Chính sách tuyển dụng phù hợp với toàn cầu hóa năm 2024

Giữa các khó khăn và thách thức do đại dịch virus mới gây ra, các doanh nghiệp bắt buộc phải xem xét lại vai trò Giám đốc nguồn nhân lực (CHRO) và tầm quan trọng của họ trong bàn kế hoạch chiến lược, đặc biệt là khi đề cập đến việc ứng phó với đại dịch COVID-19 toàn cầu.

COVID-19 chắc chắn đang tạo ra một sự thay đổi mô hình hướng tới cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm và gây ra sự xáo trộn về nhân lực lao động. Trong những thời điểm như vậy, các CHRO đang ở tuyến đầu và phải đảm nhận nhiệm vụ tuyển dụng, đào tạo và thu hút những nhân tài thực sự để góp sức chung tay phục hồi nền kinh tế của doanh nghiệp.

Chiến lược tuyển dụng nhân sự sẽ cho bạn biết về các mục tiêu trên thị trường việc làm và các nguồn tuyển dụng chính sẽ được sử dụng. Chiến lược tuyển dụng cần phù hợp với chiến lược nhân sự và nó phải hỗ trợ các mục tiêu, kế hoạch, ​​chiến lược của doanh nghiệp cũng như bộ phận nhân sự. Chiến lược tuyển dụng xác định các mục tiêu chính cho quá trình tuyển dụng và nhà tuyển dụng nhân sự phải tuân theo các mục tiêu đã xác định khi doanh nghiệp đạt được vị trí mong muốn trên thị trường việc làm.

Mọi doanh nghiệp đều muốn thuê những nhân tài giỏi nhất, nhưng họ không ở vị trí độc tôn. Các ứng viên xin việc có xu hướng ưu tiên các doanh nghiệp hoạt động phát triển và có những chính sách đại ngộ cho nhân viên. Chiến lược tuyển dụng thông minh giúp doanh nghiệp khác biệt với các đối thủ cạnh tranh. Cách tiếp cận tuyển dụng khác nhau thúc đẩy sự sáng tạo của doanh nghiệp trên thị trường việc làm.

MỤC TIÊU KHÓA HỌC

  • Hiểu rõ vai trò của tuyển dụng và đào tạo đội ngũ nhân sự
  • Lên kế hoạch tuyển dụng và xác định các mục tiêu tìm kiếm nhân sự
  • Xây dựng các kênh marketing truyền thông về thương hiệu tuyển dụng của doanh nghiệp

NỘI DUNG KHÓA HỌC

HPM xây dựng chương trình đào tạo và thiết kế phương pháp giảng dạy phù hợp với mục tiêu đào tạo và đặc thù riêng của từng doanh nghiệp, từng lĩnh vực kinh doanh hoạt động. Chính vì vậy, ngay sau khi kết thúc chương trình đào tạo, học viên có thể áp dụng ngay được các kiến thức và kỹ năng được học để áp dụng vào công việc.

ĐỘI NGŨ CHUYÊN GIA

Giảng viên là các chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong các lĩnh vực: TS. Lê Thẩm Dương, TS. Hoàng Trung Dũng, TS. Lê Đỗ Duy Ân, TS. Vũ Hữu Kiên, CEO Nguyễn Tuấn Anh, CEO Nguyễn Hữu Thái Hòa, GV. Trần Thị Minh Hải, Ths. Nguyễn Dương, TS. Đỗ Tiến Long, TS. Phan Tất Thứ, Ths. Phan Thanh Tùng, CG. Lê Phúc Khánh, TS. Đào Xuân Khương, CEO Phạm Duy Hiếu, CEO Đỗ Xuân Tùng..

HÌNH ẢNH ĐÀO TẠO TẠI CÁC DOANH NGHIỆP

Chính sách tuyển dụng phù hợp với toàn cầu hóa năm 2024

Chính sách tuyển dụng phù hợp với toàn cầu hóa năm 2024

Chính sách tuyển dụng phù hợp với toàn cầu hóa năm 2024

Chính sách tuyển dụng phù hợp với toàn cầu hóa năm 2024

TẠI SAO NÊN CHỌN HỌC VIỆN ĐÀO TẠO DOANH NHÂN HPM?

HPM – là một tổ chức đào tạo doanh nhân, doanh nghiệp có chất lượng hàng đầu Việt Nam về cả nội dung chương trình, chất lượng giảng viên và tính chuyên nghiệp trong tổ chức.

Thế mạnh của HPM là đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp, đa dạng nhiều lĩnh vực, đủ sức tư vấn cho các tổng công ty và tập đoàn lớn tới những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sự khác biệt của HPM chính là đội ngũ giảng viên, phần lớn đều là các CEO đã và đang điều hành tại các tổng công ty và tập đoàn lớn trong nước và Quốc tế, vì vậy các chương trình đào tạo của HPM đều mang tính thực tiễn và ứng dụng cao.

HPM thường xuyên tổ chức các chương trình đào tạo kỹ năng cho doanh nghiệp: Giám đốc điều hành chuyên nghiệp CEO, Giám đốc nhân sự chuyên nghiệp CPO, Giám đốc kinh doanh chuyên nghiệp CCO, Giám đốc tài chính CFO và hơn 200 chuyên đề đào tạo các kỹ năng lãnh đạo, quản trị, điều hành, làm việc cho các doanh nghiệp.

Đã có hàng ngàn doanh nhân, giám đốc, lãnh đạo các doanh nghiệp tham dự các chương trình đào tạo giám đốc của HPM và gần 5000 cán bộ quản lý các doanh nghiệp tham gia các chương trình đào tạo kỹ năng quản lý, kỹ năng làm việc do HPM tổ chức.

Ngoài ra HPM còn là đối tác đào tạo thường xuyên của hàng trăm doanh nghiệp lớn trên toàn quốc. Những chương trình đào tạo inhouse cho từng doanh nghiệp sẽ được khảo sát kỹ lưỡng và thiết kế thực tế theo đúng nhu cầu, mô hình hoạt động của doanh nghiệp.

Toàn cầu hóa đã trở thành xu hướng tất yếu của thời đại, mở ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên khi một thế giới bao gồm đa dạng các quốc gia, dân tộc với sự phức tạp, muôn màu của các nền kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội khác nhau thì toàn cầu hóa sẽ mở ra rất nhiều cơ hội và thách thức không nhỏ - đây là tính hai mặt của toàn cầu hóa. Trước xu hướng chung của thế giới, quá trình toàn cầu hóa đã mang lại nhiều cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở nước ta, là một trong những nhân tố để cơ cấu lại và hiện đại hoá nền kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, làm tăng năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người lao động.

Từ khóa: Toàn cầu hóa; nguồn nhân lực; đào tạo

  1. Toàn cầu hóa là gì? Toàn cầu hóa là vấn đề đã trở nên quen thuộc với tất cả các quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Về cơ bản, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Có nhiều khái niệm về toàn cầu hoá: Theo Nguyễn Văn Dân (2001) toàn cầu hóa là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau do tính năng động của việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ cũng như do tính năng động của sự lưu thông vốn tư bản và công nghệ. 1 Toàn cầu hóa là sự tăng cường các mối quan hệ xã hội trên toàn thế giới liên kết những địa điểm xa xôi theo một cách mà những sự kiện xảy ra ở nơi này được định hình bởi những sự kiện đang xảy ra ở nơi khác cách đó nhiều dặm và ngược lại. 2 Toàn cầu hóa là quá trình chuyển dịch đến một thị trường quốc tế hợp nhất hơn

1 Nguyễn Văn Dân (Chủ biên), (2001), Những vấn đề cơ bản của toàn cầu hóa kinh tế, Nxb KHXH. 2 Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (2005), Toàn cầu hóa, chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa chiều, Nxb Thế giới.

và phụ thuộc vào nhau hơn. 3 Theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: “Toàn cầu hoá là sự tự do hoá thương mại, thị trường. Toàn cầu hoá là tiến trình toàn cầu hoá về kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội được đẩy nhanh bởi công nghệ tin học và viễn thông”. 2. Vấn đề toàn cầu hóa hiện nay 2. Tính tất yếu của quá trình toàn cầu hoá Toàn cầu hoá đã và đang là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của thế giới. Với quá trình phân công lao động quốc tế càng ngày đi vào chiều sâu và sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Quá trình này được thể hiện rất rõ trong sự gia tăng rất nhanh của trao đổi quốc tế về thương mại, dịch vụ tài chính. Cùng với sự hình thành các khu thương mại tự do và các khối liên kết trên thế giới như các tổ chức: Tổ chức Thương mại Thế gới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), ... thế giới đang sống trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Toàn cầu hoá tạo ra những quan hệ kinh tế gắn bó, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, nó giúp các quốc gia trên thế giới hiểu biết nhau, bổ xung và hỗ trợ cho nhau. Tuy nhiên, toàn cầu hoá có tính chất hai mặt, nó vừa mang tính hợp tác, vừa mang tính cạnh tranh giữa các quốc gia không chỉ giữa các nước phát triển với nhau mà cả giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển. Vì thế, toàn cầu hóa tạo ra cho các quốc gia những cơ hội và thách thức trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Đối với Việt Nam, nhận thức được xu hướng tất yếu của toàn cầu hoá nên đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để có thể tạo ra nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trực tiếp. Khi đó cầu về lao động sẽ

3 Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên), (2009) Giáo trình Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb ĐHQGHN.

Thứ hai, đối với số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp có phương pháp quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại ở trong và ngoài nước, qua quá trình làm việc họ đã học tập, tiếp thu thêm về tay nghề, năng lực quản lý và tác phong làm việc hiện đại. Bên cạnh đó toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đã làm bộc lộ những hạn chế của lực lượng lao động Việt Nam. Đó là nghịch lý thừa lao động trên thị trường lao động nhưng vẫn thiếu cục bộ đối với một số ngành nghề đang có nhu cầu tại một số khu chế xuất, khu công nghiệp và đặc biệt là đối với thị trường lao động ngoài nước. 3. Những bất cập trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu quan trọng, cũng còn không ít những hạn chế, bất cập và đứng trước những thách thức không nhỏ. Những thành tựu quan trọng là đã hình thành được thị trường lao động với sự nỗ lực của cả 3 chủ thể: Nhà nước tạo cơ chế; các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thu hút, tạo việc làm; người lao động chủ động tìm việc làm. Số lượng lao động đang làm việc trong 20 năm qua đã tăng gần một triệu người/năm, với số người được giải quyết việc làm cao gấp rưỡi số đó. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ trên dưới 13% xuống còn dưới 4,5%. Cơ cấu lao động theo nhóm ngành đã chuyển dịch theo hướng: Tỷ trọng lao động của nông - lâm - thủy sản đã giảm từ 73% xuống còn 48,2%; công nghiệp - xây dựng tăng từ 11,2% lên 22,4%; dịch vụ tăng từ 15,8% lên 29,4%... 4 Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp và đây là yếu tố cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhất là về chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh; là nguyên nhân sâu xa, là yếu tố tiềm ẩn của lạm phát; là một trong những yếu tố làm mất cân đối kinh tế vĩ mô (nhập siêu, thâm hụt cán cân thanh toán), là lực cản của thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán của dân cư.

4 chinhphu

  1. Chất lượng lao động chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế Hiện nay, quy mô lao động qua đào tạo và chất lượng lao động chuyên môn kỹ thuật của chúng ta vẫn còn có khoảng cách so với với các nước có nền công nghiệp hoá và các nước phát triển. Thị trường lao động chưa đáp ứng được yêu cầu lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao của các doanh nghiệp, tổ chức, kể cả doanh nghiệp FDI. Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu vực FDI và xuất khẩu lao động còn gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao để đáp ứng chuyển giao khoa học và công nghệ mới từ nước ngoài. Bên cạnh đó chất lượng nguồn lao động xuất khẩu tuy có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu của các nước trong khu vực và thế giới. Nhìn chung lao động Việt Nam còn yếu về ngoại ngữ, thiếu hiểu biết về luật pháp và văn hóa của quốc gia đến làm việc. Do đó đòi hỏi lao động Việt Nam phải được đào tạo đầy đủ, bài bản về ngoại ngữ, luật pháp, văn hóa và tác phong làm việc để có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của nước ngoài.
  2. Mất cân đối giữa cung và cầu lao động chuyên môn kỹ thuật Toàn cầu hoá kinh tế tác động đến sự phát triển một số ngành nghề mới tạo ra xu hướng đào tạo chạy theo thị hiếu của người lao động, thiếu định hướng, phân luồng, dẫn đến hậu quả là đào tạo chưa gắn vào nhu cầu của các khu vực kinh tế và các ngành, mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo. Số liệu tính đến tháng 12 năm 2014 cho thấy số lượng sinh viên phân theo nhóm ngành đào tạo như sau: Nhóm ngành kỹ thuật công nghệ với tỷ lệ 32,78%; nhóm ngành kinh tế chiếm tỷ lệ 27,72%; nhóm ngành sư phạm chiếm tỷ lệ 17,68%; nhóm ngành nông - lâm ngư nghiệp chiếm tỷ lệ 8,67%; nhóm ngành xã hội nhân văn chiếm 7,15%; nhóm ngành khoa học tự nhiên chiếm tỷ lệ 2,72%; nhóm ngành y - dược chiếm tỷ lệ 2,02% và cuối cùng là nhóm ngành nghệ thuật, thể dục thể thao chiếm tỷ lệ 1,26%. 5 Thực tế này tạo ra tình trạng cung lao động chuyên môn kỹ thuật cao hơn nhiều so với cầu lao động đối với một số ngành nghề, lĩnh vực. Đặc biệt, nước ta thiếu hụt nguồn cung lao động xuất khẩu có trình độ chuyên

5 thuchienuocmo/vi/thong-tin-tin-tuc/298/Xu-huong-nganh-nghe-hot-2015.html?menu=news

kinh doanh, điện tử, điện lạnh, xây dựng, du lịch, cơ khí chế tạo và sửa chữa, điện công nghiệp.... Tình trạng thất nghiệp của lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật tại các thành phố lớn khá phổ biến. Trong khi đó, tại nhiều địa phương (đặc biệt là các vùng núi phía Bắc, các tỉnh Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long...) thiếu các cơ sở đào tạo, dạy nghề và thiếu lao động có chuyên môn kỹ thuật. Các chính sách thị trường lao động chưa có tác dụng nhiều đối với vùng, địa phương thiếu nhân lực chuyên môn lành nghề và lành nghề cao. 4. Một số giải pháp đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh toàn cầu hóa Trong bối cảnh toàn cầu hoá, thị trường lao động đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc sàng lọc và đánh giá chất lượng đào tạo. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực cần có cách tiếp cận mới, trong đó nhấn mạnh đến năng lực giải quyết vấn đề trong những hoàn cảnh không chắc chắn và hay thay đổi. Điều này đòi hỏi đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu toàn cầu hoá cần có các giải pháp cụ thể cho từng khu vực. 4. Đào tạo nhân lực đáp ứng các khu công nghiệp, khu chế xuất Để đảm bảo các khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển có hiệu quả phải đẩy mạnh đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề. Cần tổ chức các cơ sở dạy nghề bên cạnh các khu công nghiệp, khu chế xuất. Thiết lập các mối quan hệ chặt chẽ và thường xuyên giữa các cơ sở đào tạo và dạy nghề với doanh nghiệp tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hoàn thiện thể chế thị trường lao động, đặc biệt là các hoạt động hướng nghiệp, dịch vụ giới thiệu và tư vấn việc làm, hội chợ việc làm, tăng cường thông tin và khả năng tiếp xúc giữa doanh nghiệp và người lao động. 4. Đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài tiếp tục được coi là nguồn vốn quan trọng cho thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư nước ngoài sẽ có điều kiện tiếp nhận các công nghệ mới, kỹ thuật mới từ các nước phát triển. Mặc dù các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thu hút số lượng lao động vào làm việc không lớn, song tỷ trọng lao động qua đào tạo lại cao hơn khá nhiều các khu vực (thành phần) kinh tế

khác. Để có thể cung cấp đủ lao động qua đào tạo cho các doanh nghiệp khu vực FDI, các địa phương có các dự án FDI cần có kế hoạch đào tạo nhân lực kịp thời theo từng loại ngành nghề, đảm bảo chất lượng để cung ứng kịp thời cho các doanh nghiệp. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp FDI tổ chức đào tạo nghề theo yêu cầu nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình. Thiết lập mối quan hệ thường xuyên và có hiệu quả giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp FDI cũng như cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. 4. Đào tạo nhân lực cho phát triển các lĩnh vực công nghệ cao Đặc điểm sử dụng lao động của các khu công nghệp cao là tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên rất lớn và sử dụng ít lao động qua đào tạo nghề. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi các cơ sở đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ cao như: về vốn, thuế, mặt bằng, về đào tạo giáo viên, về nhập khẩu các phương tiện giảng dạy và nghiên cứu. Cần có chính sách ưu đãi và khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài vào đào tạo, nghiên cứu, sản xuất thử và huấn luyện cho lao động Việt Nam. 4. Đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở nông thôn Để tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội được học tập, đào tạo chuyên môn và nâng cao tay nghề, trước hết chính quyền địa phương phải tổ chức hệ thống các cơ sở trường, trung tâm dạy nghề... Khuyến khích mọi tổ chức và cá nhân có điều kiện cùng tham gia đào tạo và dạy nghề, trên cơ sở Nhà nước quản lý và giám sát chặt chẽ nội dung và chất lượng đào tạo. Tổ chức nhiều hình thức đào tạo khác nhau như đào tạo tập trung, vừa học vừa làm ... Để mọi người lao động có cơ hội tham gia học nghề. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách, biện pháp khuyến khích ưu đãi đối với con em nông dân về học nghề như miễn giảm học phí, cấp phát tài liệu, hỗ trợ kinh phí ăn ở, đi lại ... Phát triển các trung tâm, cơ sở dạy nghề tại các huyện để lao động nông thôn có điều kiện thuận lợi trong tiếp cận với dịch vụ đào tạo nghề. Tại các trung tâm giáo dục

công nghệ hiện đại Cần phải có nhiều các chương trình hợp tác phát triển nguồn nhân lực với các tổ chức đào tạo, các nước phát triển để trao đổi, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Trong những năm qua Nhà nước đã quan tâm, đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao như: Đề án 165, đề án 911, học bổng Chính phủ, ... Xây dựng các Trung tâm chuyển giao tri thức, tư vấn nhân lực quốc tế để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sử dụng nhân lực chất lượng cao của các nước trên thế giới và khu vực có hợp tác, đặt trụ sở kinh doanh tại Việt Nam. 4. Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực Tiếp tục hoàn thiện chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực khu vực nông nghiệp, nông thôn; chính sách về thu hút giáo viên, giảng viên cho các trường dạy nghề; chính sách về thuế cho các cơ sở đào tạo ... Cần có chính sách ưu tiên, thu hút học sinh vào học các nghề khó thu hút học sinh trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, đặc biệt là các nghề hiện đang có mức tiền lương thấp, các nghề nặng nhọc, độc hại... Nghiên cứu xây dựng và ban hành danh mục về các cấp bậc, trình độ chuyên môn kỹ thuật nghề qua đào tạo phù hợp với danh mục nghề chung của các nước trong khu vực và thế giới. Điều này giúp cho chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên, lao động Việt Nam dễ dàng được tuyển dụng vì chứng chỉ, bằng cấp tương đồng với khu vực, thế giới.

Toàn cầu hoá hiện nay đang diễn ra với những n t khác biệt hết sức lớn so với các giai đoạn trước mà nhân loại đã từng chứng kiến. Nó phản ánh xu thế khách quan, tiến lên của lịch sử nhân loại, xu thế hợp tác để cùng phát triển giữa các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, văn hoá đến chính trị. Nó là kết quả của sự phát triển mang tính đột biến của khoa học và công nghệ cao, trước hết là công nghệ thông tin đồng thời là sản phẩm của kinh tế thị

trường hiện đại. Bên cạnh những lợi thế, toàn cầu hóa cũng mang lại những thách thức đối với vấn đề lao động, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta đặc biệt là cho các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, các loại hình dịch vụ hiện đại. Lao động Việt Nam còn phải khắc phục những bất cập theo chuẩn mực lao động của khu vực và quốc tế để có đủ điều kiện tham gia hội nhập.

Đi liền với toàn cầu hóa là sự cạnh tranh khốc liệt trên phạm vị toàn cầu, trên cả hai cấp độ là giữa các quốc gia và giữa các tổ chức, doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh được quyết định bởi năng lực tạo ra giá trị tăng thêm của các sản phẩm, dịch vụ và các quá trình hoạt động của mỗi quốc gia nói chung và của từng doanh nghiêp nói riêng. Đóng góp chủ yếu vào điều này phụ thuộc vào kiến thức và các kỹ năng của lực lượng lao động. Trên thực tế sự nghiệp giáo dục, đào tạo và năng lực của lực lượng lao động sẽ là vũ khí cạnh tranh quan trọng trong thế kỷ XXI./.