Cảnh vật trong truyện Hai đứa trẻ đã được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào

Cảnh vật trong truyện Hai đứa trẻ được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào

Trang trước Trang sau

Câu hỏi: Cảnh vật trong truyện “Hai đứa trẻ” được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào?

Trả lời:

Quảng cáo

Không gian trong tác phẩm là khung cảnh nơi một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám: vào buổi tan chợ, những tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một đã vang lên để gọi buổi chiều, nó hiện lên trong một không gian ở phố huyện… Đây là một không gian thực.

Ngoài ra, trong truyện còn đề cập đến không gian hồi tưởng của chị em Liên – đó là không gian cuộc sống gia đình Liên và An còn ở Hà Nội; và không gian mở tưởng – nơi Hà Nội xa xăm, tấp nập, sáng rực, huyên náo và hạnh phúc.

Thời gian là một biểu chiều tàn, có tiếng trống thu không, ếch nhái kêu ran ngoài đồng; ở chợ mọi người đang chuẩn bị ra về sau buổi buôn bán. Tiếp theo đó là bóng tối của màn đêm bao phủ “một đêm tối tịch mịch”.

Cảnh vật lúc chiều tàn thật xác xơ, trên mặt đắt vương vãi những rác rải, lũ trẻ nhanh chóng nhặt nhạnh, bòn mót. Một không gian gợi cảm giác u buồn cho người đọc.

Quảng cáo

Xem thêm các câu hỏi về các tác phẩm Ngữ văn lớp 11 chọn lọc, có đáp án chi tiết hay khác:

Trang trước Trang sau

Cảnh vật trong truyện đã được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào?

Cảnh vật trong truyện “Hai đứa trẻ” được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào?

❮ Bài trước Bài sau ❯

Cảnh vật trong truyện “Hai đứa trẻ” được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào?

Bạn đang xem: Cảnh vật trong truyện “Hai đứa trẻ” được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào? Tại myphamthucuc.vn

Soạn bài Hai đứa trẻ

1.Cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào?


2.Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống và hình ảnh của những người dân sống nơi phố huyện ra sao?


3.Phân tích tâm trạng của hai chị em Liên và An trước khung cảnh và bức tranh đời sống nơi phố huyện:


4.Hình ảnh đoàn tàu trong truyện đã được miêu tả như thế nào? Vì sao chị em Liên và An cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện?


5.Anh [chị] có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam?


6.Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam muốn phát biểu tư tưởng gì?

Lời giải:
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Thạch Lam là cây bút truyện ngắn xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 -1945. Nhà văn nỏi tiếng của nhóm Tự LựcVăn Đoàn
- Ông là nhà văn đôn hậu và rất đỗi tinh tế. Ông thường viết những truyện không có cốt truyện hoặc cốt truyện đơn giản, mỗi truyện như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của nhà văn trước những biến thái của cảnh vật và lòng người.
- Tác phẩm tiêu biểu: tập truyện Gió lạnh đầu mùa, Nắng trong vườn, Ngày mới, Theo giòng, Sợi tóc, Hà Nội băm sáu phố phường…
- Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chương: "Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn".
- Ở tư cách nhà văn, Thạch Lam đòi hỏi rất cao phẩm chất trung thực của người nghệ sĩ. Ông viết: "Sự thành thực chưa đủ cho nghệ thuật. Có thể, nhưng một nhà văn không thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị. Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay thôi".
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: nhà văn đã có những ngày tháng sống tại phố huyện Cẩm Giàng, vốn là người nhạy cảm nhà văn nhận thấy đông cảm và thương xót với cuộc sống của người dân nơi đây và đã sáng tác nên truyện ngắn này
b. Xuất xứ: truyện ngắn được in trong tập Nắng trong vườn [1938]
c. Bố cục: 3 phần:
– Phần 1: từ đầu đến “cười khanh khách”: cảnh phố huyện lúc chiều xuống
– Phần 2: tiếp đến cảm giác mơ hồ không hiểu nổi: cảnh phố huyện về đêm
– Phần 3: còn lại: cảnh chuyền tàu đêm đi qua phố huyện
II. Hướng dẫn học bài
Câu 1: cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào?
Trả lời:
- Cảnh nghèo đói, tù túng, quẩn quanh nơi phố huyện được miêu tả trong không gian và thời gian:
- Không gian: nơi phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Đây là một không gian thực. Ngoài ra, trong truyện còn đề cập đến không gian hồi tưởng của chị em Liên – đó là không gian cuộc sống gia đình Liên và An còn ở Hà Nội; và không gian mở tưởng – nơi Hà Nội xa xăm, tấp nập, sáng rực, huyên náo và hạnh phúc.
- Thời gian: kéo dài từ chiều đến tối, khi chuyến tàu đêm đi qua. Đó là một biểu chiều tàn, có tiếng trống thu không, ếch nhái kêu ran ngoài đồng; ở chợ mọi người đang chuẩn bị ra về sau buổi buôn bán. Tiếp theo đó là bóng tối của màn đêm bao phủ "một đêm tối tịch mịch".
Câu 2: Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống và hình ảnh của những người dân sống nơi phố huyện ra sao?
Trả lời:
- Cuộc sống của phố huyện vào buổi chiều thật tẻ nhạt, lặp đi lặp lại. Đó là cuộc sống nghèo đói, buồn tẻ, quẩn quanh, bế tắc…Lúc này con người xuất hiện chỉ là điểm tô thêm cho cuộc sống ở nơi đây, những người còn lại duy nhất lúc này là những người đang bươn trải kiếm sống những người bán hàng về muộn, họ đang thu xếp hàng hóa và tranh thủ nói với nhau dăm ba câu chuyện để tiếp tục những câu truyện đang dở.
- Con người: những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác Siêu, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên, chị em Liên. => Nhếc nhác, lam lũ, mỏi mòn, héo hắt. Mong đợi gì tươi sáng hơn cho cuộc sống hiện tại. Ví dụ: hình ảnh những đứa trẻ em nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom đi tìm tòi nhặt nhạnh, còn những hình ảnh của những người ngày cắm mặt với đất bán lưng cho trời.
=> Tác giả đã vẽ ra một bức tranh có cuộc sống và hình ảnh con người hiện lên thật sinh động đây là những con người đang phải bươn trải và lo cho cuộc sống của mình.
Câu 3: Phân tích tâm trạng của hai chị em Liên và An trước khung cảnh và bức tranh đời sống nơi phố huyện:
Trả lời:
- Trước bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện, Liên cảm thấy “buồn man mác”, cảm nhận được cái "mùi ẩm mốc bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc "là" cái mùi riêng của đất, của quê hương này". Hòa hợp, gần gũi với thiên nhiên và dường như có cả sự giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên phố huyện "tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu".
- Ttước bức tranh đời sống nơi phố huyện, tâm trạng Liên: “động lòng thương” với những kiếp người nhỏ nhoi, sống lay lắt trong bóng tối cơ cực, đói nghèo mà kì thực chính cuộc sống của chúng cũng buồn tẻ và vô vị như thế. Liên và An chắc cũng mơ màng nhận ra điều ấy, phải chăng chính vì thế mà đêm nào hai chị em cũng cố thức để đợi chuyến tàu muộn của đêm.
Câu 4: Hình ảnh đoàn tàu trong truyện đã được miêu tả như thế nào? Vì sao chị em Liên và An cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện?
Trả lời:
- Đoàn tàu trong truyện là một hình ảnh đặc sắc, thể hiện một chút niềm tin, hy vọng tươi sáng cho cuộc sống của người dân nơi phố chợ. Đoàn tàu được miêu tả với những hình ảnh chân thật, khi tàu đi qua cảnh phố huyện như tươi sáng hơn, nhộn nhịp hơn. Hai đứa trẻ khắc khoải chờ đợi từng bước đi của thời gian, từng bước xích lại gần của chuyến tàu: tàu sắp đến, tàu vụt qua, tàu đi rồi chỉ còn chấm đèn ghi nhỏ xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
- Con tàu đến rồi lại đi nhanh để lại trong hai đứa trẻ nỗi buồn nhớ tiếc. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ.
- Đặc biệt, hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này.
Câu 5: Anh [chị] có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam?
Trả lời:
- Đây là một truyện ngắn miêu tả rất tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật [nhất là nhân vật Liên].
- Giọng văn nhẹ nhàng, điềm tĩnh, khách quan; lời văn bình bị nhưng luôn ẩn hiện một tình cảm xót thương đối với những con người nghèo khổ, phải sống quanh quẩn, lam lũ, tối tăm. Giọng văn góp phần tích cực vào việc tạo nên một truyện ngắn giàu sắc thái trữ tình và đậm chất thơ.
Câu 6: Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam muốn phát biểu tư tưởng gì?
Trả lời
- Qua truyện ngắn tác giả muốn để lại niềm xót thương với những cảnh đời nghèo khổ, quanh quẩn một cuộc sống cơ cực ở nơi phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám. Đồng thời, ông cũng biểu hiện niềm ao ước về một cuộc sống sẽ thay đổi cho nơi đây.
III. Luyện tập
Câu 1: Anh [chị] có ấn tượng sâu sắc nhất với nhân vật nào, chi tiết nghệ thuật nào trong truyện ngắn Hai đứa trẻ? Vì sao?
Trả lời:
Chi tiết nghệ thuật ấn tượng trong truyện ngắn Hai đứa trẻ: bóng tối và ánh sáng. Hai chi tiết đối lập, mang ý nghĩa biểu tượng cao.
- Bóng tối đậm đặc, bao phủ mọi ngõ ngách: buổi chiều, trời nhá nhem tối, trời tối hẳn, đoàn tàu đi
- Ý nghĩa: nhấn mạnh những gì tăm tối, tù túng, tẻ nhạt của phố huyện nghèo, con người phải sống trong quẩn quanh, bế tắc. Những con người bé nhỏ, tội nghiệp ấy là hình ảnh của nông dân ta trước cách mạng tháng Tám.
- Ánh sáng ít ỏi, len lỏi vào bóng tối: bầu trời, đèn các nhà, sao, lửa, đom đóm…
- Ý nghĩa: ước mơ, hi vọng của con người dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất
Câu 2: Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam thể hiện qua truyện ngắn Hai đứa trẻ:
Trả lời:
- Những trang viết vừa đậm đà yếu tố hiện thực, vừa phảng phất chất lãng mạn, thơ ca.
- Tiêu biểu cho loại truyện tâm tình của Thạch Lam [cái tình người chân chất, nhẹ nhàng, thấm sâu khắp truyện, tập trung tới thế giới nội tâm nhân vật, lối kể chuyện thủ thỉ như tâm sự với người đọc].
Giải các bài tập Tuần 10 SGK Ngữ văn 11 Hai đứa trẻ [Thạch Lam] Ngữ cảnh
Bài trước Bài sau

Soạn bài Hai đứa trẻ [chi tiết]

Video hướng dẫn giải

Câu 1

Video hướng dẫn giải

Câu 1 [trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào?

Lời giải chi tiết:

- Không gian trong tác phẩm là khung cảnh nơi một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám với những chi tiết thơ mộng, chứa chan tình cảm ["một buổi chiều êm ả như ru"]. Đây là một không gian thực. Ngoài ra, trong truyện còn đề cập đến không gian hồi tưởng của chị em Liên – đó là không gian cuộc sống gia đình Liên và An còn ở Hà Nội; và không gian mở tưởng – nơi Hà Nội xa xăm, tấp nập, sáng rực, huyên náo và hạnh phúc.

- Thời gian là một buổi chiều tàn, có "tiếng trống thu không", ếch nhái kêu ran ngoài đồng; ở chợ mọi người đang chuẩn bị ra về sau buổi buôn bán. Tiếp theo đó là bóng tối của màn đêm bao phủ "một đêm tối tịch mịch".

- Cảnh vật xơ xác, vương vãi trên đất những thức rác rưởi, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn… lũ trẻ thì tranh nhau nhặt nhạnh, bòn mót.

Câu 2

Video hướng dẫn giải

Câu 2 [trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Thạch Lam miêu tả cuộc sống và hình ảnh những người dân phố huyện ra sao?

Lời giải chi tiết:

- Cuộc sống của phố huyện vào buổi chiều thật tẻ nhạt, khi chợ vãn lúc này chỉ còn rác và hình ảnh hai chị em Liên và An, những hình ảnh đèn thắp sáng nhỏ trong quán của Liên thấp thoáng hiện lên.

- Lúc này con người xuất hiện chỉ là điểm tô thêm cho cuộc sống ở nơi đây, những người còn lại duy nhất lúc này là những người đang bươn trải kiếm sống những người bán hàng về muộn, họ đang thu xếp hàng hóa và tranh thủ nói với nhau dăm ba câu chuyện để tiếp tục những câu chuyện dang dở.

+ Chị Tí mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước dưới gốc bàng; dọn hàng từ chập tối cho đến đêm “chả kiếm được bao nhiêu?”. Thằng cu bé con chị Tí - xách điếu đóm và khiêng 2 cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra trông thật tội nghiệp.

+ Bà cụ Thi hơi điên, cười khanh khách, ngửa cổ rađằngsau, uống một hơi cạn sạch cút rượu, lảo đảo lần vào bóng tối.

+ Vợ chồng bác xẩm “tiếng đàn bầu bần bật”, thằng con bò ra đất…

+ Bác phở Siêu gánh hành đi trong đêm, tiếng đòn gánh kĩu kịt, bóng bác mênh mang,… Phở của bác là món quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được.

=>Con người phố huyện âm thầm, lạnh lẽo. “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Cách viết nhẹ nhàng, đầy xót thương, thấm một nỗi buồn thấm thía. Đó là tình cảm nhân đạo của Thạch Lam.

Câu 3

Video hướng dẫn giải

Câu 3 [trang 101 SGK ngữ văn 11 tập 1]

Phân tích tâm trạng Liên, An trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống phố huyện.

Lời giải chi tiết:

- Ngồi trước cửa hàng, chị em Liên cảm nhận về buổi chiều quê bằng những cảm giác rất riêng, vừa buồn, vừa gắn bó.

+ Có lẽ chính bởi thế mà Liên mới cảm thấy cái "mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng cúa ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc" là "cái mùi riêng của đất, của quê hương này".

+ Hoà hợp, gần gũi với thiên nhiên, hai đứa trẻ đã phát hiện ra bao biến thái tinh vi của nó: "An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao đế tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông". Tâm hồn của chúng dường như có sự giao cảm, giao hoà với cây cỏ quê hương: "Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoáng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu".

- An và Liên lặng lẽ quan sát những gì đang diễn ra ở phố huyện với một cảm giác buồn mênh mang. Chúng xót xa, cảm thông chia sẻ với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối cơ cực, đói nghèo mà kì thực chính cuộc sống của chúng cũng buồn tẻ và vô vị như thế. Liên và An chắc cũng mơ màng nhận ra điều ấy, phải chăng chính vì thế mà đêm nào hai chị em cũng cố thức để đợi chuyến tàu muộn của đêm.

Câu 4

Video hướng dẫn giải

Câu 4 [trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Hình ảnh đoàn tàu trong truyện đã được miêu tả như thế nào? Vì sao chị em Liên và An cố thức để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện?

Lời giải chi tiết:

- Nhà văn đã miêu tả rất chi tiết hình ảnh đoàn tàu đêm đi qua phố huyện. Bắt đầu từ xa, khi xuất hiện ánh đèn ghi phía xa xa rồi đến âm thanh “tiếng còi” vọng lại… rồi con tàu vụt qua trong giây lát, chấm nhỏ của chiếc đèn xanh rồi đêm tối lại bao bọc xung quanh. Cách miêu tả này đã diễn tả được tâm trạng chờ đợi chuyến tàu của chị em Liên và những người dân nơi đây. Liên và An háo hức chờ đợi chuyến tàu để được sống lại những ngày quá khứ tươi đẹp và cũng là để thoát khỏi trong giây lát cuộc sống đơn điệu đến đáng sợ. Chuyến tàu là cứu cánh tinh thần cho những con người nơi đây.

- Hai chị em cố gắng đợi tàu vì:

+ Đợi tàu là đợi ánh sáng con tàu từ Hà Nội về mang theo.

+ Con tàu gợi nhớ kỷ niệm tuổi thơ: ngày bố còn đi làm, mẹ nhiều tiền được hưởng những thức quà ngon lạ, được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.

+ Đợi tàu là đợi những mơ tưởng. Với Liên, trong ký ức và hiện tại “Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo".

+ Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Thế giới ấy khác hẳn đối với cuộc đời của Liên, của dân nghèo phố huyện, khắc hẳn vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.

Câu 5

Video hướng dẫn giải

Câu 5 [trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Anh chị có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam?

Lời giải chi tiết:

- Đây là một truyện ngắn miêu tả rất tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật [nhất là nhân vật Liên]. Cách miêu tả này góp phần quan trọng vào việc tạo nên không khí cho tác phẩm.

- Giọng văn nhẹ nhàng, điềm tĩnh, khách quan; lời văn bình dị nhưng luôn ẩn hiện một tình cảm xót thương đối với những con người nghèo khổ, phải sống quanh quẩn, lam lũ, tối tăm. Giọng văn góp phần tích cực vào việc tạo nên một truyện ngắn giàu sắc thái trữ tình và đậm chất thơ.

- Truyện ngắn giàu sắc thái trữ tình và đậm chất thơ

Câu 6

Video hướng dẫn giải

Câu 6 [trang 101 SGK ngữ văn 11 tập 1]

Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam muốn phát biểu tư tưởng gì?

Lời giải chi tiết:

- Qua bức tranh hiện thực phố huyện nghèo nhà văn thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với con người vô danh. Cuộc sống nghèo không đáng sợ bằng cuộc sống đơn điệu và tẻ nhạt, không ước mơ. Những con người nghèo khó nơi phố huyện ấy dù nhọc nhằn đến đâu cũng vẫn ước mơ và hy vọng. Họ vẫn dọn hàng, vẫn chờ khách dù biết bán hàng chẳng được bao nhiêu. Và họ đợi chuyến tàu với biết bao nhiêu hy vọng.

- Qua việc tả cảnh kiên trì hàng đêm chờ tàu qua rồi mới dọn hàng, mới đi ngủ của những con người ấy, nhà văn muốn thể hiện một tư tưởng nhân văn. Đó là khẳng định sự bất diệt của khát vọng, ước mơ. Cuộc sống dù nghèo khổ, tăm tối và bế tắc đến đâu cũng không thể dập tắt được hy vọng và khát vọng của con người. Tác phẩm đã thể hiện tình thương yêu vô bờ và sự trân trọng của nhà văn đối với những thân phận nhỏ bé trong xã hội

Luyện tập

Câu 1 [trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Anh chị có ấn tượng sâu sắc nhất với nhân vật nào vơi chi tiết nghệ thuật nào trong truyện Hai đứa trẻ? Vì sao

Trả lời:

Truyện có nhiều nhân vật và chi tiết gợi ấn tượng sâu sắc. Có thể chọn:

- Một trong các nhân vật: chị Tí, Liên, An, bác Siêu, bà cụ Thi,...

- Một trong các chi tiết: đoàn tàu, bóng tối và ánh sáng, âm thanh, hình ảnh Hà Nội xa xăm trong tưởng tượng của Liên,...

Điều quan trọng là đưa ra được những lý giải hợp lý. Lý giải cần gắn với chủ đề tư tướng của truyện.

Câu 2 [trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Hãy nêu những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Thạch Lam qua truyện Hai đứa trẻ.

Trả lời:

Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam, điều đó thể hiện ở:

- Những trang viết vừa đậm đà yếu tố hiện thực vừa phảng phất chất lãng mạn, chất thơ.

- Đặc biệt, truyện tiêu biểu cho loại truyện tâm tình của Thạch Lam [cái tình người chân chất nhẹ nhàng thấm sâu khắp thiên truyện; tập trung chú ý tới thế giới nội tâm của nhân vật,lối kể chuyện thú thỉ như tâm sự với người đọc].

Bố cục

Video hướng dẫn giải

Bố cục: 3 phần

- Phần 1[từ đầu đến “nhỏ dần về phía làng”]: Cảnh phố huyện lúc chiều tàn

- Phần 2[tiếp theo đến “có những cảm giác mơ hồ không hiểu]: Cuộc sống phố huyện khi đêm đến

- Phần 3[đoạn còn lại]: Cảnh đoàn tàu chạy qua phố huyện

ND chính

Video hướng dẫn giải

- Cuộc sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám

- Niềm cảm thông, thương xót, trân trọng của Thạch Lam đối với những kiếp người nghèo khổ

Loigiaihay.com

KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG CÁC TRUYỆN NGẮN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [161.45 KB, 15 trang ]

HAI ĐỨA TRẺ
* KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT:

KHÔNG GIAN cụ thể trong tác phẩm là làng quê nông thôn, phố huyện nghèo nàn
xơ xác, tối tâm “ Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang
ra để gọi buổi chiều”, “Trời đã bắt đầu đêm, môt đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua
gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.
KHÔNG GIAN đó được nhìn dưới con mắt của Liên - Chị của An. Với cái nhìn của
người trong cuộc làm cho bức tranh của phố huyện nghèo hiện lên càng chân thật hơn, bộc
lộ được chiều sâu tâm trạng của nhân vật hơn, giúp cho người đọc càng thấm thía hơn với
cuộc sống ở làng quê tiêu điều xơ xác và qua đó bộc lộ được những khát vọng về một
tương lai tươi sáng hơn của những đứa trẻ - tương lai còn đó với biết bao hi vọng và tươi
đẹp.
Tính chất của KHÔNG GIAN đó là hẹp, tĩnh lặng mặc dù còn đó những sự sống.
KHÔNG GIAN nghệ thuật còn là hình tượng con tàu, ánh sáng con tàu. Con tàu trong tác
phẩm mang một ý nghĩa biểu tượng đối với nhân vật Liên. Đối với những đứa trẻ khác
cùng những con người trong khu phố nghèo, họ mong con tàu đến để có thể bán được một
ít hàng, hay để nhìn thấy được ánh sáng của ngọn đèn điện. Còn đối với Liên, con tàu và
ánh sáng của nó mang lai một thế giới khác hẳn nó như ngôi sao băng vút qua bầu trời,
sáng cả KHÔNG GIAN và tâm hồn con người. Ánh sáng cháy rực trong tiềm thức Liên,
đó là ánh sáng của ước mơ, là quá khứ tốt đẹp của Liên “mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà
bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”, con tàu đi qua làm liên sống lại những ngày
tháng sống hạnh phúc với gia đình ở Hà Nội, Liên nhớ về tuổi thơ vui vẻ, hạnh phúc như
bao đứa trẻ khác mỗi lần được nhìn thấy con tàu mang ánh sáng, mang cuộc sống từ Hà
Nội về “ Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chị được hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ
Liên nhiều tiền - được đi chơi Bờ Hồ,…”.
Truyện được tạo dựng chủ yếu xuất phát từ điểm nhìn về mình của nhà văn, do vậy
KHÔNG GIAN nghệ thuật trong truyện ngắn của ông cũng tuân theo điểm nhìn chủ
quan, với những ẩn ức trong bản thân.Vì vậy, KHÔNG GIAN nghệ thuật xuất hiện trong
các truyện là KHÔNG GIAN tâm tưởng, với chiều sâu dồn nén tâm lí. Để tạo lập
KHÔNG GIAN tâm tưởng, Thạch Lam chú trọng vào các tình thế trọng yếu gợi khoảng


lặng nội tâm nhân vật, tạo nên những co giãn KHÔNG GIAN giữa hai chiều: KHÔNG
GIAN thực[ Cái gợi ký ức] vào KHÔNG GIAN chiều sâu tâm lý [ những giấc mơ: Giấc
mơ thức và giấc mơ ngủ] tạo nên sự day dứt giữa hiện thực và tâm trạng con người.
KHÔNG GIAN về một Hà Nội tráng lệ trong Hai đứa trẻ vẫn gợi lại những ẩn ức đứt


quãng, chỉ còn là những hình ảnh mơ hồ chồng lớp hiện về trong tưởng tượng [ giấc mơ
thức]: Một “ Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” được gửi về phố huyện
trên con tàu đêm, để rồi khi con tàu đi qua KHÔNG GIAN hiện thực trở lại với những
cảm nhận mơ hồ nửa tỉnh nửa mê [ sự dai dẳng của Hà nội] trong hiện tại: “ An và Liên
lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần
Nông. Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ đầy bí mật, xa lạ và làm mỏi trí
nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi về mặt đất, về quãng sáng thân mật chung quanh
ngọn đèn lay động trên chõng hàng chị Tý”.
Với việc xây dựng một KHÔNG GIAN như vậy là nhà văn đã đưa lại cho chúng ta
những ký ức về một KHÔNG GIAN tươi sáng nơi Hà Thành đã ám ảnh, lùi sâu vào vô
thức bọn trẻ, khiến đôi mắt buồn trũng muốn yên giấc nhưng vẫn không sao dập tắt cái
khao khát được chứng kiến con tàu đêm của An. Bởi lẽ chỉ có chứng kiến con tàu đêm, với
ánh sáng điện mới khỏa lấp những mong muốn đang trỗi dậy trong sâu thẳm tâm trí An và
nó đòi hỏi phải được giải tỏa. Vì vậy mặc dù rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mơ nhưng An
vẫn cố mở to đôi mắt trước khi chìm sâu vào vô thức của giấc mộng mà với dặn Liên: “
Tàu đến chị đánh thức em dạy nhé”. KHÔNG GIAN tâm tưởng trong truyện được Thạch
Lam đặt cạnh KHÔNG GIAN thực tại, gợi cảm giác hoài cổ về một nơi trong dĩ vãng .
Ngoài ra trong tác phẩm có một KHÔNG GIAN đặc biệt nữa xuất hiện nữa là KHÔNG
GIAN bóng tối, KHÔNG GIAN bóng tối có một giá trị rất lớn trong việc tạo ấn tượng cho
người đọc. Hình ảnh cuộc sống và con người cứ chìm dần, khuất hẳn trong bóng tối. Nó
gợi sự xót xa và thương cảm của người đọc dành cho những con người, những cuộc đời,
những KHÔNG GIAN như thế. Bóng tối càng dày đặc, cảnh sống của con người càng thê
lương theo cấp số cộng của cảnh đó thì lòng nhân đạo của nhà văn nhìn từ cảnh và người
ấy cũng theo cấp số nhân mà phát triển lên. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng ta cũng bắt gặp

KHÔNG GIAN của ánh sáng. Bảy lần nhà văn nhắc đến ánh sáng của các ngọn đèn “ Các
nhà đã lên đèn cả rồi, đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu,
và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách.” Nhưng ở đây không phải là ánh sáng xua tan đi
bóng tối, mà đó là ánh sáng lẻ loi, đơn độc. Ánh sáng xuất hiện với mục đích là để làm nền
cho bóng tối, làm cho bóng tối xuất hiện càng dày đặc hơn, bao trùm cả đất trời. Điều này
càng giúp
cho người đọc hình dung, cảm nhận được số phận đáng thương của người dân trong phố
nghèo khổ, bế tắc, không có tương lai., càng giúp ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà
văn đối với cuộc sống bất hạnh của con người.
* THỜI GIAN NGHỆ THUẬT:


Thời gian trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là một cảnh chiều tàn nơi phố huyện nghèo trôi đi
rất chậm chạp, báo hiệu cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của những con người nơi đây. Cấu trúc
KHÔNG GIAN lồng vào thời gian, dùng KHÔNG GIAN để đo thời gian là một trong
những thành công nghệ thuật đặc sắc của Thạch Lam, thể hiện tài năng của tác giả trong
việc cảm nhận tinh tế từng bước chuyển của thời gian trong tác phẩm. Có thể dễ dàng nhận
thấy nhịp điệu thời gian trong tác phẩm diễn ra khá chậm: tác giả đã sử dụng thời gian văn
bản trải dài trong 10 trang giấy để nói về thời gian cốt truyện trong mấy tiếng đồng hồ
[ khoảng 6, 7 giờ]. Thời gian trong Hai đứa trẻ được đo và cảm nhận bằng rất nhiều phương
tiện khác nhau cả âm thanh, hình ảnh, KHÔNG GIAN. Ngay câu mở đầu tác phẩm thời gian buổi
chiều tàn đã được cảm nhận bằng âm thanh của tiếng trống thu không “Tiếng trống thu không trên
cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”. Vậy là thời gian được đánh
dấu bởi âm thanh của tiếng trống thu không “gọi” buổi chiều về. Và bước chuyển từ buổi chiều tà
đến lúc chập choạng tối được báo hiệu bằng âm thanh quen thuộc của tiếng côn trùng kêu nơi phố
huyện nghèo “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng”, tiếng vo ve của muỗi trước thời
khắc của ngày tàn. Thời khắc đó cũng được đo bằng những hình ảnh của “những đám mây ánh
hồng như hòn than sắp tàn”, và được lồng vào KHÔNG GIAN “ phương tây đỏ rực như lửa
cháy”, “Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời”. Thời gian từ lúc hoàng hôn
đến lúc sẩm tối và đêm khuya được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác

phẩm và được thể hiện nhiều nhất qua hình ảnh của ánh sáng và bóng tối. Thạch Lam đã khéo léo
sử dụng hình ảnh ánh sáng phát ra từ những ánh đèn leo lét nơi phố huyện trong nhà bác phở Mĩ,
đèn dây sáng xanh trong các hiệu khách, đèn từ gánh hàng của mẹ con chị Tí… làm phương tiện
để thông báo thời gian. Đối lập với ánh sáng là hình ảnh đêm tối giăng khắp toàn bộ tác phẩm.
Chính hình ảnh bóng tối cũng được coi là một công cụ hữu dụng được nhà văn sử dụng khéo léo
trong việc thể hiện thời gian trong tác phẩm. Như vậy có thể nhận thấy rằng thời gian cốt truyện
của Hai đứa trẻ chỉ diễn ra trong vòng mấy tiếng đồng hồ từ lúc chiều tà đến khoảng 9 giờ tối
nhưng Thạch Lam đã rất có ý thức trong việc sử dụng rất nhiều các phương tiện khác nhau để thể
hiện khoảng thời gian ngắn đó. Thời gian nơi phố huyện nghèo dường như ngưng đọng vì sự trôi
đi hết sức chậm chạp của những âm thanh nơi vùng quê nghèo, âm thanh của tiếng trống thu
không gọi buổi chiều về, âm thanh xao xác xa xôi của cảnh chợ tàn… tất cả những thứ đó khiến ta
cảm nhận thời gian trong tác phẩm giống như một sinh thể già cỗi, đánh giấu sự tàn lụi, già nua.
Khi mặt trời sắp tắt, đó là cái giờ khắc của ngày tàn. Khi chợ vãn, tức là lúc sự hoạt động của con
người đã hết, cũng là khi đêm đã khuya. Ngay trong thế giới con người, âm thanh cũng ít ỏi chẳng
kém gì. Khi chợ vãn thì những tiếng ồn ào cũng mất theo bước chân của con người. Lúc trời nhá
nhem tối, tiếng ồn ào nơi chợ búa cũng mất. Người ta trao đổi với nhau, nhưng có lời ma không
có tiếng. Có chăng là tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi, một bà già hơi điên. Cảnh đêm nơi
phố huyện tái hiện chân thực bức tranh cuộc sống nghèo nàn, đơn điệu, tẻ nhạt của những con
người nơi đây. Bên cạnh đó, khoảng thời gian của ngày tàn cũng được thể hiện rõ nét qua
KHÔNG GIAN ngập tràn bóng tối. Trong cái KHÔNG GIAN chứa đầy bóng tối ấy, sự hiện
diện của ánh sáng càng làm bóng tối sẫm đen hơn và cuộc sống con người càng trở lên đơn điệu,
tẻ nhạt.


ĐẶC ĐIỂM KHÔNG GIAN - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN “CHÍ PHÈO” CỦA NAM CAO TRÊN BÌNH
DIỆN THI PHÁP HỌC
* KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT:
Là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu
tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong

trường nhìn nhất định […]. KHÔNG GIAN nghệ thuật gắn với cảm thụ về KHÔNG
GIAN nên mang tính chủ quan. Ngoài KHÔNG GIAN vật thể có KHÔNG GIAN tâm
tưởng. Do vậy, nó có tính độc lập tương đối, không qui được vào KHÔNG GIAN địa lý.

* THỜI GIAN NGHỆ THUẬT:
Là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật. Cũng như KHÔNG GIAN nghệ thuật, sự
miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định
trong thời gian. Khác với thời gian khách quan, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược,
quay về quá khứ, có thể bay vượt đến tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời
gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vô tận. Nó được đo bằng nhiều
thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự
sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác…tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm.
1. Thời gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” – Nam Cao
1.1. Độ dài thời gian
Thời gian trần thuật trong truyện “Chí Phèo” được gói gọn trong khoảng thời gian sáu ngày
từ buổi chiều vừa đi vừa chửi “cũng như chiều nay hắn chửi” và “năm ngày chẵn” ở bên
Thị Nở đến buổi sáng giết Bá Kiến rồi tự sát. Đây cũng chính là khoảng thời gian ý thức về
tuổi tác, về nhân tính vốn âm ỉ bấy lâu trong con người Chí Phèo bỗng dưng trỗi dậy. Ước
mơ ngày xưa hiện về. Và hơn bao giờ hết, lúc này Chí Phèo thèm lương thiện, khát khao
được làm người lương thiện. Thế nhưng, khi ánh sáng lương tri còn sót lại vừa lóe lên thì
chỉ trong thời gian ngắn ngủi đã bị dập tắt phũ phàng. Sức tố cáo của tác phẩm nhờ vậy trở
nên thật mạnh mẽ.
1.2. Chiều hướng, trật tự thời gian
1.2.1. Thời gian đa chiều
Một trong những sở trường của Nam Cao là lối kết cấu văn bản thoạt nhìn rất tự do, phóng
túng nhưng kì thực hết sức chặt chẽ. Văn bản truyện “ Chí Phèo” được tổ chức theo
nguyên tắc gián đoạn về thời gian. Chính sự gián đoạn này cho ta cảm giác về một lối kể tự
nhiên, phóng túng rất hiện đại.
Truyện “Chí Phèo” chủ yếu kể về những điều đang diễn ra [gắn với thì hiện tại]. Cách mở
đoạn thường gắn với sự định vị thời gian: “Thì năm nay lại nảy ra Chí Phèo…”, “Bây giờ



thì hắn đã thành người không tuổi rồi…”, “Hắn cứ chửi như chiều nay hắn chửi…”, “Bây
giờ thì chúng ngủ bên nhau…”, “Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh…”. Toàn bộ cuộc đời Chí
Phèo được kể trong câu chuyện này nhưng trong quá trình thuật lại câu chuyện, trình tự
thời gian luôn luôn được thay đổi rất linh hoạt với sự đan xen giữa hiện tại, quá khứ, tương
lai. Tuy nhiên, sự đảo lộn trật tự thời gian tuyến tính trong truyện “Chí Phèo” không hề phá
vỡ tính liền mạch của câu chuyện. Ngược lại nó còn có tác dụng gia tăng tính tuần tự, tính
nối kết chặt chẽ của các tình tiết nghệ thuật.
Chẳng hạn đoạn mở truyện tả tiếng chửi của Chí Phèo được khép lại bằng câu: “A ha! Phải
đấy hắn cứ thế mà chửi […] Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không
ai biết…”. Cả đoạn văn tiếp theo là thời gian quá khứ với câu chuyện “ anh thả ống lươn”
đã nhặt được Chí Phèo như thế nào. Như vậy, rất tự nhiên, câu chuyện quá khứ – tuổi ấu
thơ của Chí Phèo đã trả lời lập tức những câu hỏi vừa buông ra ngay cuối đoạn văn trước
đó. Bất cứ giữa hai đoạn văn kể về những thời điểm khác nhau nào trong tác phẩm, ta cũng
dễ dàng tìm ra mối liên hệ rất logic như trên.
Từ quá khứ xa thuở ấu thơ, Nam Cao kể tiếp đến quá khứ gần của Chí “năm hai mươi tuổi
– hắn làm canh điền cho ông lí Kiến” rồi Chí “phải đi tù”, “hắn đi biệt đến bảy, tám năm,
rồi một hôm, hắn lại lù lù ở đâu lần về”.
Câu chuyện quá khứ khép lại, nhà văn khéo léo đưa người đọc trở về với cuộc sống hiện
tại của Chí. Nam Cao chú ý đặc biệt tới thời gian hiện tại, một cái thời gian hiện tại không
bị chìm đi trong quá khứ, cũng không bị mờ đi vì ảo ảnh của tương lai mà hiện ra rõ ràng
hơn, cụ thể hơn, sinh động hơn, sâu sắc hơn vì mang theo cả cái chiều dài và bề sâu thăm
thẳm của quá khứ, hiện tại và tương lai cộng lại. Hiện tại như gợi lại những hình ảnh của
quá khứ. Đoạn kết tác phẩm “Chí Phèo”, khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn nhanh
xuống bụng, trong óc thị thoáng hiện ra cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người
qua lại. Ở đây, hiện tại, quá khứ soi sáng cho nhau, tạo nên sự cộng hưởng về cảm xúc và
ấn tượng cho người đọc.
Theo dõi câu chuyện ta thấy, cuộc đời của Chí Phèo không được trình bày một cách rành
mạch, cụ thể về mặt thời gian. Điều này tưởng như vô lý nhưng lại rất hợp lý vì bản thân

Chí Phèo cũng không ý thức được rành mạch về tuổi tác của mình: “ Bởi vì ngay đến cái
thẻ có biên tuổi hắn cũng không có…Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai mươi, rồi
hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hăm nhăm không biết có đúng không? ” Nói về thời gian,
Nam Cao đã cố tình làm sai trật tự niên biểu bằng cách dùng những từ “mang máng, hình
như, hay là…” đều rất mơ hồ, khó xác định. Đây chính là dụng ý nghệ thuật của tác giả bởi
suốt cuộc đời Chí là một cuộc vật lộn rối rắm cố tìm lối thoát. Chí Phèo như mắc vào một
tấm lưới, càng cố giãy càng vướng như Nguyễn Du từng nói: “Gỡ ra rồi lại buộc vào như
chơi” [Truyện Kiều].
1.2.2. Thời gian hồi tưởng – tâm tưởng
Trong nhiều tác phẩm của mình Nam Cao đã sử dụng phạm trù “hồi tưởng” như là một yếu
tố của thời gian nghệ thuật. Như ta đã biết, hồi tưởng thường xuất hiện trong quá trình sáng
tạo tác phẩm theo quy luật tương phản hoặc theo nguyên tắc liên tưởng. Trong thế giới


nghệ thuật của Nam Cao, hồi tưởng hiện ra từ từ, không cố ý, ngỡ như vô tình thậm chí
ngay cả khi nhà văn chủ tâm đi vào thế giới hồi tưởng của nhân vật. Nó tạo ra khả năng đối
chiếu giữa quá khứ và hiện tại, có thể nhìn thấy những viễn cảnh, những chu tuyến của
tương lai.
Chí Phèo đối diện với cảnh sống hiện tại, cảnh vật ngày hôm nay như khêu gợi kỷ niệm
của ngày qua. Mơ ước xưa hiện về: “ Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình
nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải.” Tất cả chỉ làm tăng thêm nỗi buồn chán,
khổ đau, nước mắt. Thời gian như là người bạn đường của sự khổ đau. Có thể nói, trong
nhiều sáng tác của Nam Cao, nhân vật vô hình chủ yếu là thời gian đã mất. Hầu như trong
mỗi tác phẩm của ông đều tồn tại “nhân vật” vô hình này hoặc là hàm ý sự có mặt của nó.
Với tư cách là nhà văn hiện thực, Nam Cao ý thức sâu sắc được tính không đảo ngược của
thời gian. Nhiều nhân vật thuộc những tầng lớp xã hội khác nhau của ông đều nhìn thấy
thời gian trôi đi một cách tàn nhẫn. Họ suy ngẫm về thời gian với sự xúc động, với niềm
nuối tiếc, với tình cảm đắng cay của sự mất mát không gì bù đắp nỗi. Đối với Chí Phèo,
thời gian không chỉ tàn phá nhân hình mà còn hủy hoại cả nhân tính và tâm hồn con người:
“Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người: nó là mặt một

con vật lạ”. Những cơn say vô tận, những việc “ ức hiếp, phá phách, đâm chém., mưu hại,
người ta giao cho hắn làm” là chính cuộc đời hắn; cuộc đời mà “hắn cũng chả biết đã dài
bao nhiêu năm rồi”. Hắn đã mất ý thức về thời gian. Nhưng sau lần gặp Thị Nở, tình cảm
tự nhiên và sự săn sóc tận tình của người đàn bà tội nghiệp này đã góp phần đánh thức ý
thức về nhân phẩm và cùng với nó là ý thức về thời gian của Chí Phèo: “Tỉnh dậy hắn thấy
hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời!”.
1.3. Nhịp điệu, sự vận động của thời gian
Trong truyện “Chí Phèo”, nhịp điệu thời gian có khi chậm lại bởi những đoạn suy tư và hồi
tưởng của Chí về thời quá khứ. Nhưng cũng có khi thời gian lại vận động rất nhanh. Từ hồi
mới đi tù về “hồi ấy hắn mới đâu hăm bảy hay hăm tám…” vậy mà “bây giờ thì hắn đã
thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn
mươi?”. Thời gian trôi đi vun vút cũng để lại trên mặt Chí không biết bao nhiêu vết sẹo
“nó vằn dọc, vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao
nhiêu lần ăn vạ, kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ là làm sao nổi?”. Trước bước đi quá
nhanh của thời gian, Chí bàng hoàng, thảng thốt: “Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi
hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu…”. Như vậy, sự vận động của thời gian ở đây cho ta
thấy được quá trình tha hóa về nhân tính lẫn nhân hình diến ra ở nhân vật Chí Phèo hết sức
nhanh chóng.
2. KHÔNG GIAN nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” – Nam Cao
2.1. KHÔNG GIAN làng Vũ Đại
Khác với nhiều truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, “Chí Phèo” có phạm vi hiện thực được
phản ánh trải ra trên cả bề rộng KHÔNG GIAN [một làng quê]. Có thể nói, làng Vũ Đại
trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến nông thôn Việt Nam đương
thời. Vị trí “ xa phủ, xa tỉnh” chính là điều kiện tốt để bọn cường hào hoành hành, thống


trị, áp bức, đè nén nhân dân. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế “quần ngư tranh
thực” như lời ông thầy địa lí nào đó nói “hồi năm nọ” nên bọn cường hào làng này chia
thành năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà chính là do bọn chúng “chỉ là một đàn cá tranh
mồi” , “mồi thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt thì

tử tế với nhau nhưng trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên
cổ ”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung nhận xét: “ Không khí truyện “Chí Phèo” tuy
không sôi sục náo động như trong “Tắt Đèn” nhưng là bầu không khí có tích địện trước lúc
giông bão”.
Có thể nói, không khí oi nồng, ngột ngạt đã bao trùm lên toàn bộ thiên truyện và bao trùm
lên cả làng Vũ Đại. KHÔNG GIAN làng Vũ Đại đã thể hiện rõ giá trị hiện thực sâu sắc
của tác phẩm.
2.2. KHÔNG GIAN túp lều ven sông
Túp lều ven sông – tài sản duy nhất của Chí Phèo được miêu tả với KHÔNG GIAN: “ẩm
thấp” và ánh sáng “ hơi lờ mờ”. “Ở đâu người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên
ngoài vẫn sáng”. Túp lều ấy “Ở gần một con sông con, nước lặng và trong, khắp bãi trồng
toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo nhau thành làn”. Khu vườn nhà
hắn có một lối đi nhỏ ra sông “trước kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy để ra sông tắm giặt
hay kín nước. Nhưng từ khi hắn đến người ta thôi dần, tìm một lối đi khác xa hơn”. Như
vậy, KHÔNG GIAN sống của Chí Phèo đã hoàn toàn bị cô lập, bị tách ra hẳn KHÔNG
GIAN sống của loài người. KHÔNG GIAN ấy thật đẹp, thật lãng mạn: “những đêm trăng
[…] cái vườn phẳng ngổn ngang những bóng chuối đen đen như những cái áo nhuộm vắt
tung trên bãi” nhưng cũng có gì đó lạnh lẽo, rợn ngợp bởi thiếu vắng hơi thở của sự sống
con người.
2.3. KHÔNG GIAN đêm trăng
KHÔNG GIAN đêm trăng nơi bờ sông gần nhà Chí Phèo được Nam Cao miêu tả thật hữu
tình với: “Những tàu chuối đen nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi
như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lạy giãy lên đành đạch như là hứng tình”. “Trăng
tỏa trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng”.
Khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, tuyệt thơ mộng thường được dùng làm bối cảnh cho các
mối tình lãng mạn. Vậy mà ở đây, Nam Cao đã để Chí Phèo gặp Thị Nở - người đàn bà
“ngẩn ngơ, dở hơi, xấu xí” dưới thiên nhiên vô tư, trong trẻo đầy thi vị ấy. Phải chăng, đây
chính là tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Nam Cao đã dành cho cuộc gặp gỡ của đôi
trai gái “ khốn khổ” những trang văn thấm đẫm chất thơ. Thì ra, trong mắt ông, những con
người bị cả xã hội loài người xa lánh, hắt hủi vẫn có thể đến được với nhau và cuộc gặp gỡ

giữa họ vẫn đầy lãng mạn thi vị như bao lứa đôi khác.
3. Sự kết hợp giữa KHÔNG GIAN và thời gian nghệ thuật trong “Chí Phèo”
KHÔNG GIAN và thời gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” nhiều khi lẫn vào nhau,
chuyển hóa lẫn nhau. Hình ảnh KHÔNG GIAN: “Cái lò gạch bỏ không” xuất hiện ở đầu
truyện hoàn toàn trùng khít với thời gian Chí Phèo ra đời “trần truồng và xám ngắt trong
một cái váy đụp”. Sự kết hợp, chuyển hóa này một lần nữa được lặp lại ở cuối truyện tạo


nên kết cấu vòng tròn luẩn quẩn góp phần thể hiện rõ qui luật tàn bạo của xã hội phong
kiến đương thời. Nếu xã hội ấy còn tồn tại những kẻ cường hào, thống trị kiểu Bá kiến và
Lí Cường và chúng còn ra sức áp bức, bóc lột thậm tệ thì vẫn còn những người dân lành bị
đẩy vào con đường lưu manh, tha hóa như Chí Phèo.
C. KẾT LUẬN
Là một nghệ sĩ bậc thầy, Nam Cao đã sử dụng linh hoạt các yếu tố thời gian và KHÔNG
GIAN trong truyện ngắn “Chí Phèo”. KHÔNG GIAN và thời gian nghệ thuật ở đây luôn
được mở ra nhiều chiều nhờ những hồi tưởng, ước mơ và suy tưởng của nhân vật. Câu
chuyện về cuộc đời Chí Phèo từ thời hiện tại có thể quay về quá khứ hoặc hướng tới tương
lai, thậm chí có khi xáo trộn cả KHÔNG GIAN với thời gian. Điều đó làm cho truyện
“Chí Phèo” nói riêng và sáng tác của Nam Cao nói chung mới thoạt nhìn bề ngoài tưởng
như rất phóng túng, tùy tiện nhưng thực ra lại rất chặt chẽ. Nó cho thấy sự buông bắt rất
nhịp nhàng của tác giả.

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà
tù - một "trại giam tối om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ" và "tối
mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại
lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõ hơn số phận những con người
quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Không
gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân sinh mà bóng
tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa bóng tối mịt mù

và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một "ngôi sao chính vị
muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi
đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về
thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói nhưng không bao giờ tắt, và
nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào
ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người
đang tồn tại ở một nơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng
luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối.
Trong thế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới riêng của mình:
một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kiểng
tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ huyền bí cứ ám mãi vào màn
đêm hoang hút... Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc
đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là "đang băn khoăn ngồi bóp thái dương",
với một ngoại hình mòn mỏi, cô đơn "tóc hoa râm, râu đã ngả màu"[3]. Tuy vậy ẩn sâu bên
trong con người này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa


bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ[4]. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tạo lập
bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định
biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một không gian nền đầy bóng tối - nơi chỉ
có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ
trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi
vẫn chiến thắng, dẫn đến một thái độ ứng xử đẹp.
Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợp vô
cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, khinh thế ngạo vật bao
nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự tác động
của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách, vì quý trọng một tài năng, xót xa một
báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng lên từ hai phía đối lập của
hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử, hai mặt của cuộc sống. Chính công việc,
môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con người này

hàng ngày là công cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một nỗi cô đơn
không kẻ tỏ bày, không người tri âm tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông bên ngoài
tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa của Nguyễn Tuân là đã biết
chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có
cơ hội bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng tình huống cho phút giây bừng
sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - ở sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối,
trong "cảnh cho chữ", “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có".
Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt
truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cách
riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam.
Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính trong
nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối được
tác giả sử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chi tiết nhỏ
nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm.
Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ thuật
đặc trưng xuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan xen
giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp nhường
chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời"[5].
Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn
điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số phận của lũ trẻ
bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố
huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời điểm khác nhau: lúc
hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên


chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt qua phên nứa từ ngọn
đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ không số phận, không
tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối đến họ tập trung ở đây như để
bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng
chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của

cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải.
Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc đáo, gây
nhiều ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố huyện ngập
tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của khung cảnh phố
huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu khi
chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và
vũ trụ bao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ở phố huyện,
hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không còn nhòa
nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ "siêu cảm giác"
bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện
tại Liên đang sống - "một vùng sáng rực và lấp lánh"[6].
Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những
con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành
hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻkhi đặt vào diễn biến nội tâm tinh
tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới
thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ "khát thèm được chiếu sáng và được đổi thay"[7] của
hai đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng của tác phẩm
vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một
trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam.
Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử
tù và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh
sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tình
huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung,
nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản
ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh chứng cho
sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa tượng
trưng. Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là
cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật văn hóa của dân
tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một nhân cách
đẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân

lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng được kết thúc đẹp bằng sự
chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng


tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống với bóng tối
trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng
như trong bản chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh
nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật ba loại ánh sáng:
a] Ánh sáng nơi phố huyện - những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo lét, những hột
sáng... tượng trưng cho số phận mòn mỏi của những con ngưòi nơi đây; b] Ánh sáng đô thị
- vừa là quá khứ, vừa là tương lai, là miền mơ ước của hai đứa trẻ; c] Ánh sáng con tàu ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại [ánh sáng phố huyện] về
quá khứ [ánh sáng đô thị], rồi hướng tới tương lai [ánh sáng đô thị]. Từ đây ánh sáng, bóng
tối không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu tượng, biểu tượng của ước mơ,
của khát khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cái cao
cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa
trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tối cũng được sử dụng nhằm miêu tả những
tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong
xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân
lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái bình thường, giản dị,
nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không có sự
chuyển biến dữ dội, bất ngờ.
Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn chương nó đã
vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây dựng tình
huống truyện, được sử dụng như một tình tiết nghệ thuật đặc sắc. So sánh hai tác phẩm để
thấy sự giống nhau và khác nhau trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó
từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà văn và giá trị
nghệ thuật to lớn của tác phẩm. Từ đó có thể khắc họa rõ hơn diện mạo của tác giả, tác
phẩm, xác lập một cách thức tiếp cận văn bản không phải chỉ từ chính nó mà bằng liên văn

bản. Điều này không nằm ngoài mục đích khám phá các vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm văn
chương khiến nó luôn mới mẻ, lấp lánh nhiều giá trị.
a. Tính chất éo le của tình huống này:
* Không gian và thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ:
-Không gian là nhà tù, nơi chứa đựng những cái xấu xa, tăm tối, những cặn bã của xã hội.
Hơn nữa nhà tù không phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ, nên cuộc gặp gỡ này là bất


ngờ, éo le. -Thời gian: là những ngày cuối cùng của cuộc đời Huấn Cao trước khi ông phải
ra pháp trường chịu án chém.
=> Không gian và thời gian như thế đã góp phần tạo nên kịch tính cho tình huống.

CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT
Nói tới cái nhìn nghệ thuật người ta thường nhấn mạnh quan niệm chủ thể sáng tạo đối với
hiện thực mà anh ta phản ánh. Nó quyết định cách thức thể hiện của tác phẩm. Cái nhìn là
cái nhìn của chủ thể sáng tạo, mang đậm dấu ấn cá nhân độc đáo của anh ta. Cùng một đối
tượng thẩm mỹ nhưng mỗi người với cái nhìn riêng sẽ tạo nên hình tượng nghệ thuật mang
quan niệm, giá trị thẩm mỹ riêng. Khác điểm nhìn nghiêng về phương thức, phương tiện
khám phá chỉ vị trí, chỗ đứng mà tác giả [hoặc người trần thuật, nhân vật] nhìn, miêu tả sự
vật, cái nhìn nghệ thuật là điều kiện tiên quyết tạo nên những khám phá mới mẻ ở đối
tượng của nhà văn.
Dù nhân vật giữ vị trí trung tâm nhưng mọi khía cạnh liên quan đến con người đều trở
thành đối tượng nhận thức, phản chiếu cái nhìn nhà văn vào đó. Mối tình Kim Trọng Thúy Kiều cho thấy cái nhìn vượt chuẩn của Nguyễn Du về tình yêu. Cái nhìn ấy quy định
các hình tượng được miêu tả trong tác phẩm. Tình yêu vượt chuẩn đòi hỏi nhân vật phải
phá chuẩn: “Xắn tay mở khóa động đào/ Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai”, hay “Cửa
ngoài vội rủ rèm the/ Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”.
Không có cái nhìn phi chuẩn, Truyện Kiều khó vượt qua phong cách thời đại ghi dấu ấn cá
thể với bạn đọc mọi thời đại. Mộng liên đường chủ nhân khi viết lời tựa đã tinh tế nhận ra
nét đẹp mới lạ của Truyện Kiều nhờ sáng tạo Tố Như tử: “Truyện Thúy Kiều chép ở trong
lục Phong tình, ta không cần bàn làm gì. Lục Phong tình cũng đã cũ rồi, Tố Như tử xem

truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịnh ra
quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh, thành ra cái lục Phong tình thì vẫn là cái lục cũ, mà
cái tiếng Đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy” [3; tr.4]. Cái nhìn Nguyễn Du thấm đẫm
chữ tình, tấm lòng thương tiếc người tài tình và số phận con người ở cõi trăm năm. Đạt đến
cái nhìn thâm thúy như thế không phải chuyện dễ. Truyện Kiều trở thành bộ bách khoa thư
về tâm trạng, tình cảm, số phận con người là vậy: “Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã
khéo tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi,
tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”[3; tr.5].
Chi tiết nghệ thuật là nơi cái nhìn nghệ thuật được cụ thể hóa. “Tác giả thể hiện trong văn
mạch của tác phẩm, tuy tác giả vô hình nhưng ta luôn luôn thấy con mắt của tác giả đặt
vào các chi tiết” [8; tr.66]. Việc lựa chọn, phân tích, nhấn mạnh chi tiết này, lướt qua chi
tiết kia tức là nhà văn đã gián tiếp thể hiện quan niệm của mình.


Nhìn chung, cái nhìn nghệ thuật là sản phẩm của mỗi người, là bình diện quan trọng làm
nên phong cách nhà văn. Hình tượng tác giả vốn vô hình nên cái nhìn nghệ thuật cũng mờ
ảo. Song, tác phẩm văn học, sáng tạo văn chương không thể thiếu cái nhìn nghệ thuật bởi
“đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ, phong cách không phải là vấn đề kỹ thuật
mà là vấn đề cái nhìn” [Macxen Pruxt] [8; tr.109]. Sáng tạo văn chương nghệ thuật thực
chất là sáng tạo cái nhìn nghệ thuật. Truyện ngắn về đề tài lịch sử [như Nguyễn Huy
Thiệp] thực chất là sáng tạo cái nhìn đối với vấn đề quen thuộc tạo ấn tượng mới lạ trong
cách tiếp nhận.
Nghệ thuật luôn đi lên từ cái nhìn chân chính. Đúng như thế, nói đến nghệ thuật ta không
thể không nhắc đến cuộc sống vì hai thứ ấy luôn gắn liền với nhau. Hai nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng và Nguyễn Minh Châu tuy viết hai tác phẩm ở hai giai đoạn khác nhau nhưng
họ cùng hướng đến quan niệm về nghệ thuật.Quan niệm đó được thể hiện qua hình tượng
hai nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa và Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng
Đài. Hai nhà văn đã xây dựng lên hai nhân vật có nhiều nét tương đồng một cách trùng hợp
và tài tình. Cũng nhờ như thế mà hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người đều
được họ tìm thấy và nâng tầm giá trị.Đầu tiên là Nguyễn Minh Châu, ông được xem là một

trong những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, văn của ông giản dị mà
sâu sắc, thấm thía nhiều dư vị về cuộc đời, thấm đẫm nghệ thuật,cái mà ông luôn xem là
bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Cũng nhờ như thế mà nhân vật Phùng đã ra đờiqua
chính ngòi bút của ông.Phùng là một nhiếp ảnh gia, theo lời đề nghị của trưởng phòng, ông
phải chụp một bức ảnh để đăng cho bộ lịch cuối năm, sau nhiều ngày lao lực tìm kiếm, anh
bắt gặp một hình ảnh chiếc thuyền đang từ từ ghé vào bờ trong một buổi sáng sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào.Quá thăng hoa trong
cảm xúc khi khám phá ra được một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, anhnhanh
chóng bấm máy liên thanh và có những bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời
làm nghệ thuật.
Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu, một người đồng đội cũ nay là chánh án toà án huyện,
với người phụ nữ khốn khổ kia, Phùng mới vỡ lẽ ra rằng, người phụ nữ phải cam chịu một
bề, không chống trả những trận đòn của chồng và không chịu giải phóng là vì tình yêu vô
bờ bến đối với những đứa con. Phùng căy đắng nhận ra rằng, đằng sau cảnh đẹp như mơ
kia là bao ngang trái, éo le của đời thường mà anh chưa hiểu hết. Trưởng phòng rất hài
lòng về tấm ảnh. Mãi về sau, nó vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất và những gia đình sành
nghệ thuật. Nhưng mỗi khi nhìn kỹ bức ảnh, cảm xúc của anh luôn lẫn lộn trào dâng.Tình
huống được tạo nên từ ngòi bút của ông là sự tương phản giữa nghệ thuật và cuộc sống,


nghệ thuật thì ở ngoài xa còn cuộc đời thì lại thật gần, nghệ thuật thì đẹp nhưng cuộc đời
sao đầy rẫy bao ngang trái. Ông cho người đọc thấy được cái nhìn đa diện, nhiều chiều về
cuộc sống, chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, về cuộc
sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bàhàng chài, từ đó ông gợi mở
những vấn đề mới vô cùng triết lý cho sáng tạo và nghệ thuật.Tiếp đến là Nguyễn Huy
Tưởng, nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử, ông có rất nhiều đóng góp nổi bật ở
thể loại tiểu thuyết và kịch, một trong những vở kịch để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho
người đọc là Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài mà thông qua nhân vật Vũ Như Tô ta càng thấy
được mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống.Vũ Như Tô được biết đến qua tác
phẩm của ông là một kiến trúc sư thiên tài và đam mê nghệ thuật, bị hôn quân Lê Tương

Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Nhưng
ông là một nghệ sĩ có nhân cách và có lý tưởng nghệ thuật hết sức cao đẹp, không phải là
người ham sống sợ chết hay chỉ vì chút công danh mà phải bán thân mình cho nghệ thuật.
Lúc đầu, ông nhất định thà chết chứ không xây dựng Cửu Trùng Đài cho tên vua bạo
ngược, nhưng khi nhận ra giá trị nghệ thuật để lại cho đời thì ông lại quên mất một thực tế
là dân chúng đang đói khổ.Cửu Trùng Đài càng xây cao bao nhiêu thì mồ hôi, nước mắt và
cả máu xương của nhân dân ngày càng tăng lên bấy nhiêu. Vũ Như Tô càng quyết tâm xây
dựng Cửu Trùng Đài thì các mâu thuẫn ngày càng theo đó mà khó giải quyết và Đan
Thiềm càng khuyến khích Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài thì xung đột giữa người nông
dân và con người nghệ thuật ngày càng tăng cao. Có thể nói đó là một khát vọng hết sức
chân chính nhưng nó được đặt không đúng chỗ , không kịp thời, không tính đến giá trị
cuộc sống thì
nghiễm nhiên chính nó sẽ tự trở thành tai họa. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ
Như Tô vừa là phạm nhân và cũng vừa là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người
Vũ Như Tô và Đan Thiềm mặc dù được giải quyết nhưng không được thõa đáng. Vũ Như
Tô bị giết mặc dù trong thâm tâm ông không hề có ý định hại dân, khi chết ông vẫn chưa
nhận ra được sai lầm của mình.Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn
đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý
tưởng nghệ thuật cao siêu thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của
nhân dân.Cả hai tác phẩm này đều xây dựng lên một nhân vật hết lòng đam mê nghệ thuật
nhưng chỉ vì chưa thấy rõ sự đối lập mà dẫn đến những kết cục đáng buồn. Nghệ sĩ Phùng
đã thấy được mặt trái của sự việc và đãkịp thời sửa sai nhưng Vũ Như Tô phải lấy cả cái
giá của nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình. Tuy được viết vào hai bối cảnh
xã hội khác nhau, văn hóa mà đối tượng tồn tại khác nhau và phongcách của hai nhà văn


cũng hoàn toàn khác nhau, nhưng họ đều có một điểm chung đã lật ra lá bài của nghệ thuật.
Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa rời cuộc
sống, xa rời quần chúng thì chỉ đem lại bi kịch thảm khốc như của Vũ Như Tô hay cái nhìn
phiến diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống

nhưng không phải lúc nào nó cũng đẹp. Đằng sau của tấm huy chương rạng rỡ luôn gồ gề
và nhiều khuyết điểm. Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ
cho cuộc sống, nghệ thuật xa rời cuộc sống chỉ là nghệ thuật suông, không xứng đáng là
nghệ thuật chân chính, đều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống,
hiểu nó trên nhiều phương diện. Nghệ sĩ chân chính cũng giống như nghệ thuật chân
chínhvà nghệ thuật luôn phải vì nhân sinh không chỉ bó hẹp nghệ thuật vì nghệ thuật.Như
Tố Hữu đã từng tâm sựNhân dân là bểVăn nghệ là thuyềnThuyền xô dóng dậySóng đẩy
thuyền lênCả hai nhà văn đã cho ta nhận thức được cái đẹp của nghệ thuật như thế nào, con
đường tìm kiếm, đi đến và chinh phục nghệ thuật sẽ ra sao. Tuy không đem lại kết cục như
mong đợi nhưng hai nhà văn dường như đã bộc lộ hết vẻ tài tình qua những lời văn của
mình. Ngôn ngữ điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn từ và hành động của nhân vật
để khắc họa tính cách, đó chính là cái tài mà không dễ ai có được. Và cũng nhờ nghệ thuật
chân chính mà cái tài đó càng thêm sâu sắc hơn, thấm đẫm với chúng ta hơn.Các từ khóa
trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:• cuộc
sống của cung nữ• so sanh nhan vat phung voi




1. SOẠN BÀI HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM, ngắn 1

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Tác giả:

1. Cuộc đời

- Thạch Lam [1910 – 1942], bút hiệu của Nguyễn Tường Vinh [về sau đổi thành Nguyễn Tường Lân] là nhà văn thuộc nhóm Tự lực văn đoàn. Ông sinh trưởng trong một gia đình công chức gốc quan lại ở Hà Nội.
- Thuở nhỏ, Thạch Lam sống tại quê ngoại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, sau đó chuyển sang Thái Bình.
- Ông học ở Hà Nội, đỗ tú tài rồi đi làm báo viết văn
- Ông nổi danh ở lĩnh vực truyện ngắn.

2. Sự nghiệp

- Tập truyện ngắn: Gió đầu mùa [1937], Sợi tóc [1942].
- Tiểu thuyết: Ngày mới [1939]
- Tập tiểu luận: Theo dòng [1941].
- Tùy bút: Hà Nội băm sáu phố phường [1943]

3. Phong cách

- Ông luôn dành sự chú ý cho việc khai thác tâm trạng nhân vật. Do vậy, cốt truyện trong tác phẩm của ông thường lỏng lẻo.
- Cách kể của Thạch Lam là thường xuyên gửi điểm nhìn sang nhân vật để họ tự bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của mình.
- Văn của ông ý nhị, giàu cảm xúc, mỗi truyện của ông hệt như một bài thơ trữ

tình.
- Giọng kể trong truyện Thạch Lam trong sáng, sâu sắc, chứa đựng cái nhìn sâu sắc, điềm đạm về cuộc đời.

4. Quan niệm của Thạch Lam về văn chương.

– Thạch Lam quan niệm “Có hai lối quan sát: một lối quan sát bề ngoài và một lối quan sát bề trong. Trông bề ngoài thì chỉ thấy được cái trạng thái sự vật của một cảnh tượng [...] Người ta có thể tập nghe cho tinh tường, tập trông cho chu đáo, nhưng không có con mắt của linh hồn thì không bao giờ soi thấu được cái bí mật của tâm lí”.
- Chú trọng hơn đến thế giới bên trong của con người, ông viết: “Cần hơn là sự quan sát bề trong, khiến nghệ sĩ có thể hiểu được cái ý nghĩa giấu kín của sự vật, cái trạng thái tâm lí của một cử chỉ hay một lời nói”.
- Từ đó, ông yêu cầu nghệ sĩ “phải biết suy xét tâm hồn mình. Qua tâm hồn ta, chúng ta có thể đoán biết được tâm hồn mọi người. Và chỉ khi nào chúng ta hiểu biết được những trạng thái tâm lí của mình một cách sâu sắc, chúng ta mới hiểu biết được trạng thái tâm lí người ngoài”.
- Nhưng để thành nghệ sĩ giỏi thì nhà văn cần phải “tạo ra những nhân vật thật và hoạt động, ngoài những tính cách và đặc điểm của cái địa vị xã hội, tìm đến được cái bí mật không tả được ở trong mỗi con người”.
- Ngoài ra, nhà văn còn phải chú ý đến môi trường xung quanh khi khắc họa nhân vật. Chỉ khi ấy nhà nghệ sĩ mới có thể “diễn tả đúng tâm lí một người”.
- Thạch Lam là nhà văn của những điều bình thường, nhỏ nhặt trong cuộc sống. Ông đề cao khả năng quan sát nội tâm và sự giản dị trong cách viết: “Bỏ hết những cái sáo, những cái kêu to mà trống rỗng, những cái giả dối đẹp đẽ đi tìm cái giản dị, cái sâu sắc và cái thật, bằng cách quan sát và rung động đúng, đó là công việc các nghệ sĩ phải làm. Chúng ta cứ là chúng ta, với cái tâm hồn và bản ngã thật của chúng ta”. Chỉ khi tiếp cận được tâm hồn chân thật ấy nhà văn mới xây dựng được nhân vật có sức sống vượt qua sự giới hạn của ngôn từ.

II. Tác phẩm "Hai đứa trẻ"

1. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
- Tác phẩm được in trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn [1938].
- Câu chuyện về chị em Liên là chuyện có nội dung gần như trùng khít với quãng đời thơ ấu của chính tác giả ở phố huyện Cẩm Giàng do chị Thạch Lam kể lại trong hồi kí.
- Từ thực tế này nên mới có cách gọi chị Liên trong Hai đứa trẻ. Và hiện thực của tác phẩm là hiện thực của quá khứ, của tâm tưởng.

2. Các ý kiến đánh giá về tác phẩm
- Hai đứa trẻ chịu nhiều thăng trầm trên các chặng đường phê bình, tiếp nhận. Vũ Ngọc Phan tiêu biểu cho những ý kiến đánh giá thấp tác phẩm khi gọi Hai đứa trẻ là một truyện ngắn “tầm thường”.
- Năm 1957, với bài viết Thạch Lam, Nguyễn Tuân là người đã đề xuất những ý kiến xác thực đầu tiên về Hai đứa trẻ: “Truyện có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng đóng lên một cái gì còn ở trong tương lai... Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín”.
- Đỗ Đức Hiểu viết: “Có thể thấy ở Hai đứa trẻ, truyện của xung đột giữa bóng tối và ánh sáng, bóng tối hay nghèo nàn và cô đơn, ánh sáng chỉ là ước mơ thoáng qua, mở đầu truyện, ánh sáng tắt dần. Kết thúc truyện bóng tối tràn ngập phố huyện, hay tràn ngập thế giới. Và có thể thấy ở đây triết lí của Thạch Lam về thân phận con người. Diễn biến truyện là sự tranh chấp bóng tối / ánh sáng”.

3. Cốt truyện
- Cốt truyện, hiểu theo nghĩa bao hàm xung đột tạo kịch tính thì hoàn toàn vắng bóng ở đây.
- Hai đứa trẻ chỉ có một trạng huống [tình huống tâm trạng] là việc hai chị em Liên và An bán hàng xén tại một phố huyện đang đợi chuyến tàu từ Hà Nội về để bản thêm chút hàng [theo lời mẹ dặn].
- Những chú ý của chúng là để được nhìn chuyến tàu. Đoàn tàu đến, rực sáng trong phút chốc rồi lại ra đi, những người bán hàng vặt cũng ra về. Chị em Liên đóng quán ngủ.
- Nếu cứ dựa vào các sự kiện của cốt truyện trên thì Hai đứa trẻ không thể nói cho ta biết gì hơn về hành động tẻ nhạt của hai đứa bé tại một đêm phố huyện nghèo, buồn bã.

4. Sự tinh tế của Thạch Lam qua đoạn văn: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào... Liên ngồi yên lặng... Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
- Đối tượng được miêu tả của đoạn văn này là con người: Liên.
- Tư thế: “ngồi yên lặng”.
- Tâm trạng. “buồn man mác”...
- Khung cảnh truyện, ngay từ đầu đã được đọc qua mắt Liên. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh đôi mắt lại xuất hiện ngay sau tư thế ngồi của nhân vật: “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần.”
- Vậy nên hình khối và màu sắc là sản phẩm tất yếu từ sự tiếp nhận hiện thực này.
- Chìa khoá để mở cánh cửa của câu chuyện được đặt tại đây, ở nhân vật Liên với hai động thái cảm nhận: bằng năm giác quan và cả bằng trực giác: nỗi buồn rất lãng mạn.

5. Nhân vật

a] Số lượng và nghề nghiệp:
-Tác phẩm gồm có chín người: Liên, An, chị Tí, cụ Thi, bác Siêu, Vợ chồng xẩm, thằng con xẩm và thằng con chị Tí. Đây là những nhân vật được miêu tả trực tiếp trong tác phẩm.
- Ngoài ra cũng còn có chừng mười đến mười lăm người nữa được nhắc đến với tư cách là nhân vật thoáng qua, bà lão móm, bác phở Mĩ, ông Cửu, bà Lực, cụ Chi, chú lính, cụ Thừa, cụ Lục, ông giáo; hai, ba bác phu; hai, ba người mang đèn đón chủ,...
- Nếu xét về nghề nghiệp thì phố huyện hiện lên gần đủ một cơ cấu hành chính thu nhỏ: quân đội, quan chức, giáo viên, phu, người giúp việc, người buôn bán, người ăn xin, người điên say rượu,...
- Cái thiếu của Hai đứa trẻ là một nhân vật quyền uy, giàu sang, sung túc...
- Còn cái thừa của truyện là quá nhiều người nghèo, những người dường như chỉ sống vào chút hi vọng thoảng qua rất nhanh: chuyến tàu từ Hà Nội về...

b] Đặc điểm của nhân vật trung tâm
- Liên là nhân vật trung tâm.
- Tuy hay còn ít tuổi, nhưng Liên thiên về lối sống nội tâm.
- Liên là nhân vật đáng trân trọng. Do sớm tần tảo với cuộc đời nên ở cô có nết chăm chỉ, mối âu lo thường trực.
- Dẫu chỉ miêu tả cuộc sống chị em Liên trong khoảng thời gian ngắn nhưng ấn tượng ta có được ở đây là sự đơn điệu cứ lặp đi lặp lại hết ngày này sang ngày nọ một cách tẻ ngắt. Phải kiên trì lắm, can đảm lắm thì chị em Liên mới làm được việc ấy. Chuyện cơm áo làm con người già đi, tước đoạt ở họ bao niềm vui thú dẫu chỉ là vô cùng nhỏ bé.
- Nhưng không vì thế mà nhân vật của Thạch Lam cay nghiệt với đời. Ở Liên, cô sở hữu một tấm lòng bao dung, độ lượng. Liên không chỉ yêu thương An mà còn quý cả những em bé con nhà nghèo sống ven chợ.

c] Vai trò và vị trí của đôi mắt và tâm hồn nhân vật .
- Đôi mắt và tâm hồn là hai đối tượng luôn được nhắc đến trong truyện.
- Nhưng chúng không được đặc tả nhằm nêu bật tính cách của nhân vật như các nhà hiện thực mà chỉ được xem như là kênh tiếp nhận hiện thực của nhân vật.
- Vì thế các động từ đi theo cũng chỉ nhằm miêu tả hoạt động vật lí của nó: nhắm, mở, nhìn xuống, nhìn lên... “An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông...”
-Dõi theo cái nhìn của hai chị em, đặc biệt là Liên, câu chuyện đóng khung không gian của mình vào cái nhìn ấy.
- Người kể chuyện rất khách quan, không hề tỏ ý can thiệp, để câu chuyện hồn nhiên tiếp diễn theo cảm nhận của hai đứa trẻ.
- Nguyên tắc trần thuật gửi điểm nhìn này đã mang lại cho tác phẩm bầu không khí sinh hoạt nóng hổi của phố huyện đồng thời nó cũng cho thấy cách cảm nhận về sự sống ở nơi đó.
-Do vậy khi đặt nhan đề truyện, Thạch Lam đã tỏ rõ ý đồ của mình: đây không chỉ là chuyện về hai đứa trẻ mà chủ yếu còn là chuyện hai đứa trẻ cảm nhận cuộc đời như thế nào.

d] Thế giới nhân vật nữ
- Thiên tính nữ của tác phẩm tạo nên chất thơ.
- Trong số các nhân vật của đêm phố huyện, chỉ có bác Siêu là đàn ông [tình thực ta biết giới tính của bác là qua cái tên theo cách đặt tên của người Việt chứ tác giả không hề đưa tín hiệu về giới tính: bác có thể dùng cho cả đàn ông lẫn đàn bà], còn lại đều là phụ nữ.
- Hướng cái nhìn trần thuật về phía người nghèo đã là nhân đạo song tập trung vào phụ nữ lại là một lần nhân đạo nữa của Thạch Lam.
- Người phụ nữ của Thạch Lam, vẫn mang những đặc điểm tốt đẹp của phụ nữ truyền thống như nhẫn nại, hi sinh, giàu lòng vị tha... song họ là những con người hiện đại vì không chỉ biết ước mơ mà còn dám chờ đợi ước mơ đó. Chờ đợi sự đổi đời.
- Ý nghĩa tích cực từ cách nhìn này đã khiến thiên truyện tràn đầy niềm tin, lạc quan, sức sống...

6. Nghệ thuật đảo ngược thời gian
- Đảo ngược thời gian từ phố huyện về Hà Nội diễn ra ba lần.
- Cả ba lần đều gắn với công việc hoặc tâm trạng Liên. Hà Nội, sau mỗi lần xuất hiện lại càng thêm day dứt.
- Lần thứ nhất cho ta biết hoàn cảnh của hai chị em Liên: phải kiếm sống, phải đùm bọc nhau vì thầy mất việc làm ở Hà Nội.
– Lần thứ hai thì người kể đã đề xuất sự so sánh ngày trước và bây giờ, Hà Nội và phố huyện: “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chị được hưởng những thức quà ngon, lạ.... Ngoài ra, kỉ niệm còn nhớ lại không rõ rệt gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh”.
- Lần thứ ba, Hà Nội xuất hiện ngay trong chính độc thoại nội tâm của Liên: “nhưng họ ở Hà Nội về... Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyện náo”.
- Người kể đang dịch chuyển điểm nhìn từ bên ngoài vào nội tâm của Liên. Quá trình vận động này cho thấy ý thức về cảnh ngộ của Liên về chính bản thân Liên và con người nơi phố chợ ngày một tha thiết hơn.
- Cuộc sống của con người càng buồn hơn, khổ hơn, cô độc hơn thì giấc mơ về thiên đường, về sự đổi đời càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hà Nội là thiên đường của chị em Liên. Giờ đây đã cách xa trong màn đêm nên nỗi nhớ, nỗi xót xa càng cồn cào da diết...

7. Nghệ thuật đối thoại
- Đối thoại của Hai đứa trẻ chiếm tỉ lệ rất thấp. Trong số 2739 chữ của văn bản thì chỉ có 221 chữ dành cho đối thoại.
- Trong bốn nhân vật được tập trung khắc hoạ ở bức tranh phố huyện [An, Liên, chị Tí, bác Siêu], An là nhân vật trẻ nhất song có lượt lời thoại lớn nhất bằng Liên: 8/23 lượt. Chị Tí nói ba lượt, Bác Siêu hai lượt. Hai lượt còn lại là của cụ Thi điên. Các lượt thoại này đóng vai trò thúc đẩy cốt truyện phát triển. Ngoài ra nó còn bộc lộ tâm trạng, giải thích cho nguyên nhân hành động ở thực tại của nhân vật...
- Đối thoại được dựng theo lối kìm tốc độ truyện.
- Đa số đối thoại được thực hiện dưới dạng câu hỏi. Trả lời câu hỏi là hành động thúc đẩy diễn biến truyện.
- Dạng phổ biến khác của đối thoại trong Hai đứa trẻ được thực hiện dưới hình thức câu hỏi: “Em thắp đèn lên chị Liên nhé?” “Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?”
- Đối thoại trong truyện vừa đóng vai trò giữ nhịp cho mạch truyện phát triển vừa là những tín hiệu thẩm mĩ ấn tượng khởi xuất từ nội tâm đầy bồn chồn, háo hức, âu lo, buồn bã, thông cảm... của những thân phận nơi phố chợ nghèo.
- Trong nỗi hiu quạnh của phố huyện kia, ngần ấy những mảnh đời lay lắt nương tựa vào nhau mà sống. Họ không giúp và không thể giúp nhau về mặt vật chất song qua những tiếng nói hướng về nhau của họ, ta thấy đây là những điểm sáng về tinh thần, về tâm hồn, giúp họ vững tin hơn trong công việc, trong mục đích họ đang theo đuổi.

8. Mùi vị
- Mùi vị, trong tác phẩm tuy chỉ xuất hiện hai lần song nó thực sự tạo nên ấn tượng ở người đọc.
- Lần thứ nhất: “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Đấy chính là mùi chợ huyện.
- Lần thứ hai là mùi phở bác Siêu: “Tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rõ rệt, khói theo gió tạt lại chỗ hai chị em. Bác Siêu đã tới gần, đặt gánh phở xuống đường... An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm”.

9. Ánh sáng
a] Gam màu chính: – Ánh sáng gắn với thị giác vẫn là nỗi ám ảnh đậm sâu nhất trong Hai đứa trẻ.
- Sau những tiếng trống “gọi buổi chiều”, gam màu của bức tranh phố huyện là sáng và nóng: “Phương tây, đỏ rực như lửa cháy”. Màu sắc này được đặc tả như hình khối chứ không phải bằng đường nét cụ thể miêu tả trực tiếp mặt trời và cảnh chiều tà.
- Các nhân vật hướng về, nói đúng hơn là họ hướng về bất cứ ánh sáng nào lọt vào mắt:
+ Xa thì có ánh sáng mặt trời, ánh sáng vì sao.
+ Gần chút nữa là ánh sáng của đom đóm, ánh sáng của những ngọn đèn, đủ loại đèn: đèn treo, đèn hoa kì, đèn dây sáng xanh, đèn con, đèn lồng, đèn ghi,...
+ Với vô vàn kiểu ánh sáng xuất hiện: đỏ như lửa cháy, hồng như hòn than sắp tàn, sáng xanh, sáng xanh biếc, ánh sáng vàng lơ lửng đi trong đêm tối, sáng trắng, kèm với màu sắc ánh sáng là cường độ sáng: sáng lấp lánh, sáng rực, sáng trưng.
+ Đặc biệt hơn là việc xuất hiện hình thù của ánh sáng: khe ánh sáng, vệt sáng, quầng sáng, chấm sáng của lửa [2 lần], hột sáng, vùng sáng, đốm [sáng] của than đỏ,...
+ Đỉnh điểm của cuộc trưng bày ánh sáng kia là quan sát độc đáo bậc nhất: “Những nguồn sáng ấy đều chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng, một bên tối”.

b] Ánh sáng kí ức
- Không nhiều như việc khai thác ánh sáng bình thường, nhưng ánh sáng kí ức của Thạch Lam khắc hoạ rõ nét hơn con người tâm trạng của Liên. .
- Lần đầu tiên nhắc đến Hà Nội “khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở vì thầy Liên mất việc”, trong Liên kí ức về Hà Nội chưa xuất hiện. Nhưng đến lần thứ hai thì Liên đã “nhớ lại khi ở Hà Nội” và Hà Nội được gợi lại từ mùi phở của bác Siêu, là “cốc nước lạnh xanh đỏ” [kí ức của trẻ con] là “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Hà Nội đồng nghĩa với ánh sáng.
- Vì cái ánh sáng đó, vì nỗi truân chuyên của bao cuộc đời ngoài kia, vì cảm cảnh cho chính thân phận mình nên dẫu đôi khi “tâm hồn Liên yên tĩnh” song vẫn có “những cảm giác mơ hồ không hiểu”.
- Con tàu mang ánh sáng đến, nhưng khi qua đi con tàu làm sống lại kí ức, ấy là nỗi khao khát, nỗi nhung nhớ Hà Nội rực ánh đèn.

c] Ánh sáng con tàu
- Con tàu mang chút niềm tin tương lai đến cho phố huyện.
- Trước khi con tàu xuất hiện, phố huyện sống trong trạng thái uể oải, lơ mơ ngủ, kém sinh khí và mọi hành động đều quy tụ ở tâm lí đợi tàu.
- Thạch Lam dành đến 852 chữ [gần một phần ba số chữ của tác phẩm: 852/2739] để tập trung khắc hoạ con tàu qua phố huyện.
- Con tàu đó là nguồn sống cả về vật chất lẫn tinh thần đối với dân phố huyện.
- Ánh sáng con tàu mang Hà Nội về cho chị em Liên. Vẫn là sự cảm nhận của tinh tế trong màn đêm tĩnh mịch:
+ Âm thanh xuất hiện trước “tiếng dồn dập, tiếng xe rất mạnh vào ghi”.
+ Màu sắc: “một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa” rồi lại âm thanh “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”.
+ Hình hài: “tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”.
- Chỉ một đoạn văn ngắn mà Thạch Lam sử dụng đến bốn [cụm] danh từ và tính từ chỉ ánh sáng, sáng trưng, chiếu sáng, lấp lánh, cửa kính sáng, ánh sáng đã lên ngôi.
- Ngay đến khi khuất vào đêm tối, thì vẫn còn đó ánh sáng của “những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. An và Liên ngóng theo.

d] Tương phản ánh sáng - bóng tối
- Khác với Hugo, bậc thầy sử dụng hình ảnh tương phản bóng tối - ánh sáng để chứng minh sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng của tâm hồn, của lương tri xã hội, và ánh sáng đạo đức, lương tri bao giờ cũng chiến thắng… Thạch Lam tuy vẫn khai thác hai hình ảnh này song không nhằm để thuyết minh cho lí tưởng lương tri kia.
- Ông chỉ cốt gây ấn tượng, nhằm phân biệt rõ nét hơn hai phạm trù tương sinh tương khắc [sáng và tối] để cho thấy cái nhìn hiện thực, rất hiện thực về cuộc đời: có những người nghèo, mong đợi ánh sáng hạnh phúc, họ mãi đợi, hạnh phúc đến rồi qua nhanh như chuyến tàu kia, nhanh đến nỗi Liên không thể nhận rõ mặt người, rồi đêm tối lại đến, đom đóm ngừng hoạt động, sao vẫn sáng, cơn buồn ngủ đến với Liên, để hôm sau thức dậy thêm một ngày đợi tàu nữa...
- Chu trình sống cứ lặp đi lặp lại ấy vô cùng đơn điệu tẻ nhạt. Nó không hề giấu giếm cuộc sống nghèo nàn quá đỗi cả về vật chất lẫn tinh thần nơi đô thị không cách xa làng là bao [bà cụ Thi đi về phía làng].
- Song nhờ thế nó lại có khả năng vô biên trong việc khảm vào tâm hồn ta hình ảnh phố huyện ngưng đọng ấy. Phố huyện của Thạch Lam chính là dự hồn của bất kì một phố huyện nghèo nào.
- Dư hồn của phố huyện không chỉ là nghèo mà còn sâu xa hơn còn là sự lãng quên dần. Trên cái nền hiện thực là càng nghèo thì người ta lại càng ít lên xuống các chuyến tàu đi qua phố huyện, song các điệp ngữ: may ra còn có một vài người mua, người vắng mãi, người lên xuống [tàu] ít, thưa vắng người... lại hệt như nỗi niềm phôi pha trong thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên.
- Tuy bóng tối là hình ảnh kết tác phẩm song cũng như nét nghệ thuật mà bóng tối đảm nhận trong toàn thiên truyện, chỉ là cái nền để xuất hiện ánh sáng ví như bầu trời đêm tối thẳm để toả sáng những vì sao, không gian tối đen để đom đóm nhấp nháy sáng.
- Và dẫu cho ngay khi “không còn” đom đóm nữa, ngay khi Liên phải “vặn nhỏ ngọn đèn” xuống để đi ngủ thì cảm giác về ánh sáng trong Liên vẫn chưa tắt. Tác phẩm kết thúc khi Liên ngừng quan sát, suy ngẫm và giấc ngủ yên bình đến.
- Khác với bóng tối, Thạch Lam ba lần đặc tả ánh sáng nơi phố huyện: ánh sáng “đỏ rực” của trời chiều, ánh sáng trong kí ức Liên về Hà Nội “một vùng sáng rực và lấp lánh”, và ánh sáng của đoàn tàu với các toa “đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường”.
- Ba lần đặc tả ánh sáng là ba lần tác giả ngầm ẩn dụ, so sánh cuộc sống ở hiện tại với quá khứ và tương lai của con người.
- Thực tại thì rõ ràng chẳng hạnh phúc gì bởi cái sắc chiều đỏ rực kia sớm chìm vào bóng đêm tĩnh mịch, hiu quạnh. Chọn thời khắc vào buổi chiều, Thạch Lam không những mang chất thơ buồn vào trang văn mà còn mang cả cuộc sống tẻ nhạt vật vờ của những mảnh đời nghèo nhưng chưa đến mức bất hạnh tột cùng của phố huyện lên trang sách.

10. Những đặc sắc nghệ thuật
- Những dụng công đặc biệt về ngôn từ đã khiến Hai đứa trẻ trở thành một trong những áng văn kiệt xuất của dân tộc.
- Dễ nhận thấy các hình ảnh trong truyện thường được khắc hoạ theo phương thức lặp. Tuy mỗi lần lặp đều được xử lí cho khác đi song chính dụng ý này đã tạo nên hiệu quả ấn tượng về sự đơn điệu, trì động của cuộc sống rất cao.
- Bên cạnh đó, việc sử dụng lời nội tâm bao giờ cũng làm giảm tốc độ truyện. Hai đứa trẻ hiển nhiên là có tốc độ trần thuật chậm vì tính sự kiện ở đây không cao và không có tính xung đột mặc dù biện pháp tương phản rất được quan tâm.

11. Niềm tin của Thạch Lam vào một cuộc sống tốt đẹp
- Thạch Lam rất tin ở tương lai.
- Tuy đặt cái thực tại mất mát vào dòng đời, dòng vận hành của vũ trụ không ngừng luân chuyển, Thạch Lam đề xuất tư tưởng hợp với quy luật khách quan: Con người sẽ luôn tìm cách tồn tại và tồn tại được trong bất kì cảnh ngộ nào.
- Quan niệm này đã khiến Thạch Lam đưa ra một kiểu so sánh sáng tạo, đầy ẩn ý và rất ấn tượng, so sánh giữa cái thường biến và cái bất biến: so sánh trong này [không gian hẹp] với ngoài kia [không gian rộng], so sánh kiếp người nhỏ nhoi hữu hạn với vũ trụ bao la vĩnh hằng: “Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi, cũng im lặng tối đen như ngoài phố”...
- Thạch Lam hướng đến triết lí: khi con người chưa thể làm khác đi trong cảnh ngộ của mình thì mơ ước là giải pháp hữu hiệu để họ vượt qua các thời khắc nghiệt ngã nhất.
- Đặt cái hữu hạn trong cái vô cùng, đặt cái hiện thực mòn gỉ trong cái ước mơ bóng sáng... Thạch Lam vẫn luôn hướng về nơi xa xôi kia. Ông chia sẻ và vững tin ở khát vọng của con người.

12. Khám phá mới của Thạch Lam so với các nhà văn hiện thực
- Trong lúc đa số các nhà văn hiện thực khác cùng thời hầu như tập trung miêu tả sự khánh kiệt vật chất [điển hình là Nguyễn Công Hoan, Nam Cao] thì Thạch Lam chủ yếu lại khai thác sự cùng quẫn về tinh thần.
- Ông không hướng trọng tâm miêu tả lên thế giới vật chất mà chỉ dùng nó như một thế lực hiển nhiên gây nên sự bi đát về đời sống tâm hồn.
- Chẳng phải ngẫu nhiên mà quần thể nhân vật nơi phố huyện tăm tối ấy lại có cả đại diện của người điên [cụ Thi], người mù [nhà xẩm] và bốn nhân vật tiêu biểu còn lại trừ hai chị em Liên có đôi chút lịch sử [trước sống ở Hà Nội, bố mất việc phải về quê, mẹ không ra trong hàng cùng vì phải bận làm hàng xáo] còn chị Tí, bác Siêu không có lại lịch gì thêm ngoài gánh hàng của họ.
- Như thế, càng dồn nén đời sống vật chất khắc khoải bao nhiêu thì sự tỏa sáng của đời sống tinh thần bức bối càng lớn bấy nhiêu. Đây là cách Thạch Lam tạo ra ấn tượng cho riêng mình.

---------------------HẾT BÀI 1--------------------

Thực hành thành ngữ, điển cố là bài học nổi bật trong Tuần 6 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 11, học sinh cầnSoạn bài Thực hành thành ngữ, điển cố, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK

Video liên quan

Chủ Đề