Bài thu hoạch học tập chuyên đề 2023 năm 2024

“HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÓP PHẦN THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN” 

Họ và tên: Nguyễn Thị Hợp Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nguyễn Văn Linh

Sau khi dự sinh hoạt Chuyên đề năm 2023: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hưng Yên”. Tôi đã tiếp thu được những nội dung sau:

Nội dung chuyên đề gồm 3 phần:

  • Phần thứ nhất: Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về cải cách hành chính.
  • Phần thứ hai: Vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong việc đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
  • Phần thứ ba: Gợi ý nội dung thảo luận trong sinh hoạt chi bộ, cơ quan, đơn vị. PHẦN THỨ NHẤT
  • Quan điểm của Hồ Chí Minh về nền hành chính Nhà nước Cải cách hành chính [CCHC] là để góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phát huy vai trò tham gia quản lý, tư vấn, giám sát và phản biện xã hội trong hệ thống chính trị, nhằm cải thiện quan hệ giữa cơ quan, công chức nhà nước với công dân ở một số lĩnh vực hành chính công theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ trên cơ sở bình đẳng, song vụ giữa quyền và nghĩa vụ của hai bên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người đặt nền móng cho nền hành chính Việt Nam hiện đại, nhiều nguyên tắc của Người về cải cách hành chính đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về CCHC trước hết cần phải khẳng định và giữ vững tính chất nhà nước của dân, do dân, vì dân của nền hành chính pháp quyền nước ta. Đó là nền hành chính cương quyết chống lại những biểu hiện của các căn bệnh được coi là “mãn tính” của nhà nước như quan liêu, giấy tờ, cồng kềnh, xa dân và xa thực tiễn.

Tư tưởng phục vụ Nhân dân là tư tưởng cốt lõi trong đạo đức, nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với địa vị là công bộc của dân, Người luôn nhắc nhở người cán bộ công chức phải yêu dân, kính dân, có như vậy thì dân mới yêu ta, kính ta. Người kịch liệt lên án những cán bộ, công chức miệng thì nói dân chủ làm việc thì

theo lối quan chủ, miệng thì nói phụng sự quần chúng nhưng họ lại làm trái ngược với lợi ích của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người mà lời nói đi đôi với hành động, lý luận đi đôi với thực tiễn.

Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn đổi mới nền hành chính cần tiến

hành trên cả ba phương diện, đó là: Không ngừng đổi mới và ngày càng tăng

cường tính chất “nhân dân” của bộ máy hành chính; xây dựng bộ máy của các cơ

quan hành chính từ Trung ương đến địa phương luôn sát dân, gọn nhẹ và hiệu quả;

kiên trì xây dựng một đội ngũ cán bộ hành chính có lòng trung thành, có đạo đức

cách mạng và có kỹ năng hành chính tốt, ngày càng chính quy, hiện đại. Nhiều

nguyên tắc do Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định hiện nay vẫn còn nguyên giá trị.

II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính công vụ vì dân dựa trên nền tảng pháp lý và thực tiễn

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945 Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hòa”. “Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”. Bản chất của chế độ mới là dân chủ, cộng hòa. Chế độ ấy đã tạo ra tiền đề và đòi hỏi một nền hành chính phù hợp với bản chất của nó, tổ chức hoạt động và bộ máy nhân sự khác về chất so với trước đây.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và quan tâm xây dựng nhà nước pháp quyền hợp pháp, hợp hiến với nền hành chính công vụ vì dân và khoa học. Người đã quan tâm cả hai mặt: tổ chức các thiết chế của bộ máy nhà nước và ban hành các thể chế [hiến pháp và pháp luật] tạo cơ sở pháp lý và khoa học để tổ chức “một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Đó là một Nhà nước có cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động thích hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam đương thời, đảm bảo tính khoa học về chính trị học, xã hội học, luật học và khoa học tổ chức hành chính.

Trong Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về kháng chiến và kiến quốc ngày

25/11/1946, sau khi phân tích tình hình quốc tế và Đông Dương, Chỉ thị đã khẳng

định: “Nhiệm vụ riêng trong nước là phải củng cố chính quyền, chống thực dân

Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân. Bởi vậy, về mặt

nội chính, một mặt đi đến Quốc hội để qui định hiến pháp, bầu chính phủ chính

thức”

Những quy định của Hiến pháp 1946 về tổ chức bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ đến Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, về cơ quan tư pháp đều chứa đựng sâu sắc bản chất của một nhà nước pháp quyền kiểu mới, của dân, do dân và vì dân. Hiến pháp 1946 khẳng định: Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Đó là sự hiện thực hóa, pháp chế hóa chế độ dân chủ, cộng hoà. Nhà nước của dân và do dân nghĩa là nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền nhà nước, coi chính quyền là ruột thịt của mình. Nhà nước vì dân nghĩa là nhà nước mưu cầu quyền lợi, hạnh phúc cho nhân dân.

Khác với thuyết “pháp trị” trong xã hội phong kiến coi pháp luật là công cụ bảo vệ lợi ích của thiểu số cầm quyền; khác với lý luận pháp quyền của xã hội tư sản coi pháp luật là công cụ duy lý chặt chẽ và vô tình để quản lý sao cho có lợi

ngày càng tăng cường tính chất “nhân dân” của bộ máy hành chính dân chủ cộng hòa; Xây dựng bộ máy của các cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương luôn sát dân, gọn nhẹ và hiệu quả; Kiên trì xây dựng một đội ngũ cán bộ hành chính có lòng trung thành, có đạo đức cách mạng và có kỹ năng hành chính tốt, ngày càng chính quy, hiện đại. Nhiều nguyên tắc do Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định hiện nay vẫn còn nguyên giá trị, chẳng hạn nguyên tắc pháp quyền dân chủ, nguyên tắc “những gì có lợi cho dân phải hết sức làm, những gì có hại cho dân phải hết sức tránh”; nguyên tắc “vì việc mà tìm người chứ không vì người mà đặt việc”; nguyên tắc “xây dựng một nhà nước ít tốn kém”; xây dựng một nền hành chính gần dân, vì dân và gọn nhẹ [Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 chỉ có 10 Bộ].

Tư duy biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền hành chính cũng có nhiều độc đáo. Bên cạnh việc chỉ ra sự khác biệt về bản chất của nhà nước và nền hành chính khi so sánh với các nền hành chính đương thời, Người thấy được sự bất công của nền hành chính thực dân nhưng cũng thấy được những yếu tố hợp lý để kế thừa. Một số thao tác của quản lý truyền thống hoặc của nền hành chính nước ngoài có tính hợp lý cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, chẳng hạn như phát huy dân chủ để chọn đúng người cho công việc kết hợp với thi tuyển để lựa chọn công chức; đề cao sự giám sát của nhân dân kết hợp với chế độ trách nhiệm và tính nêu gương của người lãnh đạo; thực hiện chế độ quản lí cán bộ, công chức, giải quyết tốt giữa việc bồi dưỡng, đào tạo công chức mới với việc tận dụng và sử dụng rộng rãi những công chức của chế độ cũ.

Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta còn có thể thấy sự kế thừa khá

nhiều nguyên lý của khoa học pháp quyền hiện đại và kinh nghiệm pháp lý - hành

chính của nhiều quốc gia đương đại có nền hành chính pháp quyền, dân chủ. Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa hợp lý những kinh nghiệm thực tiễn và lý luận ấy

nhưng không hề xa rời thực tiễn Việt Nam.

  1. Thực hiện cải cách hành chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh Cải cách hành chính [CCHC] là để góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; phát huy vai trò tham gia quản lý, tư vấn, giám sát và phản biện xã hội trong hệ thống chính trị, nhằm cải thiện quan hệ giữa cơ quan, công chức nhà nước với công dân ở một số lĩnh vực hành chính công theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ trên cơ sở bình đẳng, song vụ giữa quyền và nghĩa vụ của hai bên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần thực tế và gần dân của Chính phủ. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Nó có thể tiếp thu những yếu tố công năng - kỹ thuật của văn minh pháp quyền đương đại, nhưng cần lọc bỏ những yếu tố không phù hợp với tính chất và mục tiêu của chế độ XHCN mà toàn Đảng, toàn dân ta đang phấn đấu. Theo đó, mục tiêu của CCHC ở nước ta là không ngừng làm cho nền hành chính lành mạnh và hiệu quả trong hoạt động và không ngừng góp phần làm cho nhà nước ngày càng mạnh mẽ và đáp ứng các yêu cầu của thời đại.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây dựng nền hành chính dân chủ, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đề cao vai trò của nền hành pháp, xác định cải cách hành chính là trọng tâm, tập trung vào các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên trong cơ quan nhà nước.

Thứ hai, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, cải cách tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt giam, giữ, truy tố, xét xử,...

Thứ ba, pháp huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế. Nâng cao chất lượng đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa. Tăng cường cán bộ cơ sở, có chế độ chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.

Thứ năm, đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong bộ máy quản lý nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, ngành, từ Trung ương đến cơ sở. Gắn phòng, chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc cải cách nền hành chính nước ta, ngày 15/7/2021 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030; trong đó, Chương trình xác định tập trung vào 6 nội dung, đó là: Cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính công và Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.

Mục tiêu hướng tới đó là xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân, trên cơ sở những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đúng như những gì mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng mong mỏi.

  1. Vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác cải cách hành chính nhà nước ở địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 15/6/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về Chương trình chuyển đổi số tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030; Kết luận số 223-KL/TU ngày 24/6/2021 của Ban Thường

Đại hội VIII của Đảng [1996] đề cập tới yêu cầu tiến hành CCHC đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm [1996-2000]. Nghị quyết Đại hội VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành.

Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về CCHC được nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức.

Nghị quyết Trung ương 6 [lần 2], Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII đã biểu thị một quyết tâm chính trị rất lớn về việc tiếp tục tiến hành CCHC, đặt CCHC trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Đảng ta khẳng định: Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể CCHC một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp.

Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với CCHC theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giản biên chế, cải cách chính sách tiền lương.

Đại hội IX của Đảng [2001] bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong CCHC như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng...

Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, nhấn mạnh thực hiện CCHC phải đồng bộ với cải cách lập pháp và cải cách tư pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến chất lượng xây dựng luật. Về cải cách thủ tục hành chính, Nghị quyết xác định “... đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của nhân dân và doanh nghiệp”. Nghị quyết cũng đặc biệt đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác CCHC đó là: Đảng quyết định các mục tiêu, quan điểm, chủ trương và giải pháp lớn về CCHC và tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn kịp thời việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác CCHC.

Đại hội lần thứ XI, XII của Đảng xác định CCHC nhà nước là một trong 3 khâu đột phá để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

giai đoạn 2011 - 2020. Trong những năm qua, nhất là 5 năm 2016 - 2020, Đảng, Nhà nước ta đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đạt những kết quả khá toàn diện và nổi bật, tạo động lực mạnh mẽ cho kinh tế - xã hội phát triển bền vững, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương và nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh quốc gia.

Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”. Quan điểm trên được thể hiện xuyên suốt, có tính nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, do đó, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân là một trong những định hướng nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân là nền hành chính vì lợi ích của nhân dân, “Lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân... làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”.

Xuyên suốt tiến trình CCHC nhà nước, Đảng ta luôn giữ vai trò “tiên phong” trong việc chỉ đạo, lãnh đạo, đề ra chủ trương, đường lối cải cách. Các quyết sách chính trị đó của Đảng có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng, chỉ đạo và tác động trực tiếp đến hoạt động quản lý nhà nước nói chung và thực hiện thủ tục hành chính nói riêng.

  1. Một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cải cách hành chính Sau khi tiến hành sơ kết, tổng kết triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đã rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích về vai trò của Đảng trong tiến trình CCHC như sau:

Một là, CCHC là một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, do đó phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền và sự tham gia tuyên truyền, vận động và giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng; phải xác định là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, lâu dài gắn với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm, sự thống nhất và quyết tâm cao trong cả hệ thống chính trị là yếu tố quyết định đến sự thành công của công cuộc CCHC.

Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan hành chính các cấp có phẩm chất đạo đức, vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, có tính chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ nhân dân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị là nhân tố quyết định đến sự thành công của công tác CCHC. Thực tế cho thấy, nơi nào cấp uỷ quan tâm, người đứng đầu thể hiện rõ quyết tâm và sự quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ CCHC thì nơi đó sẽ có chuyển biến rõ rệt và ngược lại, bên cạnh đó cần phải có đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác CCHC nhiệt tình, tâm huyết và năng lực nhất định để tham mưu, đề xuất giúp người đứng đầu chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính đạt kết quả.

Ba là, CCHC nhà nước phải được tiến hành đồng bộ, trong đó cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá, có ý nghĩa to lớn trong việc tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức và cá nhân, do đó cần thiết phải chuyển một số dịch vụ hành chính mà Nhà nước không cần nắm giữ cho các tổ chức và xã hội

trong những khâu rất quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp CCHC. Đó cũng chính là thể hiện sự thấm nhuần và vận dụng sáng suất những quan điểm, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một nền hành chính Việt Nam hiện đại, hiệu quả và tận tụy phục vụ nhân dân.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, việc nghiên cứu, học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về cải cách hành chính nhà nước hướng tới xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

  1. Kết quả cải cách hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Hưng Yên và huyện Yên Mỹ trong thời gian qua

Trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Hưng Yên đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, với những giải pháp đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, đạt hiệu quả thiêt thực. Năm 2021, là năm thành công của tỉnh Hưng Yên trong lĩnh vực thu hút đầu tư, cải cách hành chính, khi tăng bậc ở cả 4 chỉ số phản ánh nền hành chính: Chỉ số Cải cách hành chính [PAR INDEX] tăng 10 bậc so với năm 2020, xếp thứ 12/63 tỉnh, thành phố; Chỉ số Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh [PCI] tăng 14 bậc, xếp thứ 39 trong bảng xếp hạng PCI toàn quốc; Chỉ số Hài lòng của người dân tổ chức đối tượng phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước [SIPAS] tiếp tục duy trì thứ hạng cao, xếp thứ 3/63 tỉnh, thành phố, tăng 2 bậc so với năm 2020 và Chỉ số Nâng cao hiệu quả quản trị hành chính công [PAPI] xếp thứ 5/63 tỉnh, thành phố, tăng 39 bậc, góp phần hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các địa phương.

Đối với huyện Yên Mỹ: Năm 2022 dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, sự giúp đỡ về chuyên môn của các sở ngành dọc tỉnh, sự vào cuộc tích cực của MTTQ và các phòng, ngành liên quan, UBND huyện đã chỉ đạo, có nhiều giải pháp quyết liệt trong việc nâng cao chất lượng công tác cải cách hành chính, cải thiện các chỉ số CCHC của huyện, phấn đấu tăng hạng so với năm 2021. UBND huyện đã thành lập Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính huyện, Ban Chỉ đạo đã ban hành quy chế hoạt động, kiện toàn tổ giúp việc tham mưu. Giữa năm 2022, UBND huyện tổ chức Hội nghị sơ kết công tác CCHC, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4; chỉ đạo các phòng chuyên môn liên quan [phòng Nội vụ, Tư pháp, Văn phòng HĐND - UBND huyện, phòng Tài chính - Kế hoạch, phòng Văn hóa - Thông tin] thành lập các tổ công tác hướng dẫn các xã, thị trấn]. Kết quả năm 2022 các chỉ số Cải cách hành chính của huyện có sự cải thiện rõ rệt so với năm 2021, thể hiện quyết tâm đổi mới, sự chỉ đạo điều hành tích cực của cấp ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn huyện: Chỉ số Cải cách hành chính của huyện [PAR INDEX] xếp thứ 5/10 huyện, thị xã, thành phố [tăng 3 bậc so với năm 2021], Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công của huyện [PAPI] xếp thứ 5/10 huyện, thị xã, thành phố [tăng 5 bậc so với năm 2021]; chỉ số Hài lòng của người dân, tổ chức đối với phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước [SIPAS] xếp thứ 2/10 huyện, thị xã, thành phố [tăng 7 bậc so với năm 2021]. Điều này thể hiện sự nỗ lực cố gắng không ngừng trong việc

cải thiện các chỉ số, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng, sự hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan nhà nước.

  1. 1. Công tác cải cách thể chế Công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật [QPPL] ngày càng đảm bảo về chất lượng, thực hiện đúng trình tự theo quy định của pháp luật. Năm 2022, Hội đồng nhân dân [HĐND] tỉnh đã ban hành 11 Nghị quyết, UBND tỉnh đã ban hành 49 Quyết định, các văn bản đều đảm bảo về căn cứ pháp lý, đúng thẩm quyền, nội dung phù hợp với quy định của Hiến pháp, Luật và các văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên; phù hợp với đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và thực tiễn của địa phương. Tham gia góp ý đối với 232 dự thảo văn bản, trong đó: có 68 dự thảo văn bản của Trung ương [Luật, Nghị định, Thông tư] và 164 dự thảo văn bản của địa phương [23 dự thảo Nghị quyết, 60 dự thảo Quyết định và các văn bản khác như Chương trình, kế hoạch, báo cáo...]. Thẩm định 62 dự thảo văn bản QPPL [20 dự thảo Nghị quyết, 42 dự thảo Quyết định]. Công tác thẩm định văn bản QPPL được thực hiện đúng quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL và các Nghị định hướng dẫn thi hành; công tác thẩm định được triển khai thực hiện kịp thời ngay sau khi nhận đủ hồ sơ thẩm định, báo cáo thẩm định được ban hành đảm bảo đúng thời hạn cũng như chất lượng, đa số các nội dung thẩm định được cơ quan soạn thảo hoàn toàn tiếp thu ý kiến và chỉnh lý phù hợp.

Công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật: UBND tỉnh ban hành Quyết định số 241/QĐ-UBND ngày 24/01/2022 về ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật năm 2022 trên địa bàn tỉnh [xác định trọng tâm theo dõi của tỉnh là các lĩnh vực thực hiện chính sách hỗ trợ, khắc phục hậu quả của đại dịch Covid- 19; tình hình thi hành pháp luật về lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước; công tác giải phóng mặt bằng và chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư]; Quyết định số 1612/QĐ-UBND ngày 25/7/2022 về ban hành Kế hoạch tổng kết 10 năm thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.

Công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính: UBND tỉnh ban hành Quyết định số 727/QĐ-UBND ngày 25/3/2022 ban hành Kế hoạch công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính năm 2022 trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Quyết định số 32/2022/QĐ-UBND ngày 02/8/2022 về việc ban hành Quy chế phối hợp trong quản lý nhà nước đối với công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Tổ chức tập huấn công tác xử lý vi phạm hành chính năm 2022 trên địa bàn tỉnh với sự tham gia của hơn 1. đại biểu các sở, ban, ngành và UBND cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh.

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật: năm 2022, UBND tỉnh, Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và các Chương trình, Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, không trùng lắp và phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương như: Kế hoạch số 134/KH-HĐPH ngày 16/02/2022 về tuyên truyền, phổ biến các luật, nghị quyết được thông qua tại kỳ họp thứ 2; kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV và một số nội dung pháp luật về gia đình, trẻ em; Kế hoạch số 294/KH-HĐPH ngày 30/3/2022 tuyên truyền, PBGDPL về phòng, chống tham nhũng năm 2022; Kế hoạch số 310/KH- HĐPH ngày 01/4/2022 về thực hiện Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019 - 2022” năm 2022 trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Kế

Danh mục đính chính một số sai sót về căn cứ ban hành, thể thức kỹ thuật trình bày trong các Quyết định là văn bản QPPL của UBND tỉnh ban hành thời điểm từ ngày 04/8/2021 đến ngày 30/9/2022.

Đối với việc kiểm tra văn bản QPPL theo thẩm quyền, đã tiến hành kiểm tra 61 văn bản QPPL [01 Nghị quyết, 60 Quyết định] do UBND huyện, thị xã, thành phố ban hành từ ngày 25/9/2021 đến ngày 16/10/2022, qua kiểm tra phát hiện 19 văn bản sai về nội dung và thể thức, kỹ thuật trình bày; đề nghị UBND cấp huyện xử lý theo thẩm quyền.

  • Đối với huyện Yên Mỹ: Công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Năm 2022 UBND huyện ban hành 10 văn bản QPPL, các văn bản ban hành bảo đảm đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật. Đối với cấp xã: HĐND - UBND xã, thị trấn không ban hành văn bản QPPL.

Công tác tổ chức thi hành pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật: UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số 23/KH-UBND ngày 11/02/2022 thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên địa bàn huyện Yên Mỹ năm 2022, xác định lĩnh vực, phạm vi theo dõi tình hình THPL trọng tâm, liên ngành về lĩnh vực thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân, người lao động, người sử dụng lao động, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19 trên địa bàn huyện. Trong quá trình triển khai thực hiện, UBND huyện chỉ đạo UBND xã, thị trấn phối hợp phòng Tư pháp triển khai điều tra, khảo sát theo dõi thi hành pháp luật đối với lĩnh vực trọng tâm trên địa bàn huyện.

Công tác thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số 36/KH-UBND ngày 18/02/2022 về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2022 trên địa bàn huyện. Căn cứ nội dung Kế hoạch, UBND huyện chỉ đạo Hội đồng phối hợp PBGDPL huyện; các phòng, ngành huyện; UBND các xã, thị trấn tổ chức thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật dưới nhiều hình thức nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Để triển khai thực hiện một số nhiệm vụ công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật theo Kế hoạch và nhiệm vụ được giao, UBND huyện đã ban hành 07 Kế hoạch tuyên tuyền, phổ biến giáo dục pháp luật về: phòng chống tham nhũng; các Luật, Nghị quyết được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 2; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị; Công ước quốc tế chống tra tấn, thực hiện Đề án nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên cơ sở giai đoạn 2019-2022; tuyên truyền phổ biến các luật được Quốc hội khóa XV thông quan tại kỳ họp thứ 3 trên địa bàn huyện Yên Mỹ; Kế hoạch tổ chức các hoạt động hưởng ứng 10 năm ngày pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên địa bàn huyện Yên Mỹ.

Hội đồng Phối hợp PBGDPL huyện và các đơn vị thành viên đã tổ chức 31 hội nghị tuyên truyền trực tiếp với gần 2 lượt người tham dự; tuyên truyền, phổ biến đối với các lĩnh vực: xử lý vi phạm hành chính, hòa giải ở cơ sở, Luật Dân quân tự vệ 2019; Luật Nghĩa vụ quân sự 2015; tư vấn pháp luật cho hội viên hội phụ nữ; tuyên truyền giao thông đường bộ, phòng chống tệ nạn xã hội, tệ nạn ma túy, Luật Thanh niên cho đối tượng là học sinh, thanh thiếu niên; các quy định về xây dựng nông thôn mới, xây dựng xã, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật...

Trung tâm Văn hóa và Truyền thanh huyện thực hiện phát sóng 108 chuyên mục tuyên truyền qua hệ thống loa truyền thanh huyện, với gần 200 tin, bài, tài liệu có nội

dung tuyên truyền văn bản pháp luật; phối hợp với Văn phòng HĐND-UBND đăng các tin bài, văn bản pháp luật do UBND huyện ban hành trên cổng thông tin điện tử của huyện. Nội dung các tin, bài tuyên truyền đã bám sát theo nội dung kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật của UBND huyện, tập chung chủ yếu về các lĩnh vực: Các quy định pháp luật về đất đai, giải phóng mặt bằng, phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng chống tham nhũng, an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm, xử lý vi phạm hành chính...

Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL: UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số 194/KH-UBND ngày 21/12/2021 về xây dựng, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn huyện năm 2022; thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thống kê của ngành Tư pháp về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL.

  1. Công tác cải cách thủ tục hành chính Công tác rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa TTHC: Căn cứ Kế hoạch rà soát, đánh giá TTHC tỉnh Hưng Yên năm 2022 được ban hành kèm theo Quyết định số 62/QĐ-UBND ngày 12/01/2022, UBND tỉnh đã giao cho 06 sở, ban, ngành chịu trách nhiệm chủ trì rà soát, đánh giá đối với 27 TTHC và 01 nhóm TTHC; các sở, ban, ngành chủ trì rà soát đã ban hành Kế hoạch rà soát, đơn giản hóa TTHC năm 2022 của đơn vị mình; tiến hành đánh giá TTHC theo nhiệm vụ, thời hạn được UBND tỉnh giao và gửi kết quả rà soát, đánh giá TTHC về Văn phòng UBND tỉnh để đánh giá chất lượng.

Theo quy định tại Thông tư số 02/2017/TT-VPCP ngày 31/10/2017 của Văn phòng Chính phủ, UBND tỉnh giao Văn phòng UBND tỉnh đánh giá chất lượng kết quả rà soát, đánh giá TTHC của các cơ quan, đơn vị; ban hành 04 Quyết định thông qua Phương án đơn giản hóa TTHC: số 1585/QĐ-UBND ngày 18/7/ thông qua phương án đơn giản hóa TTHC trong lĩnh vực Đào tạo với nước ngoài thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Sở Giáo dục và Đào tạo; số 1584/QĐ-UBND ngày 18/7/2022 thông qua phương án đơn giản hóa TTHC trong lĩnh vực Phòng chống tệ nạn xã hội thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; số 1638/QĐ-UBND ngày 29/7/2022 thông qua phương án đơn giản hoá TTHC trong lĩnh vực Đầu tư Việt Nam, xuất nhập cảnh thuộc thẩm quyền giải quyết của Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh; số 1849/QĐ-UBND ngày 18/8/2022 thông qua phương án đơn giản hoá TTHC trong lĩnh vực Hoạt động xây dựng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Sở Xây dựng.

Công tác cập nhật số lượng TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của địa phương: năm 2022, Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên đã ban hành 34 Quyết định công bố danh mục TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các cấp chính quyền trên địa bàn tỉnh, với tổng số 634 TTHC, trong đó: công bố mới 242 TTHC [bao gồm cả công bố mới do chuẩn hóa]; công bố sửa đổi, bổ sung 150 TTHC và công bố bãi bỏ, hủy bỏ [bao gồm cả công bố bãi bỏ, hủy bỏ do chuẩn hóa] 242 TTHC.

Các TTHC nêu trên đã được tích hợp dữ liệu và nhập sửa đổi, bổ sung các thông tin liên quan đến thời gian, địa điểm thực hiện, phí, lệ phí theo các Quyết định công bố danh mục TTHC của Chủ tịch UBND tỉnh và đăng tải công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC; thực hiện kết nối, tích hợp dữ liệu TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc gia với Cổng thông tin điện tử tỉnh để đăng tải công khai TTHC trên Cổng thông tin điện tử tỉnh; thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định tại

Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cấp huyện và cấp xã đi vào hoạt động ổn định từ nhiều năm nay. Các đơn vị thường xuyên kiện toàn bộ phận ngay sau khi có sự thay đổi về nhân sự.

Việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức đối với quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết TTHC thuộc thẩm quyền luôn được quan tâm thực hiện công khai, minh bạch và kịp thời. Địa chỉ tiếp nhận phản ánh kiến nghị [Văn phòng UBND tỉnh] được niêm yết công khai tại bộ phận một cửa cấp huyện, cấp xã. Công dân, tổ chức có thể phản ánh trực tiếp với lãnh đạo bộ phận một cửa hoặc qua số điện thoại được niêm yết công khai hoặc tại hòm thư góp ý tại Bộ phận. Năm 2022, cấp huyện và cấp xã không nhận được phản ánh, kiến nghị nào của công dân, doanh nghiệp.

Số lượng TTHC thực hiện theo cơ chế một cửa: cấp huyện: 273 TTHC, cấp xã: 129 TTHC, đạt tỷ lệ 100% so với tổng số TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết.

Số lượng TTHC thực hiện theo cơ chế một cửa liên thông: 44 thủ tục. Tình hình, kết quả giải quyết TTHC: Năm 2022: Cấp huyện: Tiếp nhận: 7. hồ sơ [trong đó: trực tuyến: 3 Hồ sơ, trực tiếp: 3 hồ sơ, từ kỳ trước chuyển sang: 104 hồ sơ]. Số hồ sơ đã giải quyết: 6 hồ sơ, không có hồ sơ quá hạn, đang giải quyết: 201 hồ sơ [không có quá hạn]

Cấp xã: Tiếp nhận: 58 hồ sơ [trong đó: trực tuyến: 35 Hồ sơ, trực tiếp: 23 hồ sơ, từ kỳ trước chuyển sang: 85 hồ sơ]. Số hồ sơ đã giải quyết: 58 hồ sơ, không có quá hạn, đang giải quyết: 118 hồ sơ [không có quá hạn]. 100% tiến độ, kết quả giải quyết được công khai trên phần mềm một cửa điện tử của tỉnh.

  1. Công tác cải cách tổ chức bộ máy Công tác rà soát, hoàn thiện các quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các cơ quan, tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập tại địa phương: Căn cứ các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các bộ, ngành Trung ương quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh đã chủ động tiến hành rà soát, trình cấp có thẩm quyền hoàn thiện các quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các cơ quan, tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập tại địa phương theo đúng quy định.

Về sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính: Đến nay, 15 bộ, ngành Trung ương đã ban hành Thông tư quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị định 107/2020/NĐ-CP của Chính phủ. Thực hiện các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ, ngành Trung ương, các cơ quan, tổ chức hành chính trên địa bàn tỉnh đã thực hiện rà soát, sắp xếp lại đảm bảo theo quy định. Năm 2022, trên cơ sở hướng dẫn của bộ, ngành Trung ương các cơ quan, tổ chức hành chính trên địa bàn tỉnh đã thực hiện rà soát, trình cấp có thẩm quyền quy định lại chức năng, nhiệm vụ đảm bảo quy định [hiện tại còn 02 Sở chưa có Thông tư hướng dẫn của Bộ, ngành Trung ương là Thanh tra tỉnh; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn].

Về sắp xếp đơn vị sự nghiệp công lập: Việc kiện toàn, sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập của tỉnh theo hướng tinh gọn, thu gọn đầu mối được thực hiện kịp thời theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ, ngành Trung ương, phù hợp với tình hình thực tiễn của tỉnh. Năm 2022, UBND tỉnh ban hành Quyết định

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức đối với 18 đơn vị sự nghiệp công lập.

Công tác rà soát, sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan, tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập tại địa phương. UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 180/KH- UBND ngày 10/11/2022 về triển khai thực hiện Phương án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh Hưng Yên năm 2022. Theo đó, các cơ quan, đơn vị đang đẩy nhanh tiến độ để thực hiện các quy trình, thủ tục sắp xếp sáp nhập các trườn g tiểu học, trung học cơ sở thành trường liên cấp trên cùng địa bàn cấp xã, hoàn thành trong tháng 12/2022; bảo đảm đạt được mục tiêu theo Kế hoạch đã đề ra là giảm 16 trường so với năm 2021 [đạt 2,6%], tiến tới giảm tối thiểu 10% vào năm 2025. Việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện được thực hiện đảm bảo quy định. Đến nay, có 06/10 huyện đã hoàn thành việc chuyển chức năng tham mưu giúp UBND cấp huyện về ngành, lĩnh vực Y tế từ phòng Y tế về Văn phòng HĐND&UBND huyện [giảm 06 Phòng Y tế cấp huyện]; 04 huyện còn lại dự kiến hoàn thành trong năm 2023, đảm bảo đúng lộ trình, kế hoạch đã đăng ký.

Việc thực hiện cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập: Thực hiện Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 183/KH-UBND ngày 11/11/2022 xây dựng, phê duyệt Đề án tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, giai đoạn 2023-2025.

Công tác quản lý, sử dụng biên chế công chức, viên chức: Tổng số biên chế hành chính, số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp được giao năm 2022: 1 biên chế hành chính; 19 người làm việc trong đơn vị sự nghiệp; 143 hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ- CP trong các cơ quan hành chính. Tổng số cán bộ, công chức, viên chức hiện có: 1 công chức; 19 người làm việc trong đơn vị sự nghiệp; 133 lao động hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP trong các cơ quan hành chính.

Về thực hiện các quy định về phân cấp quản lý nhà nước giữa các cấp chính quyền ở địa phương: Thực hiện các quy định của Chính phủ về phân cấp trong quản lý theo ngành, lĩnh vực, HĐND, UBND tỉnh Hưng Yên đã ban hành và tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ phân cấp đảm bảo quy định tại các văn bản: Quyết định số 06/2015/QĐ-UBND ngày 09/3/2015 ban hành Quy định về phân cấp quản lý công tác tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Hưng Yên; Quyết định số 39/2018/QĐ-UBND ngày 01/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 06/2015/QĐ-UBND; Quyết định số 03/2015/QĐ-UBND ngày 28/01/2015 về việc phân cấp, phân công nhiệm vụ thực hiện Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Quyết định số 776/QĐ-UBND ngày 21/4/2016 về phân cấp quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm thuộc trách nhiệm quản lý của ngành Công Thương và UBND các huyện, thị xã, thành phố, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Quyết định số 22/2016/QĐ-UBND ngày 23/11/2016 ban hành Quy định phân cấp quản lý và phân công nhiệm vụ về lĩnh vực quy hoạch xây dựng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Nghị quyết số 145/2018/NQ-HĐND ngày 13/7/2018 về phân cấp quản lý, sử dụng tài sản công tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của tỉnh Hưng Yên; Quyết định số 15/2019/QĐ-UBND ngày 28/02/2019 ban hành Quy chế phối hợp theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch đầu tư trung hạn và hàng năm trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Quyết định số 16/2019/QĐ-UBND ngày 06/3/2019 ban hành Quy định phân công, phân cấp trách

tối thiểu 10% số đơn vị]. Tuy nhiên đến năm 2022 dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở, sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, huyện đã hoàn thành mục tiêu giảm 20% số lượng đơn vị cả 2 giai đoạn [hoàn thành trước hạn mục tiêu giai đoạn 2021-2025]

Cụ thể: Giai đoạn 2015-2020: sáp nhập 08 đơn vị thành 04 : [1] sáp nhập trường Tiểu học Lý Thường Kiệt, trường THCS Lý Thường Kiệt thành trường Tiểu học và THCS Lý Thường Kiệt; [2] sáp nhập trường Tiểu học Minh Châu, trường THCS Minh Châu thành trường Tiểu học và THCS Minh Châu; [3] sáp nhập Hạt giao thông, sự nghiệp môi trường thành Hạt Giao thông và môi trường; [4] Sáp nhập trường Tiểu học Yên Phú I, trường Tiểu học Yên Phú II thành trường Tiểu học Yên Phú] và 01 đơn vị chuyển về tỉnh quản lý [Sự nghiệp Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất]. Số lượng giảm: 5 đơn vị.

Giai đoạn 2021-2025: Đến nay UBND huyện đã thực hiện hợp nhất, sáp nhập 16 đơn vị thành 8 [giảm 08 đơn vị]. [1] hợp nhất Trung tâm Văn hóa, thể thao và du lịch, Đài Truyền thanh huyện thành Trung tâm Văn hóa và Truyền thanh; [2] Sáp nhập trường Tiểu học Trung Hoà I, trường Tiểu học Trung Hoà II thành trường Tiểu học Trung Hòa, [3] sáp nhập trường Tiểu học Việt Cường, trường THCS Việt Cường thành trường Tiểu học và THCS Việt Cường, [4] sáp nhập trường Tiểu học Yên Hòa, trường THCS Yên Hoà thành trường Tiểu học & THCS Yên Hòa, [5] sáp nhập trường Tiểu học Ngọc Long, trường THCS Ngọc Long thành trường Tiểu học & THCS Ngọc Long, [6] sáp nhập trường Tiểu học Nghĩa Hiệp, trường THCS Nghĩa Hiệp thành trường Tiểu học & THCS Nghĩa Hiệp, [7] sáp nhập trường Tiểu học Tân Việt, trường THCS Tân Việt thành trường Tiểu học & THCS Tân Việt, [8] sáp nhập trường Tiểu học Thanh Long, trường THCS Thanh Long thành trường Tiểu học và THCS Thanh Long.

  • Về kiểm tra, đánh giá tình hình tổ chức và hoạt động của các phòng chuyên môn thuộc UBND huyện

Lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của các phòng, ban, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ. hàng tuần các phòng có báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ gửi về Lãnh đạo UBND huyện, Lãnh đạo UBND huyện tiến hành họp giao ban với Thủ trưởng các phòng, ngành thường xuyên 1 tháng/lần hoặc tổ chức họp đột xuất.

  • Thực hiện phân cấp quản lý Công tác tổ chức, cán bộ, việc chức được UBND huyện thực hiện theo các văn bản: Quyết định số 06/2015/QĐ-UBND ngày 09/3/2015 của UBND tỉnh Hưng Yên, được sửa đổi bổ sung 1 phần bằng Quyết định số 39/2018/QĐ-UBND ngày 01/11/2018; Quy định số 197-QĐ/HU ngày 28/9/2021 của Ban Thường vụ Huyện ủy Yên Mỹ quy định về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý.

UBND huyện đã xây dựng, ban hành Quyết định số 3890/QĐ-UBND ngày 28/9/2021 về quy chế làm việc của UBND huyện nhiệm kỳ 2021-2026, phân định rõ trách nhiệm của UBND huyện, UBND các xã, thị trấn, thủ trưởng các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, tăng cường vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo, thực hiện nghiêm việc xử lý đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra việc cán bộ, công chức, viên chức có

hành vi gây nhũng nhiễu, phiền hà trong việc tiếp nhận và giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp.

  • Tình hình quản lý, sử dụng biên chế công chức, viên chức: UBND huyện thực hiện quản lý tốt số biên chế công chức và số lượng người làm việc hiện có, không vượt quá số biên chế được giao của UBND tỉnh.
  • Năm 2022: Số biên chế công chức được giao 80, số biên chế có mặt: 74; Số hợp đồng làm việc theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP được giao: 05, số có mặt: 05.

Số lượng người làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong các đơn vị sự nghiệp công lập: Đối với các đơn vị được UBND tỉnh giao biên chế năm 2022: 1633 người, số có mặt: 1 người.

Số lượng cán bộ, công chức xã, thị trấn được UBND tỉnh giao: 328 người, trong đó: Cán bộ xã: 181 người, công chức xã: 147 người. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã có mặt: 314 người, trong đó: cán bộ: 177 người, công chức: 137người.

  • Năm 2023: Số biên chế công chức hành chính UBND tỉnh tạm giao: 80 người và 05 hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP. Số biên chế công chức hiện có: 75 người và 05 hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP. Số lượng người làm việc UBND tỉnh giao năm 2023 [đơn vị sự nghiệp và Hội đặc thù]: 1. người, số lượng người làm việc hiện có mặt: 1 người.

Số lượng cán bộ, công chức xã, thị trấn được UBND tỉnh giao: 328 người, trong đó: Cán bộ xã: 181 người, công chức xã: 147 người. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã có mặt: 314 người, trong đó: cán bộ: 178 người, công chức: 136 người.

  1. Công tác cải cách chế độ công vụ Công tác xây dựng, ban hành các quy định về vị trí việc làm của công chức, viên chức. Căn cứ các Nghị định của Chính phủ và các quy định có liên quan, các cơ quan, tổ chức hành chính và các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh đã được phê duyệt vị trí việc làm [VTVL] đảm bảo quy định. Năm 2022, 30/30 cơ quan, tổ chức hành chính và 560/560 đơn vị sự nghiệp công lập [bao gồm các đơn vị sự nghiệp công lập được giao biên chế] đã được phê duyệt VTVL. UBND tỉnh đã hướng dẫn, đôn đốc các cơ quan, tổ chức, đơn vị xác định lại đội ngũ công chức, viên chức theo VTVL, trên cơ sở đó quy định cụ thể sản phẩm đầu ra, kết quả sản phẩm đầu ra của từng VTVL để làm cơ sở đánh giá, bình xét thi đua khen thưởng, mức độ hoàn thành công việc được giao đối với công chức, viên chức và người lao động của các cơ quan, đơn vị.

Công tác tuyển dụng công chức, viên chức: Việc tuyển dụng công chức, viên chức tỉnh Hưng Yên được thực hiện theo đúng quy định, công khai, minh bạch, nâng cao chất lượng và phòng chống tiêu cực: Tuyển dụng công chức: tiếp nhận vào công chức không qua thi tuyển đối với 24 người [trong đó: sở, ban, ngành 20 người; huyện, thị xã, thành phố 04 người]; tiếp nhận vào làm công chức để bổ nhiệm lãnh đạo đối với 04 người [tại huyện 01 người; tại sở, ban, ngành 03 người]. Tuyển dụng viên chức: Năm 2022, UBND tỉnh giao Sở Nội vụ thoả thuận kết quả tuyển dụng viên chức vào làm viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập năm 2022 đối với 02 người [01 người trúng tuyển và 01 người không trúng tuyển]. Hoàn thiện việc tuyển dụng viên chức theo kế hoạch năm 2021: Cấp tỉnh: 84 người; trong đó: 66 người trúng tuyển [Liên minh Hợp tác xã tỉnh 02 người; Hội Đông y tỉnh 02 người; Sở Y tế 62 người]; 18 người không trúng tuyển. Đối với

Chủ Đề