Xác định phong cách ngôn ngữ của bài thơ Chiều tối
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này. VĂN HOÁ NGÔN TỪ, PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HỒ CHÍ MINH 1. Trong nửa thế kỷ qua, ở Việt Nam và ở nước ngoài đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tập thơ "Nhật ký trong tù" của Chủ tịch Hồ Chí Minh ( Xem thêm [5], [7], [8], [9], [10], [14]... . Có thể nói, những kết quả nghiên cứu của nhiều học giả trong nước và nước ngoài đã cho thấy, "Nhật ký trong tù" là một tập thơ có giá trị cao cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật. Trong đó, nổi bật lên là phong cách của một nhà thơ phương Đông giàu tâm hồn yêu nước, yêu quê hương, thiết tha với lý tưởng cách mạng. Nền tảng chính làm nên phong cách ngôn ngữ của Hồ Chí Minh trong tập thơ này chính là tính uyên thâm, bác học của thể thơ Đường luật kết hợp với cách sử dụng những chất liệu của đời sống thường nhật để đưa vào thơ ca nhằm phản ánh những hiện tượng điển hình trong lao tù Tưởng Giới Thạch. Qua đó, tác giả đã miêu tả một cách sâu sắc bản chất thối nát của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ và nỗi cực khổ của những chiến sĩ cách mạng bị giam cầm trong chốn nhà lao.
Qua quan sát trên bảng có thể thấy, "thiếu nữ' là một từ Hán-Việt có sắc thái trang trọng rất phù hợp với phong cách thơ Đường. Nó được nhà thơ Hồ Chí Minh chọn làm đối tượng miêu tả cho câu thứ ba chứ không phải với tư cách là một từ xưng gọi. Trong khi đó, cụm từ "cô em" lại là cụm từ được ghép lại bởi các từ xưng gọi trong tiếng Việt theo phong cách khẩu ngữ. Cụm từ này thường chỉ được dùng trong văn xuôi, trong khẩu ngữ đời thường , trong một số bài của thể thơ tự do và cũng chỉ được dùng khi tác giả có thái độ bỡn cợt, bông lơn. Sự khác nhau về ý nghĩa phong cách trong cách dùng hai từ này phản ánh một đặc trưng khu biệt về văn hoá ngôn từ trong giao tiếp. Khi tìm hiểu và phân tích thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh nói chung và "Nhật ký trong tù" nói riêng, việc xem xét ngôn ngữ của bản dịch và văn bản gốc có một ý nghĩa rất quan trọng. Có những bản dịch hay, đạt được đầy đủ những yêu cầu về nội dung tư tưởng và nghệ thuật, việc phân tích sẽ không gặp những trở ngại và khó khăn. Ngược lại, có những bản dịch tuy đáp ứng được những yêu cầu về hình thức nghệ thuật nhưng nội dung tư tưởng lại chưa lột tả hết được đặc điểm về phong cách và văn hoá ngôn từ của tác giả thì việc phân tích rõ cái hay của bản gốc và những hạn chế của bản dịch sẽ là vô cùng cần thiết. Nó chẳng những giúp cho người học hiểu được hình tượng đích thực của văn bản nguyên tác mà còn có tác dụng điều chỉnh những sự so lệnh giữa ngôn ngữ dịch thuật và ngôn ngữ của bản chính văn nhằm tiếp cận đúng đắn tầm cao tư tưởng của tác giả trong một bài thơ cũng như trong toàn bộ những bài thơ chữ Hán của Người. TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb GD, Hà Nội. 2. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐHQG Hà Nội. 3. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. 4. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, NxbVHTT, Hà Nội. 5. Hà Minh Đức (1979), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà thơ lớn của dân tộc, Nxb KHXH, Hà Nội. 6. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Cơ sở ngôn ngữ học, NxbKHXH, Hà Nội. 7. Một số bài giảng thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh (1984), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Mấy vấn đề về phương pháp tìm hiểu, phân tích thơ Hồ Chủ tịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh (1979), NxbKHXH, Hà Nội. 10. Hoàng Xuân Nhị (1980), Chung quanh việc dịch thơ chữ Hán của Hồ Chủ tịch, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2. 11. Nhiều tác giả (1990), Hồ Chí Minh danh nhân văn hoá, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 12. Nguyễn Thị Phương Thùy (2004), Vần thanh điệu, nhịp điệu trong câu thơ mới bảy chữ, Tạp chí. Ngôn ngữ số 11. 13. Hoàng Tranh (Trung Quốc) (1992), Chú thích về tập thơ trong tù của Hồ Chí Minh, Nxb Quảng Tây. 14. Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù (1995), Nxb Giáo dục, Hà Nội. |