Các giá trị sống cần hình thành cho học sinh tiểu học

Skip to content

Trang chủ Tinh thần Giá trị sống là gì? Tại sao phải giáo dục giá trị sống trước kĩ năng sống?

Từ vài thập kỷ nay, trong giáo dục đạo đức cho tuổi trẻ trên thế giới người ta nói nhiều đến hai khái niệm mới là giáo dục kỹ năng sống [life skills] và giá trị sống [living values]. Nó khác nhiều với cách giáo dục xưa bằng lời nói suông, mà bằng hành động cụ thể để trẻ có khả năng hành động tích cực thật sự. Ta đã nghe nhiều về kỹ năng sống. Kỹ năng sống giúp cho trẻ em nói riêng và con người nói chung có khả năng về mặt tâm lý xã hội để phán đoán và ra quyết định tích cực, nghĩa là để “nói không với cái xấu”. Tuy nhiên, trước khi dạy kĩ năng sống, cần giáo dục giá trị sống trước tiên.

Giá trị sống là gì? Tại sao giáo dục giá trị sống lại quan trọng?

Giá trị sống là gốc rễ hình thành nên kĩ năng sống

Giá trị sống [hay còn gọi là “giá trị cuộc sống”] là những điều mà một con người cho là tốt, là quan trọng, phải có cho bằng được và vì thế giá trị sống chi phối hành vi của con người. Ví dụ như: Có người coi sự giàu có là giá trị sống. Khi đó mọi hành động, việc làm đều hướng đến việc có được nhiều tiền bằng mọi giá, thậm chí phạm pháp, làm hại người khác. Có người lấy danh vọng làm thước đo giá trị. Vậy họ cố gắng bằng mọi cách để có được những chức vị nào đó. Nhưng khi những chức vị ấy mất, bị tước bỏ, con người trở nên “trắng tay”, vô giá trị.

Có người coi sự nhàn hạ là giá trị cuộc sống. Họ trốn tránh trách nhiệm, lười lao động, chọn những công việc, nghề nghiệp không vất vả. Vì vậy, giáo dục để các bạn trẻ, các em học sinh [kể cả người lớn] nhận diện đúng đâu là giá trị đích thực của cuộc sống là điều cần thiết.

Nếu con người không có nền tảng giá trị sống rõ ràng và vững chắc, dù cho được học nhiều kỹ năng đến đâu, chúng ta sẽ không biết cách sử dụng nguồn tri thức ấy sao cho hợp lý, mang lại lợi ích cho bản thân và cho xã hội.
Thiếu nền tảng giá trị sống vững chắc, con người rất dễ bị ảnh hưởng bởi những giá trị vật chất, và rồi mau chóng định hình chúng thành mục đích sống, đôi khi đưa đến kiểu hành vi thiếu trung thực, bất hợp tác, vị kỷ cá nhân. Những giá trị sống tích cực là chiếc neo giúp chúng ta ổn định, vững chãi giữa những biến động của cuộc đời.

12 giá trị sống được nêu ra bởi UNESCO.

1. Hòa bình 2. Tôn trọng 3. Yêu thương 4. Khoan dung 5. Trung thực 6. Khiêm tốn 7. Hợp tác 8. Hạnh phúc 9. Trách nhiệm 10. Giản dị 11. Tự do

12. Đoàn kết

Kĩ năng sống là gì? Chiến lược giáo dục giá trị sống

Đó có thể hiểu là năng lực tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày. Hay có thể hiểu nôm na rằng: Kĩ năng sống là những kĩ năng cần có cho hành vi lành mạnh, tích cực, cho phép mỗi cá nhân đối mặt với những thách thức của cuộc sống hằng ngày.

TS tâm lý học Huỳnh Văn Sơn đã đúc kết 20 kỹ năng sống cơ bản cần được giáo dục trong trường phổ thông và các bà mẹ cần biết để hỗ trợ cho con cái trong việc hoàn thiện các kỹ năng sống để trở thành người tốt, biết làm chủ cuộc sống của chính mình.

1 -Kỹ năng tự nhận thức 2 -Kỹ năng xác định giá trị [của bản thân và của người khác]. 3 -Kỹ năng kiểm soát cảm xúc. 4 -Kỹ năng ứng phó với căng thẳng. 5 -Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ. 6 -Kỹ năng thể hiện sự tự tin. 7 -Kỹ năng giao tiếp. 8 -Kỹ năng lắng nghe tích cực. 9 -Kỹ năng thể hiện sự cảm thông. 10 -Kỹ năng thương lượng. 11 -Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn. 12 -Kỹ năng hợp tác 13 -Kỹ năng tư duy phê phán. 14 -Kỹ năng tư duy sáng tạo. 15 -Kỹ năng ra quyết định 16 -Kỹ năng giải quyết vấn đề. 17 -Kỹ năng kiên định 18 -Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm 19 -Kỹ năng đặt mục tiêu

20 -Kỹ năng quản lý thời gian.

Mối quan hệ giữa kỹ năng sống và giá trị sống

Giá trị sống là nền tảng để hình thành kỹ năng sống.

Như đã nói ở trên, giá trị sống chi phối hành vi của con người. Khi một con người theo đuổi một giá trị nào đó, mọi hành động của họ sẽ hướng đến mục tiêu đạt được giá trị đó. Và để đạt được mục tiêu, họ phải vận dụng nhiều kĩ năng cần thiết có liên quan để việc làm trở nên hiệu quả.

Kỹ năng sống là công cụ hình thành và thể hiện giá trị sống.

Thực chất kỹ năng sống là các giá trị thể hiện bằng hành động.
Tuy nhiên, nếu quá tập trung vào các kỹ năng sống dưới góc độ “kỹ thuật hành vi” và không chứa đựng giá trị nhân văn tốt đẹp thì giáo dục kỹ năng sống kiểu này có thể dẫn đến phi đạo đức, không phù hợp với mục đich giáo dục tốt đẹp.

Bởi những lý do trên mà giáo dục giá trị sống luôn là một hoạt động quan trọng, cần thiết hàng đầu khi dạy kĩ năng sống cho trẻ. Nuôi dưỡng những giá trị sống đúng đắn cho trẻ từ nhỏ không hề đơn giản, cần nhiều hoạt động, các bài học đi kèm. Gia đình và các nhà trường cần thường xuyên cập nhật, đưa giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống trở thành một hoạt động thường nhật.

Nếu thấy bài biết hay và hữu ích hãy donate cho blog nhé

Donate qua ví MOMO:

Donate qua Viettel Pay:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC VINHNGUYỄN THỊ HỒNG NGỌCGIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 5 THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN ĐẠO ĐỨCCHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC HỌC [BẬC TIỂU HỌC] Nghệ An, năm 2014BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC VINHNGUYỄN THỊ HỒNG NGỌCGIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 5 THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN ĐẠO ĐỨCCHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC HỌC [BẬC TIỂU HỌC] Mã số: 60.14.01.01Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị HườngNghệ An, năm 2014LỜI CẢM ƠNĐể hoàn thành đề tài: “Giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 5 thông qua môn Đạo đức”, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Hường, người đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành đề tài.Tôi xin chân thành cảm ơn đến tập thể giáo viên khoa Giáo dục, Phòng đào tạo Sau đại học, các thầy cô giáo cùng các bạn học viên lớp cao học 20: Giáo dục học - bậc tiểu học, các thầy cô giáo ở một số trường tiểu học trên địa bàn huyện Bình Chánh, Hồ Chí Minh, đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè và đồng nghiệp, những người luôn động viên, khích lệ tôi hoàn thành luận văn này.Xin chân thành cảm ơn!Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2014 Tác giả Nguyễn Thị Hồng Ngọc MỤC LỤCPHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN 93PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN 101PHỤ LỤC 9 1BẢNG CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮTGiáo dục GDGiào dục giá trị sống GDGTSĐào tạo ĐTTiểu học THGiáo viên GVGiáo viên chủ nhiệm GVCNGiáo viên tiểu học GVTHHọc sinh HSHọc sinh tiểu học HSTHCán bộ quản lý CBQLXã hội XHXã hội chủ nghĩa XHCNBan giám hiệu BGHChương trình giáo dục phổ thông CTGDPTChương trình giáo dục CTGDKĩ năng sống KNSĐội Thiếu niên Tiền phong Đội TNTPĐoàn Thanh niên Đoàn TN1MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài Trong văn kiện Đại hội XI của Đảng về Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định con người là trung tâm của chiến lược phát triển, vì vậy giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội.Nghị quyết TW 2 khóa VIII đã chỉ rõ “Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn diện”. Luật Giáo dục đã chỉ rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”Con người là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Việc đầu tư cho sự phát triển của con người không chỉ vì mục đích nhân văn mà còn là đầu tư có lợi nhất cho sự phát triển bền vững. Nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ thành những con người phát triển toàn diện. Toàn diện ở đây không chỉ về thể lực, trí lực, khả năng lao động mà còn còn phải có đạo đức, văn hóa của xã hội mới.Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông và cụ thể hơn là giáo dục tiểu học phải đổi mới mạnh mẽ, không 2chỉ dạy tri thức mà phải phát triển tâm lực cho các em. Phát triển tâm lực là phát triển các phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống, phát triển các tố chất tâm lý, là phát triển tâm hồn, hướng tới cuộc sống tinh thần lạc quan, yêu đời, vui vẻ, sống hoà nhập với cộng đồng và gần gũi với thiên nhiên; tự điều chỉnh cuộc sống cá nhân hướng tới cuộc sống có văn hoá và hạnh phúc. Khai thác, phát triển tâm lực là tạo ra nội lực của sự phát triển nhân cách bền vững và con người là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, tự nhiên bền vững.Xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, vấn đề mà giáo dục và xã hội quan tâm trong thời gian qua đó là những biểu hiện về tâm lý, cách ứng xử và giải quyết các vấn đề xảy ra trong cuộc sống một cách thiếu định hướng giáo dục của giới trẻ, trong đó có đối tượng là học sinh. Xuất phát từ thực trạng hiện nay, một bộ phận không nhỏ chưa xác định chuẩn xác những giá trị sống cốt lõi, có những biểu hiện lệch chuẩn ngay từ rất nhỏ. Thực tế, một bộ phận không nhỏ học sinh Tiểu học hiện nay chỉ biết hưởng thụ, không quan tâm đến trách nhiệm của mình với gia đình, xã hội; có những suy nghĩ, hành động chưa đúng mực với lứa tuổi tiểu học. Vì thế, nhà trường cụ thể là nhà trường Tiểu học là nơi tổ chức giáo dục và định hướng đúng đắn cho học sinh, phải là nền tảng vững chắc và trang bị cho các em các giá trị sống trở thành vốn sống trong học tập và cuộc sống sau này.Hoạt động giáo dục giá trị sống thông qua các môn học trong những năm qua còn khá mới mẻ đối với một số trường học. Tuy nhiên, nội dung này đã có nhiều sự chuyển biến khá rõ nét, mặc dù, những nội dung đưa vào nhà trường tiểu học còn khá đơn điệu, cứng nhắc; phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp và hiệu quả lồng ghép chưa cao. Điều này càng gây thêm áp lực cho học sinh tiểu học vốn đã phải “gồng mình” với nội dung chương trình bị xem là quá tải trong thời gian qua.3 Xuất phát từ lý luận và thực tiễn về nhu cầu giáo dục giá trị sống của học sinh trong các trường các trường tiểu học ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 5 thông qua dạy học môn Đạo đức”.2. Mục đích nghiên cứuXác định một số biện pháp giáo dục giá trị sống cho HS lớp 5 thông qua dạy học môn Đạo đức nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường tiểu học. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục giá trị sống cho HS lớp 5 thông qua dạy học môn Đạo đức.3.2. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp giáo dục giá trị sống cho HS lớp 5 thông qua dạy học môn Đạo đức.4. Giả thuyết khoa họcHiệu quả công tác giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 5 thông qua dạy học môn Đạo Đức sẽ được nâng cao nếu xác định và thực hiện một số biện pháp giáo dục có tính khoa học, tính thực tiễn, phù hợp đặc điểm tâm lý của học sinh.5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục giá trị sống cho HS lớp 5 thông qua dạy học môn Đạo đức.5.2. Nghiên cứu thực trạng giáo dục giá trị sống cho HS lớp 5 thông qua dạy học môn Đạo đức.45.3. Đề xuất và thăm dò tính hiệu quả, tính khả thi của các biện pháp giáo dục giá trị sống cho HS lớp 5 thông qua dạy học môn Đạo đức.6. Phạm vi nghiên cứuĐề tài nghiên cứu các biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 5 ở các trường: trường Tiểu học Tân Túc, trường Tiểu học An Phú Tây, trường Tiểu học Bình Chánh, trường Tiểu học Tân Nhựt 6 trên địa bàn huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.7. Các phương pháp nghiên cứu7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá những tài liệu lý luận để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:7.2.1. Phương pháp quan sát: Nhằm quan sát hoạt động dạy và học môn Đạo đức có tích hợp nội dung giá trị sống ở một số trường Tiểu học trên địa bàn huyện Bình Chánh.7.2.2. Phương pháp điều tra: nhằm tìm hiểu thực trạng công tác giáo dục Giá trị sống cho HS lớp 5 thông qua môn Đạo đức7.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Nhằm kế thừa những kinh nghiệm trong công tác giáo dục giá trị sống cho HS ở trường tiêu học. 7.3. Phương pháp thống kê toán học: để xử lý số liệu thu được. 8. Cấu trúc nội dung của luận văn:Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, LV gồm 3 chương:5Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.Chương 2: Thực trạng giáo dục giá trị sống cho HS lớp 5 thông qua dạy học môn Đạo đức. Chương 3: Các biện pháp giáo dục giá trị sống cho HS lớp 5 thông qua môn dạy học môn Đạo đức. 6CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài.Tại một Hội nghị quốc tế về phòng chống các tệ nạn xã hội, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ngài Kofi Annan đã nêu rằng: "Tất cả các vấn đề trên thế giới đều do thiếu vắng các giá trị mà hình thành. Chúng ta mới chỉ cắt các cành nhánh của vấn đề, mà không đi vào gốc rễ của nó" [7]. Để kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên Hiệp Quốc, vào tháng 8 năm 1996 các nhà giáo dục khắp năm châu đã được triệu tập tại trụ sở UNICEF ở New York với mục đích kêu gọi sự chia sẻ các giá trị cho một thế giới tốt đẹp hơn.Với cùng một câu hỏi thăm dò: "Làm thế nào để có một thế giới tốt đẹp hơn?", các đối tượng trả lời thuộc nhiều tầng lớp, tôn giáo, sắc tộc khác nhau ở 129 quốc gia đều có một điểm chung về các giá trị căn bản, trong đó 12 giá trị được nhiều người nhắc đến nhất là hòa bình [bình yên], tôn trọng, yêu thương, trách nhiệm, hạnh phúc, hợp tác, trung thực, khiêm tốn, khoan dung, giản dị, đoàn kết, và tự do. Và từ đó, Hiệp hội giáo dục các giá trị sống quốc tế [ALIVE] đã được hình thành và đã soạn thảo một chương trình giáo dục bao gồm 12 giá trị với hàng loạt các hoạt động mang tính trải nghiệm và các phương pháp thực hành, giúp con người khám phá trở lại và phát triển 12 giá trị toàn cầu, căn bản của mỗi cá nhân, mà không liên quan đến tôn giáo, chính trị. Hiện nay chương trình đã có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chương trình được chính thức đăng ký hoạt động tại 80 nước.71.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước.Giáo dục giá trị sống là giáo dục "từ gốc". Nhận định quan trọng này được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục thống nhất tại hội thảo quốc gia về khoa học giáo dục Việt Nam vừa được Bộ GD-ĐT tổ chức lần đầu tiên.Trong cuốn sách: “Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn” NXB Giáo dục, 1998, PGS.TS Hà Nhật Thăng đã có đề xuất cụ thể những giá trị cần trang bị cho học sinh, sinh viên. Nắm vững hệ thống giá trị cốt lõi, đó là cơ sở cơ bản của nhân cách, rèn luyện để thế hệ trẻ có những hành vi tương ứng với hệ thống giá trị đạo đức nhân văn cốt lõi, phù hợp với yêu cầu của xã hội, của thời đại. Những kết quả nghiên cứu trên đã được ứng dụng vào việc xây dựng chương trình và thể hiện trong sách giáo khoa ở Tiểu học, THCS, THPT của môn Đạo đức và Giáo dục công dân triển khai từ năm 2000 trên phạm vi cả nước. Từ năm 2010 Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội với Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Hà Nội nghiên cứu triển khai chương trình giáo dục giá trị sống thí điểm cho 10 trường ở Hà nội.Gần đây, Hội khoa học tâm lý giáo dục Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Nghiên cứu giáo dục giá trị sống cho học sinh tiểu học Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, chương trình mang mã số 01X- 12/03-2011-2, với sự tham gia của nhiều nhà khoa học như GS.VS Phạm Minh Hạc, PGS.TS Đặng Quốc Bảo, PGS.TS Mạc Văn Trang, PGS.TS Hà Nhật Thăng Đây là những tiền đề đưa công tác giáo dục giá trị sống cho học sinh trung học phổ thông vào các nhà trường mạnh mẽ, mang lại hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Trên kênh VTV1 đài truyền hình Việt Nam có phát chương trình “Quà tặng cuộc sống”; trên kênh HTV7, HTV9, HTV2 đài truyền hình TP Hồ Chí 8Minh có chương trình “Khoảnh khắc diệu kì” – một trong những nội dung giáo dục giá trị sống đã gây được sự chú ý và thu hút các bậc cha mẹ, những nhà giáo và những người quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ.Đặc biệt trong những năm gần đây có nhiều sách tiếng Việt về giá trị sống được dịch hoặc được xuất bản có tác động mạnh mẽ đến hoạt động giáo dục giá trị sống tại Việt Nam. Cụ thể như cuốn “Giáo dục giá trị và kĩ năng sống cho học sinh phổ thông” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa; Diane Tillman – Diana Hsu [2010], Những giá trị sống dành cho trẻ từ 3 đến 7 tuổi, NXB Trẻ; Diane Tillman [2010], Những giá trị sống dành cho trẻ từ 8 đến 14 tuổi, NXB Trẻ; Tsunesaburo Makiguchi [2009], Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo, NXB Trẻ Tuy nhiên, để nghiên cứu vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua môn Đạo đức thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Vì lẽ đó, chúng tôi nghĩ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua môn Đạo đức là một vấn đề còn khá mới mẻ và cần thiết trong chương trình giáo dục Tiểu học hiện nay.1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài1.2.1. Giá trị, hệ giá trị Theo từ điển Triết học do M.M.Rozental [Liên Xô] chủ biên [Nxb Tiến Bộ Maxcơva, 1974], “Giá trị là những định nghĩa về mặt xã hội của các khách thể trong thế giới chung quanh nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của khách thể ấy đối với con người và xã hội [cái lợi, thiện, ác, cái đẹp và cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội hoặc tự nhiên]. Xét bề ngoài, các giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc hiện tượng, không phải đơn thuần do kết cấu bên trong của bản thân khách thể, mà do khách thể bị thu hút vào phạm vi tồn tại xã hội của con người và trở thành cái mang những quan hệ xã hội nhất định. Đối với chủ thể [con người], các giá trị là các đối tượng lợi ích của nó, còn đối với ý thức của nó thì chúng đóng vai trò là những vật 9định hướng hàng ngày trong thực trạng vật thể và xã hội, chúng biểu thị các quan hệ thực tiễn của con người đối với sự vật và hiện tượng xung quanh mình”.[17] Theo Từ điển Tiếng Việt [Nxb Khoa học xã hội], giá trị là cái mà con người dùng làm cơ sở để xem xét một vật có lợi ích đến mức nào đối với con người; cái mà con người dựa vào dùng để xem xét một người đáng quý đến mức nào về mặt đạo đức, trí tuệ, tài năng; những quan niệm và thực tại về cái đẹp, sự thật, điều thiện của xã hội; tính chất quy ra được thành tiền của một vật trong quan hệ buôn bán, đổi chác; độ lớn của một đại lượng, một lượng biến thiên.[16] Dưới góc độ Xã hội học, giá trị được quan tâm ở nội dung, nguyên nhân, điều kiện kinh tế xã hội cụ thể trong quá trình hình thành hệ thống giá trị nhất định của một xã hội. Giá trị trong Đạo đức học luôn gắn liến với những khái niệm trung tâm như: cái thiện, cái ác, công bằng, bình đẳng, bác ái bởi vì khái niệm giá trị thuộc phạm vi đời sống đạo đức của con người, các quan hệ xã hội và quá trình hình thành các chuẩn mực, quy tắc đạo đức của xã hội. Dưới góc độ Tâm lý học, khái niệm giá trị được nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu hành vi, hoạt động của con người và dự báo sự phát triển của nhân cách. Giá trị, theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu đó là cái đã làm cho một khách thể nào đó có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ thể, được mọi người thừa nhận. Người ta có thể phân chia giá trị thành: giá trị vật chất, giá trị tinh thần, giá trị riêng, giá trị chung, giá trị xã hội. Có quan điểm cho rằng giá trị là cái vốn có của khách thể, nhưng mỗi chủ thể lại có thể đánh giá, xem xét nó trên những góc độ khác nhau, đưa đến những quan niệm khác nhau về giá trị. Vì con người cũng có nhiều điểm tương đồng trong định hướng giá trị, nên có những giá trị được số đông chấp nhận và những giá trị này sẽ trở thành 10giá trị chung của xã hội. Tuy nhiên, giá trị cũng là phạm trù có tính lịch sử. Giá trị là "những niềm tin, thái độ, mục đích, cảm xúc, lý do đã được đánh giá, lựa chọn sau khi đã cân nhắc, xem xét, thử thách và thấm nhuần trong cuộc sống" .[5]Tác giả J.H.Fichter, nhà Xã hội học người Mỹ cho rằng: “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân và xã hội đều có một giá trị”. .[5]Theo tài liệu “Giáo dục giá trị” [Bộ văn hóa Thể thao Philippin], khái niệm giá trị có thể hiểu: “Một vật có giá trị khi nó được thừa nhận là có ích và mong muốn có được những thứ đó đã ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của con người. Không chỉ có hàng hóa vật chất mà cả lý tưởng và những khái niệm đều có giá trị như: sự thật, công lý, lương thiện”. .[5]Tác giả V.P.Tugarinov [Liên Xô] lại cho rằng: giá trị là những khách thể, những hiện tượng và những thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiết cho con người [lợi ích, hứng thú] của một xã hội hay một giai cấp nào đó cũng như một cá nhân riêng lẻ với tư cách là phương tiện thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích của họ, đồng thời cũng là những tư tưởng và ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng. .[5]L.Dramaliev [Bungari] coi giá trị là: “một thành tố khách quan của xã hội. Nó là một loại hiện tượng xã hội đặc biệt [một vật, một đối tượng, một liên hệ, một ý niệm], thỏa mãn được những nhu cầu nhất định của con người. Giá trị là một phẩm chất khách quan, một đặc tính, một khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã trở thành rõ rệt trong quá trình quan hệ qua lại có tính chất xã hội giữa người với người trong hành vi thực tế của họ. Với tính cách là một khách thể xã hội, giá trị không thể tách rời khỏi những nhu cầu, những mong muốn, thái độ, những quan điểm và những hành động của con người với tư cách là một chủ thể của các quan hệ xã hội”. .[5] Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Giá trị là tính có nghĩa tích cực, đáng 11quý, có ích của các đối tượng với các chủ thể”. .[5]Theo Kinh tế học, khái niệm giá trị luôn gắn liền với hàng hóa, giá cả và sản xuất hàng hóa. Phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của con người làm ra hàng hóa. Giá trị sức mạnh của vật chất này khống chế những vật chất khác khi trao đổi. Để bộc lộ giá trị, vật phẩm phải có ích lợi, nghĩa là có khả năng thỏa mãn nhu cầu, lòng ham muốn của con người. Do vậy mà khi phân tích, “giá trị” là vị trí tương đối của hàng hóa trong trật tự ưu tiên, vị trí của nó ngày càng cao thì giá trị của nó ngày càng lớn.Dưới góc độ Triết học, có nhiều quan điểm khác nhau về giá trị. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi xem xét theo quan điểm Macxit, giá trị được coi là những hiện tượng xã hội đặc thù, mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của con người. Giá trị là sự thống nhất giữa cái chủ quan và cái khách quan. Nhìn chung, theo quan điểm của các nhà khoa học hay dưới góc độ của các ngành khoa học khác nhau, cũng như trong một số từ điển đã định nghĩa khái niệm giá trị đều có chung một số đặc điểm như sau:- Mức độ của một vật đáp ứng nhu cầu và thỏa mãn được khát vọng của con người, là cái được chủ thể đánh giá, thừa nhận trên cơ sở mối quan hệ với sự vật đó- Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội, với phí tổn cần thiết để tạo ra cái lợi đó.- Mang tính khách quan – nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của con người.- Được hiểu theo hai góc độ: vật chất và tinh thần. Giá trị vật chất là giá trị đo được bằng tiền bạc dưới góc độ kinh tế, còn giá trị tinh thần tạo cho con người khoái cảm, hứng thú và sảng khoái.- Mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật mang giá trị.12- Là một phạm trù lịch sử vì giá trị thay đổi theo thời gian, theo sự biến động của xã hội, phụ thuộc vào tính dân tộc, tôn giáo và cộng đồng.Hệ giá trịHệ giá trị [hay còn gọi là hệ thống giá trị] là một tổ hợp giá trị khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định, thành một tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá của con người theo những phương thức vận hành nhất định của giá trị. Các hệ giá trị có vị trí độc lập tương đối và tương tác với nhau theo những thứ bậc phù hợp với quá trình thực hiện các chức năng xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể. Do vậy, hệ thống giá trị luôn mang tính lịch sử xã hội và chịu sự chế ước bởi lịch sử - xã hội. Trong hệ thống giá trị có chứa đựng các nhân tố của quá khứ, của hiện tại và có thể cả những nhân tố trong tương lai, các giá trị truyền thống, các giá trị thời đại, các giá trị có tính nhân loại, tính dân tộc, tính cộng đồng, tính giai cấp, tính lý tưởng và tính hiện thực v.v Thí dụ, 5 điều Bác dạy thiếu niên và nhi đồng là hệ giá trị dành cho thế hệ trẻ:− Yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào− Học tập tốt, lao động tốt− Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt− Giữ gìn vệ sinh thật tốt− Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.*Thang giá trị− Thang giá trị [thước đo giá trị] là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự ưu tiên nhất định.− Thang giá trị biến đổi theo thời gian, theo sự phát triển, biến đổi của xã hội loài người, cộng đồng và từng cá nhân. Trong quá trình biến đổi đó, thang 13giá trị của xã hội, của cộng đồng và của nhóm chuyển thành thang giá trị của từng người, cứ thế qua từng giai đoạn lịch sử của con người.− Thang giá trị là một trong những động lực thôi thúc con người hoạt động. Hoạt động được tiến hành theo những thang giá trị cụ thể sẽ tạo nên những giá trị nhất định, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người. Chính trong hoạt động tạo ra những giá trị lại góp phần khẳng định, củng cố, phát huy, bổ sung, hoàn thiện hoặc hay đổi thang giá trị.− Thí dụ, thang giá trị về vai trò của người thầy: Dân tộc ta có truyền thống “tôn sư trọng đạo”. Thời phong kiến, trong bậc thang giá trị, nhà giáo xếp sau vua nhưng trước cha mẹ: “Quân – Sư – Phụ”.*Chuẩn giá trị− Chuẩn giá trị là những giá trị giữ vị trí cốt lõi, chiếm vị trí ở thứ bậc cao hoặc vị trí then chốt và mang tính chuẩn mực chung cho nhiều người. Khi xây dựng các giá trị theo những chuẩn mực nhất định về kinh tế, chính trị, giá trị sống, xã hội, hay thẩm mỹ sẽ tạo ra các chuẩn giá trị. Mọi hoạt động của xã hội, của nhóm cũng như của từng cá nhân được thực hiện theo những chuẩn giá trị nhất định sẽ bảo đảm định hướng cho các hoạt động và hạn chế khả năng lệch chuẩn mực xã hội, đồng thời tạo ra những giá trị tương ứng đảm bảo sự tồn tại của con người.Thí dụ: lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. 1.2.2. Giá trị sốngỞ phần trên khái niệm giá trị đã được bàn đến từ nhiều góc độ. Tựu trung, có 2 loại giá trị cơ bản: giá trị kinh tế và giá trị về tâm lý xã hội, trong đó giá trị kinh tế hướng tới chủ yếu thế giới vật thể, còn giá trị tâm lý xã hội hướng đến các giá trị cuộc sống, liên quan nhiều đến giá trị giá trị sống và thái độ của con người đối với cuộc sống xã hội Giá trị cuộc sống [hay giá trị sống] là những điều chúng ta cho là quý 14giá, là quan trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người. Giá trị sống trở thành động lực để người ta nỗ lực phấn đấu để có được nó. Giá trị sống mang tính cá nhân, không phải giá trị sống của mọi người đều giống nhau. Có người cho rằng "tiền bạc là trên hết". Có người cho rằng tình yêu thương mới là điều quý giá nhất trên đời. Có người coi trọng lòng trung thực, hay sự bình yên…Giá trị sống là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người. Giá trị sống về bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Giá trị sống là quy tắc sống, nó có vị trí to lớn trong đời sống, và định hướng cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Những giá trị phổ biến của giá trị sống thể hiện trong các khái niệm: thiện, ác, lẽ phải, công bằng, văn minh, lương tâm, trách nhiệm…Định hướng giá trị sống Tuy có định nghĩa cách này hay cách khác, song các khái niệm trên đều thống nhất ở các điểm sau:− Định hướng giá trị là hiện tượng tâm lý có nguồn gốc khách quan, nảy sinh trong quá trình hoạt động, tác động tích cực qua lại giữa con người và thế giới khách quan trên cơ sở nắm vững hệ thống kinh nghiệm xã hội lịch sử loài người.− Có sự phân biệt các giá trị trong ý thức và tâm lý con người, là sự xác định giá trị của cá nhân trên cơ sở đó hình thành lối sống, phong cách giao tiếp và toàn bộ hành vi cá nhân. Chính vì vậy việc xác định thang giá trị và thực hiện các hành vi trên cơ sở lựa chọn các giá trị đó chính là định hướng giá trị của cá nhân.− Định hướng giá trị như là xu hướng nhân cách hướng tới giá trị nào đó, là cơ sở điều chỉnh hành vi con người và là thành phần trong cấu trúc nhân 15cách.Các giá trị của con người rất phong phú và đa dạng mà con người lại sống trong môi trường xã hội, tham gia vào các hoạt động đa dạng, do vậy việc phân loại định hướng giá trị cũng rất phức tạp, song có thể chấp nhận một số cơ sở phân loại phổ biến như sau:Nếu căn cứ vào ý nghĩa xã hội hay cá nhân của những mục đích mà con người hướng tới, thì có 2 loại:− Định hướng giá trị xã hội: là thái độ, sự lựa chọn các giá trị của cá nhân trong quan hệ với xã hội như lòng thương người, chấp hành luật pháp, lịch sự nơi công cộng, biết ơn thế hệ trước − Định hướng giá trị cá nhân: là thái độ, là sự lựa chọn các giá trị trong mối quan hệ với bản thân như lòng trung thực, sự khiêm tốn, vị tha, yêu cầu cao, chấp nhận thử thách Nếu căn cứ vào đối tượng của sự định hướng giá trị ta có:− Định hướng giá trị vật chất: là thái độ, sự lựa chọn các giá trị của cá nhân hướng tới các giá trị vật chất như tiền bạc, của cải, cách làm giàu − Định hướng giá trị tinh thần: là thái độ, sự lựa chọn các giá trị của cá nhân hướng tới các giá trị tinh thần như sự thanh thản, tình yêu nghệ thuật, yêu thương con người Căn cứ vào ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của những giá trị mà con người đang theo đuổi ta có:− Định hướng giá trị tích cực: thái độ, sự lựa chọn các giá trị của cá nhân hướng tới các giá trị tích cực như trung thực, thẳng thắn, giúp đỡ, thương người, tự hào dân tộc − Định hướng giá trị tiêu cực: thái độ, sự lựa chọn các giá trị của cá nhân hướng tới các giá trị tiêu cực như dối trá, hèn nhát, ích kỷ Vai trò của định hướng giá trị sống16 Định hướng giá trị giúp con người lập chương trình cho hành động của mình trong một thời gian dài, quy định đường lối chiến lược cho hành vi, đồng thời định hướng giá trị có thể quy định trực tiếp hành vi thậm chí từng thao tác, động tác của con người. Định hướng giá trị là nhân tố trung tâm chi phối mọi suy nghĩ, điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người, từ đó hướng hoạt động tới mục đích cơ bản của cuộc đời. 1.2.3. Giáo dục giá trị sống cho HS lớp 5.Giáo dục giá trị sống: giáo dục GTS cho học sinh là quá trình giúp học sinh tiếp thu, lĩnh hội được những giá trị phổ quát của xã hội, biến thành những giá trị đặc trưng của bản thân mỗi học sinh, giúp cho các em có suy nghĩ, thái độ và hành động tích cực, hiệu quả, phù hợp với bản thân và đáp ứng mong đợi của cộng đồng, xã hội. Mục tiêu giáo dục giá trị sống là một quá trình tổ chức tác động có chủ định của các lực lượng giáo dục, trong đó giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo để tạo ra sự thống nhất tác động giáo dục, tận dụng những yếu tố tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực tới học sinh nhằm phát huy tính tích cực tự giác rèn luyện, tạo ra động cơ, thái độ đúng đắn trong cuộc sống, học tập và hoạt động xã hội, để học sinh sống tốt đẹp hơn, làm việc chất lượng hơn, hiệu quả hơn, đem lại lợi ích trước hết cho học sinh đồng thời cho gia đình, nhà trường và xã hội. Đối với học sinh TH, nhất là học sinh lớp 5, nội dung giáo dục giá trị sống cần hệ thống hoá những giá trị sống phổ quát, nhưng mở rộng và nâng nội dung lên một tầm cao đáp ứng yêu cầu của cuộc sống đương đại. Hướng các em vươn tới nhân cách lý tưởng mang những giá trị phổ quát của một học sinh thời đại, không chỉ của dân tộc mà còn của nhân loại trong một thế giới mở.17 1.3. Một số vấn đề về giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 5 1.3.1.Mục tiêu giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 5 . GDGTS cho học sinh TH có mục tiêu:Thu hút trẻ vào các hoạt động giáo dục giá trị, làm trẻ thấy thú vị và có cảm xúc với các hooạt động này.Làm cho trẻ nhận biết các giá trị phổ quát cơ bản như giá trị của riêng mình [12 giá trị].Giúp trẻ được trải nghiệm với một số giá trị và biết cách giảm căng thẳng.Nâng cao hiểu biết về hành động hoà bình, hành vi yêu thương trung thực, hợp tác trên cơ sở các giá trị sống.Nâng cao lòng tự trọng và củng cố niềm tin rằng "Tôi tạo nên sự khác biệt.Giúp trẻ biết lựa chọn tích cực hành vi và thái độ thông qua việc loại bỏ những hành vi và cảm xúc tiêu cực.Giúp người học hiểu về các quyền cá nhân, biết tôn trọng.Nâng cao việc nói chuyện tích cực với bản thân, các hành vi đạt mục đích và trách nhiệm với bản thân.Giúp nguời học thể hiện suy nghĩ và tình cảm về các giá trị dưới hình thức nghệ thuật.Giúp xây dựng các hành vi xã hội tích cực ở trẻ.Phát triển các kỹ năng xã hội tích cực giữa trẻ với trẻ trên cơ sở của các giá trị.Phát triển ý thức môi trường và trách nhiệm sinh thái. 1.3.2. T ầm quan trọng của giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 5 Theo nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ Benjamin Bloom: “Nếu đến 17 tuổi trí tuệ của một con người có thể phát triển 100% thì vào năm 184 tuổi, trí tuệ của anh ta đã phát triển tới 50%, đến năm 8 tuổi phát triển tới 80%, trong 9 năm từ 9 đến 17 tuổi chỉ phát triển thêm 20%”[8] cho nên học giá trị sống từ lứa tuổi Tiểu học là rất cần thiết.Giáo dục giá trị sống giúp các em khám phá và hoàn thiện những phẩm chất tốt đẹp vốn có của bản thân, đồng thời khám phá những nét đẹp trong tính cách của những người xung quanh và giá trị của thiên nhiên, của môi trường sống; Học tập giá trị sống giúp các em biết suy nghĩ tích cực, biết lắng nghe, học hỏi, tự xây dựng cho mình một nền tảng vững chắc về nhân cách để các em có thể vươn lên trong cuộc sống, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn, trắc trở.Giáo dục giá trị sống để các em biết tôn trọng bản thân và người khác, biết cách hợp tác, xây dựng và duy trì tình đoàn kết, thích ứng trước những đổi thay của cuộc sống.Giáo dục giá trị sống để khi trưởng thành, các em biết chia sẻ, chung lo và là người để “trẻ noi gương, già nương tựa, bằng hữu kết giao”.Giáo dục giá trị sống làm nền tảng cho Kỹ năng sống, để các em biết cách sử dụng những kỹ năng sống mang lại lợi ích cho bản thân trong sự hài hoà với lợi ích của gia đình và xã hội. 1.3.3.Nội dung giáo dục giá trị sống cho học sin h lớp 5 . Theo Tổ chức Giáo dục giá trị quốc tế, có 12 giá trị sống cần giáo dục cho HS. Các giá trị này được phổ biến rộng rãi, có nhiều dự án tổ chức giảng dạy ở nhiều nước. Cụ thể:Giá trị Hòa bình Hòa bình không đơn giản chỉ là không có chiến tranh. Hòa bình là khi chúng ta đang sống hòa thuận và không có sự đấu đá lẫn nhau. Nếu mỗi người trong thế giới được yên ổn, đó sẽ là một thế giới hòa bình.19Giá trị Tôn trọng Tôn trọng trước hết là tự trọng – là biết rằng tự bản chất tôi có giá trị. Một phần của tự trọng là nhận biết những phẩm chất của chính tôi. Tôn trọng là lắng nghe người khác. Tôn trọng là biết người khác cũng có giá trị như tôi. Tôn trọng chính bản thân là nguyên nhân làm tăng trưởng về sự tin cậy lẫn nhau.Giá trị Yêu thương Yêu người khác nghĩa là bạn muốn điều tốt cho họ. Yêu là biết lắng nghe; yêu là chia sẻ. Albert Enstein nói: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải một cách tự do nơi chính bản thân nhân rộng ra xung quanh ta lòng trắc ẩn bao trùm tất cả cuộc sống của con người và thiên nhiên.”Giá trị Khoan dung Khoan dung là tôn trọng qua sự hiểu biết lẫn nhau. Hòa bình là mục tiêu, khoan dung là phương pháp. Có khoan dung là bạn trở nên cởi mở và chấp nhận sự khác biệt với những vẻ đẹp của nó.Giá trị Trung thực Trung thực là nói sự thật. Khi trung thực tôi cảm thấy tâm hồn trong sáng và nhẹ nhàng. Một người trung thực và chân chính thì xứng đáng được tin cậy.Giá trị Khiêm tốn Khiêm tốn là ăn ở, nói năng, làm việc một cách nhẹ nhàng, đơn giản và có hiệu quả. Khiêm tốn gắn liền với tự trọng. Khiêm tốn là khi bạn nhận biết khả năng, uy thế của mình, nhưng không khoác lác, khoe khoang. Khi bạn khiêm tốn, tính kiêu ngạo phải trốn xa.Giá trị Hợp tác Hợp tác là khi mọi người biết làm việc chung với nhau và cùng hướng về một mục tiêu chung. Một người biết hợp tác thì có những lời lẽ tốt đẹp và cảm giác trong sáng về người khác cũng như đối với nhiệm vụ.20Giá trị Hạnh phúc Hạnh phúc là trạng thái bình an của tâm hồn khiến con người không có những thay đổi đột ngột hay bạo lực. Khi trao hạnh phúc thì nhận được hạnh phúc. Khi bạn hy vọng, đó là lúc hạnh phúc. Khi tôi yêu thương sự bình an nội tâm và hạnh phúc chợt đến ngay.Giá trị Trách nhiệm Trách nhiệm là việc bạn góp phần của mình vào công việc chung. Trách nhiệm là đang thực hiện nhiệm vụ với lòng trung thực.Giá trị Giản dị Giản dị là sống một cách tự nhiên, không giả tạo. Giản dị là chấp nhận hiện tại và không làm mọi điều trở nên phức tạp. Giản dị là hiểu rõ giá trị của những vật chất dù nhỏ bé nhất trong cuộc sống.Giá trị Tự doTất cả mọi người đều có quyền tự do. Trong sự tự do ấy, mỗi người có bổn phận tôn trọng quyền lợi của những người khác. Tự do là một món quà quý giá. Chỉ có thể tự do thật sự khi các quyền lợi quân bình với những trách nhiệm. Có tự do thực sự khi mọi người có được quyền bình đẳng Giá trị Đoàn kếtĐoàn kết là sự hòa thuận ở trong và ở giữa các cá nhân trong một nhóm, một tập thể. Đoàn kết được tồn tại nhờ sự chấp nhận và hiểu rõ giá trị của mỗi người, cũng như biết đánh giá đúng sự đóng góp của họ đối với tập thể. 1.3.4. Phương pháp, hình thức giáo dục giá trị sống cho học sinh lớp 5 . Tạo bầu không khí dựa trên nền tảng các giá trịXây dựng một bầu không khí có sự thấu hiểu lẫn nhau để tất cả mọi người đều cảm nhận được tình yêu thương, sự tôn trọng và an toàn.

Video liên quan

Chủ Đề