Chỉ định nhiễm trùng tiếng anh là gì năm 2024
The disease's pandemic status officially ended in 1959, but plague has never been eradicated, and although yersinia pestis remains susceptible to the antibiotic streptomycin, multi-drug resistant strains occasionally surface. Show
Y học hiện nay đang phát triển từng ngày, nếu bạn đang học tập và làm việc trong lĩnh vực này thì chắc chắn bạn cần cập nhật, trau dồi những kiến thức mới trên thế giới liên tục. Lúc này tiếng Anh chuyên ngành Y thực sự cần thiết. Nhiễm trùng máu là một phản ứng miễn dịch lớn nhất của cả cơ thể đối với sự hiện diện của vi khuẩn xâm nhập vào máu, và thường dẫn đến suy tạng nhanh chóng, tỷ lệ tử vong cao. 1. Sốc nhiễm trùng là một biến chứng nghiêm trọng của nhiễm trùng máu gây tụt huyết áp đáng kể. Septic shock is a severe complication of sepsis that causes a significant drop in blood pressure. 2. Trẻ sơ sinh nhẹ cân và sinh non dễ bị nhiễm trùng máu vì hệ miễn dịch của trẻ còn non nớt. Low birth weight and premature babies are more susceptible to sepsis because their immune systems are immature. Nhiễm trùng máu (sepsis) là một tình trạng có thể đe dọa tính mạng, điều mà xảy ra khi phản ứng của cơ thể đối với nhiễm trùng (infection) làm tổn thương các mô (tissue) của chính bản thân. Khi các quá trình chống nhiễm trùng (infection-fighting) diễn ra trong cơ thể, chúng khiến các cơ quan (organ) hoạt động kém và bất thường. Đôi khi, nhiễm trùng máu có thể tiến triển thành sốc nhiễm trùng (septic shock). Đây là tình trạng tụt huyết áp (a drop in blood pressure) nghiêm trọng và có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng về nội tạng và tử vong. Nhiễm trùng (infection) là sự xâm nhập của mầm bệnh vào cơ thể và phản ứng của cơ thể đối với thương tổn do mầm bệnh gây nên . Quá trình nhiễm trùng là quá trình vi sinh vật gây bệnh xâm nhập và nhân lên trong (hoặc trên) cơ thể vật chủ hay cơ thể cảm nhiễm, hoặc qua hàng rào da, niêm mạc, xâm nhập và nhân lên ở mô tế bào cơ thể, hay xâm nhập vào tế bào hoặc mô cơ thể và lan tràn trong cơ thể.. Nhiễm trùng có thể xảy ở bất cứ bộ phận nào của cơ thể, có khi cả toàn thân. Nhiễm trùng gây ra bởi các tác nhân truyền nhiễm bao gồm virus, vi khuẩn, ký sinh trùng, động vật chân đốt như bọ ve, bọ chét và chấy rận, nấm như nấm ngoài da, và các loại giun sán như giun móc, giun đũa, sán lá dây... Cơ thể chống lại nhiễm trùng bằng hệ miễn dịch. Hay các đáp ứng miễn dịch bẩm sinh, biểu hiện qua phản ứng viêm. Thuốc dùng để điều trị nhiễm trùng bao gồm thuốc kháng sinh, thuốc kháng virus, kháng nấm, kháng động vật nguyên sinh, và trị giun sán. Các bệnh nhiễm trùng dẫn đến 9,2 triệu ca tử vong trong năm 2013. (khoảng 17% của tất cả các trường hợp tử vong). Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]Vào năm 1880, nhà khoa học người Pháp Louis Pasteur chứng minh rằng chính các vi khuẩn là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh. Đây là một thành tựu, mặc dù các nhà khoa học trước ông đã có nhận định trên nhưng họ điều không bảo vệ thành công khi chưa đưa ra bằng chứng cụ thể nào. Cùng khoảng thời gian đó, Robert Koch, một bác sĩ người Đức, đã xây dựng nên các điều kiện để được đáp ứng bởi một căn bệnh được xem là truyền nhiễm, nó "được gọi là quy tắc Koch".. Dấu hiệu và triệu chứng[sửa | sửa mã nguồn]Các triệu chứng của nhiễm trùng phụ thuộc vào loại bệnh. Một số dấu hiệu của nhiễm trùng ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể nói chung, chẳng hạn như mệt mỏi, chán ăn, sụt cân, sốt, ra mồ hôi đêm, ớn lạnh, đau nhức. Những người khác là cụ thể cho các bộ phận cơ thể cá nhân, chẳng hạn như phát ban da, ho, hoặc chảy nước mũi. Con đường lây truyền[sửa | sửa mã nguồn]
Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]Theo vị trí giải phẫu[sửa | sửa mã nguồn]Nhiễm trùng có thể được phân loại theo vị trí hoặc giải phẫu cơ quan hệ thống bị nhiễm bệnh, bao gồm:
Ngoài ra, vị trí của những ổ viêm nơi có nhiễm trùng là nguyên nhân phổ biến nhất bao gồm viêm phổi, viêm màng não và viêm ống dẫn trứng. Theo nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]Nhiễm trùng ngoại khoa[sửa | sửa mã nguồn]Nhiễm trùng ngoại khoa là biến chứng thường xảy ra sau chấn thương kín, vết thương hoặc sau khi phẫu thuật. Khác với nhiễm trùng nội khoa, ở đây thường có một ổ thuận lợi cho nhiễm trùng như: một phần cơ thể bị giập nát, các tổ chức hoại tử, vết mổ nhiễm trùng thứ phát... thường đòi hỏi phải can thiệp ngoại khoa để loại bỏ mủ hoặc mô hoại tử; còn nhiễm trùng nội khoa thường không có hoặc có rất ít mô hoại tử nhưng lại có biểu hiện toàn thân nhiều hơn. Nhiễm trùng nội khoa[sửa | sửa mã nguồn]Thể nhiễm trùng[sửa | sửa mã nguồn]Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]
Diễn biến của nhiễm trùng[sửa | sửa mã nguồn]Thường thì một bệnh nhiễm trùng diễn biến qua 4 thời kỳ sau:
Các thể nhiễm trùng[sửa | sửa mã nguồn]
Một vài trường hợp minh họa[sửa | sửa mã nguồn]Các bệnh nhiễm trùng khu trú tại da và niêm mạc do tụ cầu khuẩn xâm nhập[sửa | sửa mã nguồn]Những bệnh nhiễm trùng da và các phần phụ thuộc (chủ yếu là các chân lông và tuyến mồ hôi) tạo thành bệnh cảnh áp xe kinh điển của tụ cầu. Các tụ cầu khuẩn có khả năng tạo fibrin do đó tạo được một vách fibrin bao bọc ổ áp xe. Các ổ nhiễm trùng này có thể chỉ nhỏ như đầu jjghim (bệnh viêm nang lông) hoặc kích thước như quả táo trong áp xe cơ. Các vùng da có lông rậm bao phủ, tụ cầu thường là nguyên nhân gây nên các mụn đầu đanh. Tổn thương tại chỗ có thể nhẹ nhàng nhưng nó cũng là một mối nguy cơ phát tán vi khuẩn đến những cơ quan xa hơn. Mủ của các ổ áp xe do tụ cầu vàng thường có màu vàng, đặc và không hôi. Lây nhiễm chéo[sửa | sửa mã nguồn]Lây nhiễm chéo là việc truyền các tác nhân lây nhiễm giữa bệnh nhân và nhân viên y tế trong bệnh cảnh lâm sàng như bệnh viện. Việc truyền tải có thể là kết quả của việc tiếp xúc trực tiếp từ người sang người hoặc gián tiếp thông qua các đối tượng bị nhiễm gọi là "vật chủ nhiễm bệnh". Dự phòng[sửa | sửa mã nguồn]Bệnh truyền nhiễm không chỉ nguy hiểm cho riêng bản thân ta, mà còn có thể lan ra nhiều người khác. Cho nên việc phòng ngừa để giảm nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng là vô cùng cần thiết. Những biện pháp sau có thể hạn chế bị bệnh nhiễm trùng:
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]Vi sinh y học, Học viện quân y, 2011 Vi sinh y học, Nhà xuất bản Y học, 2008 3. 3- Prescott; Harley, and Klein’s; Microbiology, 8th edition by Mc Graw Hill, Higher Education, 2013. Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]Video "No difundas los gérmenes" ("Không để lây lan mầm bệnh") xuất bản năm 1968 (Tiếng Anh)
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
Sepsis and septic shock là gì?+ Severe Sepsis dùng để chỉ những trường hợp bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng, các cơ quan cũng bị rối loạn chức năng nghiêm trọng, kèm theo đó là một số biểu hiện như thiểu niệu, giảm tưới máu,... + Septic Shock hay còn gọi là sốc nhiễm khuẩn: Đây là những trường hợp rất nguy hiểm, nhiễm khuẩn máu nghiêm trọng. Nhiễm trùng máu bao lâu chết?Mất bao lâu để chữa khỏi nhiễm trùng máu tùy thuộc vào bệnh nhân và tình trạng nhiễm trùng. Thường mất ít nhất vài ngày tuy nhiên nếu gặp vi khuẩn kháng kháng sinh, có thể mất nhiều thời gian hơn. Thời gian nằm viện trung bình đối với nhiễm trùng máu là 4 đến 5 ngày. Nhiễm trùng máu là bệnh gì có nguy hiểm không?Nhiễm trùng máu là một trong các biến chứng của ung thư. Nhiễm trùng máu do vi khuẩn, virus và nấm gây ra, khi không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến biến chứng sốc nhiễm trùng khiến cho các cơ quan, hệ thống chính của cơ thể như thận, gan, phổi và hệ thần kinh trung ương ngừng hoạt động, dẫn đến tử vong. Nhiễm trùng máu lọc máu hết bao nhiêu tiền?Chi phí lọc máu nhiễm khuẩn là bao nhiêu? Chi phí lọc máu nhiễm khuẩn khoảng 2,2 triệu đồng/lần. Dịch vụ kỹ thuật lọc máu có nằm trong danh mục dịch vụ kỹ thuật được quỹ Bảo hiểm Y tế thanh toán. |