật đề giữ lối sống nhân đạo.
Hơn ai hết, Nam Cao coi nghề văn là nghề sáng tạo, nhà văn là nhà sáng tạo. Đành rằng, làm nghề gì cũng phải sáng tạo, nhưng yêu cầu này đối với các tác gia nghệ thuật khắt khe hơn nhiều. Trong cuộc sống, sáng tạo là làm ra những sản phẩm tinh thần, vật chất chưa từng có; nhà văn phải biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có... Đối lập với sáng tạo là sự cẩu thả -cẩu thả trong nghề văn chẳng những bất lương mà còn đê tiện.
Nam Cao đã thực hiện ba quan điểm trên trong từng trang sách. Ông không chỉ xây dựng được những tính cách điển hình vô tiền khoáng hậu [trước chưa có, sau chưa thấy] mà còn là người đầu tiên phản ánh sâu sắc hiện tượng nông dân lương thiện tha hóa thành quỷ giữ, trí thức tài năng vật lộn với bi kịch tinh thần nhằm bảo vệ nhân cách.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sáng tác theo quan điểm hiện thực phê phán. Tuy vậy, nhiều trang viết của ông đã hé lộ nhân tố mới [Chí Phèo thức tỉnh, giết bá Kiến]. Sau 1945, đặc biệt là từ kháng chiến chông Pháp, ông nêu quyết tâm: sống đã rồi hãy viết. Sống là cầm súng chiến đấu giải phóng dân tộc, sẵn sàng làm anh tuyên truyền viên nhãi nhép đem ngòi bút phục vụ công nông binh [Đôi mắt; Ở rừng]. Ông vui vẻ nhận ra góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn. Quan điểm tiến bộ trên đây giúp Nam Cao thành nhà văn cách mạng, nghệ sĩ chân chính của thời đại.
2. Các đề tài chính trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng
Trước 1945, tài năng Nam Cao kết tinh trong gần 60 truyện ngắn, một truyện vừa [Chuyện người hàng xóm], và tiểu thuyết Sống mòn. Tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh hai đề tài: người tri thức nghèo và nông dân bần cùng.
Ở đề tài thứ nhất, ấn tượng hơn cả là:
- Những truyện không muốn viết [1942]
- Trăng sáng [1943]
- Đời thừa [1943]
- Quên điều độ [1943]
-Sống mòn [tiểu thuyết - 1944].
Qua các trang viết trên, Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người tri thức nghèo trong xã hội cũ. Đó là những giáo khổ trường tư, nhà văn túng quẫn, viên chức nhỏ - nghèo... Qua họ, ông nêu lên nhiều triết lí sâu sắc, có ý nghĩa xã hội to lớn. Trí thức trong sáng tác của Nam là những người có tài năng, tâm huyết, biết tự trọng và ôm ấp hoài bão lơn lao [xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý] nhưng không thực hiện được vì nạn áo cơm ghì sát đất. Hộ thiết tha viết tác phẩm ăn giải Nô-ben; Thứ mong muốn được đóng góp công sức làm đổi thay nền giáo dục để xã hội công bằng. Vậy mà cả hai đều bị dồn vào tình trạng chết mòn, phải sống như một kẻ vô ích, một người thừa. Qua đề tài này, Nam Cao phê phán xã hội cũ giết chết tài năng, tàn phá tâm hồn nghệ sĩ. Ông cũng thể hiện thành công quá trình người trí thức tự đấu tranh, khắc phục mặt hạn chế, vươn lên giữ lối sống đẹp.
Ở đề tài thứ hai, Nam Cao viết chừng hai mươi truyện ngắn phản ánh cuộc đời tăm tối, số phận bi thảm của người nông dân; tiêu biểu là:
- Chí Phèo [1941]
- Trẻ con không được ăn thịt chó [1942].
- Lão Hạc [1943]
- Một bữa no [1943]
- Một đám cưới [1944]
Trong đó,Chí Phèo xứng đáng là kiệt tác. Viết về đề tài này, Nam Cao khắc họa bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam xơ xác , bần cùng trong khoảng thời gian 1940 -1945. Ông đặc biệt quan tâm tới tình trạng nghèo đói và quá trình một bộ phận thấp cổ bé họng bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Càng hiền lành họ càng bị chà đạp phũ phàng. Viết về nông dân, Nam Cao kết án đanh thép xã hội thực dân phong kiến đã huỷ hoại nhân hình, sói mòn nhân tính của những con người lương thiện. Không bôi nhọ nông dân, ông đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện, khẳng định nhiều phẩm chất cao cả của những người bị xã hội dập vùi.
Đó là hai đề tài quen thuộc, nhưng vì biết khơi những nguồn chưa ai khơi, Nam Cao vẫn tạo được sự hấp dẫn. Viết về nông dân hay trí thức, sáng tác của Nam Cao luôn luôn thể hiện nỗi băn khoăn day dứt trước số phận con người và thường lấy nguyên mẫu từ quê hương, bản thân. Sáng tác của ông chứa đựng nội dung triết học sâu sắc.
Sau Cách mạng, Nam Cao vẫn tiếp tục viết về nông dân, trí thức với đôi mắt mới.
3. Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao
Nam Cao có biệt tài phân tích và diễn tả những quá trình tâm lý phức tạp, những ngõ ngách sâu kín nhất trong tâm hồn con người. Nhờ vậy, ông khắc họa được những điển hình độc đáo. Am hiểu nhân vật, Nam Cao tạo nên nhiều đoạn đối thoại và độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.
Truyện ngắn Nam Cao mang tính triết lý sâu sắc mà không khô khan. Tinh lọc qua trái tim chất chứa đau đớn, dằn vặt, ... câu chữ của Nam Cao kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình.
Nam Cao biết linh hoạt thay đổi giọng điệu. Ông có ý thức sử dụng hai giọng chủ yếu:
- Giọng tự sự lạnh lùng, mỉa mai. Ở đây, tác giả thường dùng đại từ có sắc thái dửng dưng, khinh bạc [hắn, y, thị ... ]
- Giọng trữ tình tha thiết với những thán từ: Chao ôi ! Hỡi ôi ! Ơi !
Hai giọng điệu đối lập ấy đan xen hòa hợp tạo nên phong vị riêng cho các trang viết Nam Cao.
Nói về truyện ngắn, phải khẳng định: Nam Cao có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ văn xuôi. Đến Nam Cao, truyện ngắn nước nhà mới thực sự hoàn thiện một quá trình hiện đại.
Nam Cao xứng đáng là tác gia lớn; ông đã để lại nhiều kiệt tác. Cuộc đời, trang viết Nam Cao là một tấm gương sáng về nhiều mặt cho văn nghệ sĩ muôn đời.
4. Phong cách nghệ thuật
Phong cách nghệ thuật của nhà văn là những đặc điểm nội dung, hình thức riêng bào trùm toàn bộ sáng tác của họ. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là cây bút có phong cách độc đáo.
Viết về nông dân hay trí thức, Nam Cao quan tâm tới đời sống tinh thần của họ và đặc biệt hứng thú với việc khám phá con người trong con người [sau vẻ bề ngoài của Chí Phèo, thị Nở, lang Rận... còn có một con người khác mà chỉ những ai cố công tìm hiểu mới phát hiện được] Ông quan niệm bản tính cốt yếu của sự sống là cảm giác và tư tưởng [Sống mòn]. Cảm giác, tư tưởng càng sâu sắc, linh diệu thì sự sống càng cao. Vì thế, Nam Cao đặc biệt chú ý tới chiều sâu bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của hành động.
Với quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm. Ông có sở trường và biệt tài diễn tả, phân tích tâm lý. Nội tâm nhân vật thành trung tâm chú ý, đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông đặc biệt sắc sảo khi thể hiện những quá trình tâm lý phức tạp [quỷ dữ thức tỉnh; hiện tượng dở say dở tỉnh; cá tính chấp chới giữa thiện - ác, hiền - dữ, người - vật Để đi vào chiều sâu không cùng của nội tâm, Nam Cao thường sử dụng những đoạn độc thoại nội tâm chân thật, sinh động.
Mặt khác, trong kết cấu - ông thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lý phóng khoáng, linh hoạt mà vẫn nhất quán, chặt chẽ. Về đề tài, ngòi bút Nam Cao cũng quan tâm đến Những chuyện không muốn viết - chuyện nhỏ nhặt, thường ngày. Từ đó, ông đặt ra những vấn đề xã hội, con người, cuộc sống và nghệ thuật chân chính.
Kể chuyện bằng ngôi thứ nhất hay thứ ba, Nam Cao vẫn là nhà văn có giọng điệu riêng:
- Triết lí, mỉa mai, chua chát;
- Dửng dưng, lạnh lùng mà tràn đầy thương cảm, đằm thắm, thiết tha

*.Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp Nam Cao

- Nam Cao là bút danh của Trần Hữu Trí. Ông sinh năm 1915 tại làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

- Trước năm 1945, ông dạy học tư và viết văn. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.

- Sau cách mạng tháng Tám, ông chân thành, tận tuỵ sáng tác phục vụ kháng chiến: làm phóng viên mặt trận, rồi làm công tác văn nghệ tại chiến khu Việt Bắc. Cuối năm 1951, ông đi công tác vào vùng sau lưng địch, hi sinh trong tư thế một nhà văn- chiến sĩ.

- Nam Cao được nhà nước truy tặng «Giải thưởng Hồ Chí Minh» về văn học nghệ thuật [năm 1996].

- Nam Cao là tác giả của cuốn tiểu thuyết «Sống mòn» và khoảng 60 truyện ngắn tiêu biểu nhất là các truyện «Chí Phèo», «Lão Hạc», «Mua nhà», «Đời thừa», «Đôi mắt»....

- Nam Cao có tài kể chuyện, khắc họa nhân vật bằng độc thoại với bao trang đời éo le, đầy bi kịch. Người nông dân nghèo, người trí thức nghèo là hai đề tài in đậm trong truyện của Nam Cao. Tác phẩm của Nam Cao biểu hiện «một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết» [Nguyễn Đăng Mạnh].

*.Giới thiệu vắn tắt giá trị của truyện ngắn «Lão Hạc»

Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng, «Lão Hạc» là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý, tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân và tài năng nghệ thuật xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đặc biệt trong việc miêu tả tâm lý nhân vật và cách kể truyện.



A. Giá trị nội dung

1 Tình cảnh cùng khổ và số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

a.Cũng như bao người nông dân khác, cuộc đời lão Hạc bị vây bủa trong sự nghèo đói. Đã nghèo, lại góa vợ, lão Hạc lầm vào cảnh một thân gà trống nuôi con.

- Không có ruộng cầy, toàn bộ gia tài của lão chỉ là một con chó và một mảnh vườn. Mảnh vườn ấy có được là do vợ lão cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu». Đó là mảnh vườn còm cõi, hoa màu của nó cũng chỉ đủ để lão «bòn mót». Cho nên lão phải làm thuê làm mướn, đem sức mình đổi lấy miếng ăn.

=> Đó là tất cả cuộc đời lão đã khiến lão thấm thía cái kiếp nghèo tủi nhục của mình, mà có lần lão đã chua xót thốt lên rằng: «nó chỉ nhỉnh hơn cái kiếp của một con chó»



b. Mất con

- Chính cái nghèo đã kiến cho lão Hạc trở thành người cha phải bó tay trước hạnh phúc không thành của người con trai độc nhất. Cái nghèo không cho lão dựng vợ cho con để trọn cái đạo làm cha. Anh con trai vì không đủ tiền cưới vợ đã phẫn chỉ bỏ đi đồn điền cao su tận Nam Kì biền biệt 5,6 năm chưa về. Thế là cái nghèo lại cướp nốt đứa con trai của lão. Lão vô cùng đau xót về điều này, kể lại chuyện với ông giáo mà nước mắt rân rấn: «Thẻ của nó người ta giữ. Hình của nó người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi». Câu nói của lão nhói lên một nỗi đau, bởi nó đã khái quát cả một cảnh đời cùng khổ một số phận thảm thương của người nông dân trong chế độ cũ.



c.Bán chó:

- Anh con trai đi biền biệt, lão sống thui thủi, trơ trợ một mình trong nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Chỉ có con chó là bầu bạn sớm tối, con chó thành «cậu Vàng», thành một người trong nhà lão. «Con chó là của cháu nó mua đấy chứ». Lão vẫn không quên con chó là kỉ vật thiêng liêng, là tài sản của đứa con trai. Có một mối dây liên lạc rất lạ lùng giữa lão Hạc, con chó và đứa con trai vắng mặt. Cho nên, có bao nhiêu niềm thương, nỗi nhớ chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão yêu quý «cậu vàng» như con, như cháu tưởng như không thể nào có thể rời xa nó, tưởng như cuộc đời lão không thể thiếu nó.

-Vậy mà, tình cảnh đói nghèo khốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày, không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, hay một chén thuốc! Tình cảnh ấy thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây cối, hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà congái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Lão Hạc thành ra thất nghiêp.Thóc cao, gạo kém, sức cùng, lực kiệt, lão Hạc đành phải bán con chó mà lão rất yêu quý. Bán con chó là bán đi niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của lão. Lão đã đắn đo, do dự mãi khi quyết định bán con chó.

- Và khi buộc lòng phải bán nó lão vô cùng đau đớn. Bán nó xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ «tệ lắm», đã già mà còn đánh lừa một con chó». Kể lại chuyện bán chó với ông giáo mà «Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước». Lão tự nhận là một kẻ bất nhân, là tên lừa đảo đối với một con chó vốn tin yêu mình. Có lẽ đây là giây phút đau đớn nhất trong cuộc đời lão, khiến cho «mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoeo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc..»

=> Cuộc đời lão Hạc là một dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau bất lực. Nước mắt lão khi thì «rân rấn», lúc «ầng ậng», cả khi «cười cũng như mếu». Nước mắt ấy dường như đã cạn kiệt trong cuộc đời khổ đau, tủi cực của lão. Cho nên khi khóc, «mặt lão đột nhiên co rúm lại». Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra». Nhiều người cho rằng đây là cái tài miêu tả cuả Nam Cao, nhưng trước hết đó là cái tình của nhà văn đối với kiếp người tủi cực trong chế độ cũ. Không có một sự cảm thông sâu sắc, không có một tình xót thương chân thành, không thể vẽ lên một nỗi đau hằn sâu trên khuôn mặt lão Hạc như vậy. Một nét vẽ mà như cô đúc cả một cảnh đời, một kiếp người trong xã hội cũ.

d.Cái chết

- Nhưng thê thảm nhất vẫn là cái chết của lão Hạc sau những ngày ăn khoai, ăn củ chuối, sung luộc, rau má, củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc... để rồi cuối cùng lão đã ăn bả chó mà chết. Dĩ nhiên, lão lựa chọn cái chết ấy là vì đứa con trai nhưng suy cho cùng thì chính tình cảnh khốn quẫn, sự đói khổ đã đẩy lão đến bước đường cùng phải chết.

- Đó là một cái chết thật là dữ dội và cũng vô cùng bi thảm: «Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên... Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết.

=> Như vậy, nghèo khổ đã đẻ nặng lên cuộc đời làm thuê làm mướn khiến cho lão sức cùng lực kiệt; nghèo khổ lại cướp nốt đứa con trai của lão; cướp nốt cả «cậu vàng» thân yêu, niềm an ủi cuối cùng của lão; và nghèo khổ lại đẩy lão đến cái chết đau đớn và thảm khốc như chưa từng thấy. Cái chết ấy đã kết thúc một cảnh đời tủi cực và một số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Cuộc sống cùng khốn và cái chết bi thương của lão Hạc đã nói lên thấm thía số phận thê thảm của người nông dân lao động trong xã hội tăm tối đương thời. Không chỉ là nỗi đau, cái chết ấy còn là một lời tố cáo sâu sắc và mạnh mẽ cái chế độ tàn ác, bất nhân đã gây nên những cảnh đời thê thảm như lão Hạc. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng một mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết.... và lão Hạc đã quyên sinh bằng bả chó. Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo: «Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng? Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người.

* Số phận anh con trai lão- nhân vật không xuất hiện, chỉ hiện ra trong nỗi nhớ của lão Hạc- cũng thật đáng thương: chỉ vì quá nghèo mà cô gái anh yêu thương trở thành vợ kẻ khác; anh phẫn chí ra đi nuôi mộng «cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm mới về», không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này nhục lắm». Nhưng, thật tội nghiệp, cái nơi mà anh ta tìm đến với hi vọng làm giầu lại là đồn điền cao su Nam Kì, một địa ngục trần gian, thân phận phu cao su chỉ là thân phận nô lệ. Còn lão Hạc thì cứ mong con mỏi mắt suốt tận ngày cuối đời...


Каталог: data -> 13602634129442718177 -> thu vien sach
thu vien sach -> ĐỀ kiểm tra cuối năm môn: Khoa học tự nhiên Phân môn sinh học
thu vien sach -> Rút gọn câu A. Mục tiêu
thu vien sach -> ĐỀ kiểm tra cuối học kì II
thu vien sach -> ĐỀ kiểm tra môn toán lớP 6 Thời gian làm bài: 90 phút Họ và tên: Lớp: I/ Trắc nghiệm
thu vien sach -> ChuyêN ĐỀ II: nhiễm sắc thể

tải về 1.23 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:

Video liên quan

Chủ Đề