Vấn đề chủ quyền biển đảo thời nhà Nguyễn

Trong 13 vị vua triều Nguyễn nối tiếp nhau từ năm 1802 đến 1945, Minh Mạng là vị vua thứ hai, trị vì từ năm 1820 đến 1841. Là một nhà cải cách hành chính nổi tiếng, người có công lớn trong việc thống nhất đất nước, phân định ranh giới hành chính các địa phương một cách khoa học, hợp lý ổn định gần như từ đó đến nay.

Đặc biệt, trên lĩnh vực kế thừa giữ gìn và phát huy chủ quyền biển đảo của đất nước, vua Minh Mạng đã chủ trương thực hiện nhiều chính sách cụ thể nhằm khẳng định chủ quyền cương hải của Tổ quốc hết sức bài bản và quyết liệt.

Minh chứng cụ thể nhất mà du khách thập phương ai cũng nhìn thấy mỗi khi đến tham quan quần thể di tích cố đô Huế, đó là biển đảo Việt Nam đã được khẳng định chủ quyền bằng hình ảnh sinh động trên Cửu đỉnh đặt trước Thế Miếu. Cửu đỉnh là 9 đỉnh đồng lớn được vua Minh Mạng cho đúc vào tháng 12-1835 và hoàn thành tháng 6-1837, là văn bản chủ quyền bằng hình ảnh sống động nhất của vua Minh Mạng gửi các thế hệ mai sau như là lời khẳng định sự trường tồn của đất nước.

Vua Minh Mạng trị vì đất nước từ năm 1820 đến 1841. Ảnh tư liệu

Ba vùng biển Việt Nam được khắc trên Cửu đỉnh với hình ảnh sông nước nhấp nhô, ẩn hiện rất nhiều đảo lớn nhỏ, chính giữa hình ảnh là đại tự khắc nổi ghi tên mỗi vùng biển Đông Hải, Nam Hải, Tây Hải. Đây là thông điệp khẳng định chủ quyền biển đảo của đất nước độc đáo, ấn tượng nhất mà vua Minh Mạng để lại trong tiến trình lịch sử bảo vệ và giữ gìn biển đảo của Tổ quốc.

Còn trên văn khố, châu bản triều Nguyễn còn lưu giữ đến ngày nay, thì vua Minh Mạng không chỉ là người đưa ra chủ trương vươn ra biển đảo, mà còn là người trực tiếp kiểm tra giám sát việc thực hiện hết sức cụ thể, với hàng trăm bản châu phê chỉ đạo việc đo vẽ bản đồ, cắm mốc hải giới, trồng cây, xây miếu thờ trên Hoàng Sa nhằm khẳng định chủ quyền lãnh hải thiêng liêng của đất nước. Như Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 [1833] ghi: Vua chỉ dụ Bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời".

Hay như việc cắm mốc chủ quyền cũng được vua Minh Mạng chỉ đạo rất sát sao: Hằng năm cử người ra Hoàng Sa, Trường Sa ngoài việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ [cột mốc] dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc. Thuyền đi đến đâu cắm mốc đến đó…".

Nếu làm phép tính đơn giản, trong 20 năm trị vì đất nước, năm nào cũng có một đội dân binh Hoàng Sa theo lệnh nhà vua ra cắm 10 mốc chủ quyền trên các đảo của Hoàng Sa và Trường Sa, thì đã có hàng trăm đảo lớn nhỏ trên "Dải cát vàng" đã được xác định chủ quyền của Việt Nam từ hơn 200 năm trước.

Trong 153 hình ảnh đặc trưng của đất nước được chọn để khắc vào Cửu đỉnh, có Biển Đông [Đông Hải] được chạm khắc vào Cao đỉnh là đỉnh lớn nhất trong Cửu đỉnh, Biển Nam [Nam Hải] được khắc vào Nhân đỉnh và Biển Tây [Tây Hải] được khắc vào Chương đỉnh, đây cũng là ba đỉnh lớn nhất tượng trưng cho ba vị vua đầu tiên của triều Nguyễn. Theo các nhà nghiên cứu Huế, thời vua Minh Mạng ranh giới hành chính các địa phương và các vùng biển được phân chia rất rõ ràng trong phân cấp quản lý Nhà nước. Biển Đông kéo dài từ phía bắc cho đến Bình Thuận, bao gồm cả dải cát vàng Hoàng Sa, Trường Sa hay còn gọi là Vạn lý Ba Bình. Biển Nam bao gồm từ Bình Thuận đến Hà Tiên có nhiều hòn đảo như Đại Kim, Mảnh Hảo, Nội Trức, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Châu... tiếp giáp với hải phận của các nước Malaysia, Indonesia… Biển Tây là vùng biển giáp với vịnh Thái Lan.

Loại thuyền đi biển quan trọng nhất của nhà Nguyễn trong thế kỷ XIX, Biển Đông [Đông Hải] và cửa biển Đà Nẵng được khắc trên Cửu đỉnh - Huế. Ảnh tư liệu

Không chỉ khuyến khích dân binh ra với vạn lý Hoàng Sa, mà vua Minh Mạng còn đưa ra chính sách thưởng phạt rất nghiêm khắc đối với những ai không hoàn thành nhiệm vụ ở Trường Sa. Tờ Châu bản số 092, Stt 070, quyển 054 năm Minh Mạng 16 [1835] ghi: Việc sai phái quân đội ra Hoàng Sa đo đạc và vẽ bản đồ nhưng vẽ chưa được rõ ràng là các Giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện và Nguyễn Văn Hoằng đều đánh 80 gậy chuẩn cho thả tất cả. 2 tên hướng dẫn là Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sinh đều thưởng cho 3 mai tiền bằng bạc hạng nhỏ. Các binh thợ tham gia đều thưởng cho mỗi người 1 quan tiền.

Theo các nhà nghiên cứu Huế, trong 13 triều vua Nguyễn, vua Minh Mạng là người để lại số lượng văn bản ghi chép, châu phê, châu điểm về vấn đề khai thác, bảo vệ Hoàng Sa nhiều nhất. Chính vì sự quan tâm đặc biệt của nhà vua về chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa, nên dưới thời vua Minh Mạng cũng đã đào tạo, tôi luyện nên nhiều chỉ huy đội hùng binh Hoàng Sa nổi tiếng để lại dấu ấn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của triều Nguyễn, như Cai đội thuyền Phạm Văn Nguyên năm Minh Mạng thứ 16 [1835], Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật năm Minh Mạng thứ 17 [1836], Thủy sư suất đội Phạm Văn Biện năm Minh Mạng thứ 18 [1837]…

Có thể nói, dưới thời vua Minh Mạng, việc mở mang lãnh hải xác định chủ quyền biển đảo đất nước đã được kế thừa và phát huy hết sức hiệu quả mà không phải vị vua triều Nguyễn nào cũng làm được. Nhờ những công lao to lớn ấy của vua Minh Mạng mà hiện nay chúng ta có thêm nhiều bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền thiêng liêng của đất nước trong vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa và là bài học quý báu cho chúng ta và các thế hệ mai sau trong việc bảo vệ và giữ gìn biên cương lãnh hải của Tổ quốc./.

Nguồn: vietnam.vn

Tấm bản đồ cổ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" khẳng định chủ quyền biển đảo của VIệt Nam. Ảnh: Zing.vn
Tại hội thảo "Chủ quyền biển đảo Việt Nam trong lịch sử" vừa diễn ra tại Huế, GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc phân tích trong lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, năm 1816 có ý nghĩa hết sức đặc biệt. Đây là thời điểm nhà Nguyễn đưa thủy quân chính quy trực tiếp quản lý và bảo vệ chủ quyền các quần đảo ở Biển Đông.  

Đến giai đoạn này, chức năng bảo vệ biển đảo bắt đầu được chuyển dần từ các đội Hoàng Sa, Bắc Hải sang đội thủy quân. Tuy nhiên, đội thủy quân vẫn triệt để khai thác nhân lực, điều kiện và phương tiện hoạt động linh hoạt của đội Hoàng Sa, Bắc Hải trên vùng biển, chủ yếu gồm các đảo đá, bãi cạn.

Việc thực thi chủ quyền quốc gia đối với các hải đảo là hoạt động được triều Nguyễn tiến hành thường xuyên và liên tục, là kế tục sự nghiệp của các triều đại trước. Triều Nguyễn là triều đại đã vẽ nên một hình thể lãnh thổ đất nước thống nhất từ đất liền đến biển, đảo để có một nước Việt Nam hoàn chỉnh hiện nay.

Một bằng chứng mới được phát hiện ở đình làng Mỹ Lợi [xã Vinh Mỹ, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế] là văn bản có nội dung xử lý việc kiện tụng của phường An Bằng và làng Mỹ Lợi, lập ngày 19/9 năm Cảnh Hưng thứ 20 [6/11/1759] về việc tranh chấp giữa hai làng liên quan đến một con thuyền và tiền trợ cấp cho đội thuyền phục vụ Hoàng Sa. Nội dung văn bản này cho thấy cách đây 250 năm, nhà Nguyễn đã có quân trấn giữ quần đảo Hoàng Sa.

PGS.TS. Đỗ Bang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên-Huế cho biết, ngôi đền có tên “Hoàng Sa tự” trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa là do cai đội Phạm Văn Nguyên cùng lính và phu dân hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi chuyên chở vật liệu từ đất liền ra xây dựng. Việc xây dựng ngôi đền này có ghi trong sách “Đại Nam thực lục” [tháng 6 năm Ất Mùi, niên hiệu Minh Mạng 16 - năm 1835].

Còn theo TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, trong một nghiên cứu mới nhất về chủ quyền biển đảo qua các tư liệu xác thực dưới triều Nguyễn như châu bản và các bộ chính sử như “Đại Nam thực lục”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”, “Đại Nam nhất thống chí”… chứng minh cho việc xác lập và thực thi chủ quyền của triều Nguyễn đối với biển, đảo giai đoạn 1802-1945.

Đáng chú ý, triều Nguyễn được thành lập năm 1802, nhưng trước đó hơn 200 năm, kể từ năm 1558, các đời chúa Nguyễn đã có công lao to lớn trong việc mở mang bờ cõi, bao gồm toàn bộ đất miền Nam và vùng biển đảo phía nam và tây nam của Tổ quốc.

Dưới thời Nguyễn, khu vực biển đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập từ Bắc chí Nam, tương đương với khu vực biển đảo của chúng ta hiện nay, đó là vùng biển từ Quảng Yên [Quảng Ninh] đến Hà Tiên [Kiên Giang] với các đảo ven bờ và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa, Trường Sa.

Các vua triều Nguyễn bấy giờ đã xác lập và khẳng định chủ quyền của nước ta đối với biển đảo Tổ quốc bằng việc huy động một lực lượng lớn bao gồm quan chức của các cơ quan Trung ương Nội các, Bộ Công, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Hình, Giám thành Khâm thiên giám, thuỷ sư... phối hợp với quan chức địa phương và ngư dân các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định hằng năm thực thi công vụ Hoàng Sa, như vẽ bản đồ, kiểm kê tài nguyên trên đảo, đo đạc hải trình, cắm cọc tiêu, trồng cây, dựng miếu, cắm bia chủ quyền, xây dựng hệ thống kho tàng, đồn lũy, đặt trạm thu thuế, quan trắc thiên văn và dự báo thời tiết.

Riêng đảo Hoàng Sa có trạm khí tượng của Việt Nam hoạt động từ năm 1938-1947, được Tổ chức Khí tượng quốc tế đặt số hiệu 48-860 [số 48 chỉ khu vực Việt Nam].

Như vậy, việc sử dụng, khai thác biển ở quần đảo Hoàng Sa là truyền thống lâu đời của nhân dân Việt Nam. Đến thời Nguyễn, chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa càng được thiết lập và thực thi đầy đủ và toàn vẹn, không có sự tranh chấp nào. Người Pháp cũng đã cho xây dựng các đài khí tượng, trạm quan trắc và cắt đặt lính đồn trú trên các đảo.

Hội thảo "Chủ quyền biển đảo Việt Nam trong lịch sử" lần đầu tiên được tổ chức tại Huế, thu hút 27 tham luận của các nhà nghiên cứu lịch sử, tập trung nghiên cứu nhiều nội dung phong phú, cung cấp những thông tin có giá trị về lịch sử, khẳng định vai trò, trách nhiệm của chính quyền Việt Nam qua các thời kỳ đối với chủ quyền biển đảo.

Các tham luận tại hội thảo tập trung vào các chủ đề: Vấn đề chủ quyền lịch sử; về sự hiện diện các thế lực nước ngoài, phản bác luận điểm xuyên tạc và sai trái lịch sử về chủ quyền biển đảo Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa; về chủ quyền biển đảo đối với nhân dân các tỉnh miền Trung.

Các tác giả đã sưu tầm các nguồn tư liệu lưu trữ thời thuộc địa, thời Việt Nam Cộng hòa; tài liệu lưu trữ nước ngoài của Nhật Bản; hệ thống bản đồ cổ của Trung Quốc và phương Tây… để chứng minh về chủ quyền biển đảo, góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn về lịch sử chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Video liên quan

Chủ Đề