Cơ cấu của xã hội học pháp luật

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘIGIÁO TRÌNHXÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬTHà Nội, 2018Chủ biênTS. PHAN THỊ LUYỆNTập thể tác giả1.TS. PHAN THỊ LUYỆN Chương 1,3,4,5,6 và 72.PGS.TS. HOÀNG THỊ NGA Chương 2LỜI NÓI ĐẦUXã hội học pháp luật là lĩnh vực khoa học nghiên cứu liên ngành. Xã hội họcpháp luật tiếp cận nghiên cứu pháp luật với ý nghĩa là một hiện tượng xã hội, cóquá trình phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xãhội, chịu sự tác động của xã hội. Bước sang thế kỷ XXI, cùng với sự phát triểncủa khoa học kỹ thuật, quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động đến cáclĩnh vực của đời sống xã hội trong đó pháp luật. Thực tiễn đang đặt ra nhiều vẫnđề mới đòi hỏi phải giải quyết các mâu thuẫn giữa việc đảm bảo tính ổn định củatrật tự pháp luật với sự cần thiết thay đổi trong pháp luật. Các nghiên cứu xã hộihọc pháp luật cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp cho việc nhận thức mộtcách khách quan, toàn diện các vấn đề xã hội của pháp luật góp phần giải quyếtnhững mâu thuẫn đặt ra từ thực tiễn.Giáo trình Xã hội học pháp luật được biên soạn nhằm trang bị kiến thức kháiquát cho người học về ba nội dung cơ bản của xã hội học pháp luật. Nội dung thứnhất liên quan đến các vấn đề về lịch sử hình thành xã hội học pháp luật; đốitượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và các chức năng cơ bản của xã hộihọc pháp luật. Nội dung thứ hai xem xét tính quy định xã hội của pháp luật thôngqua mối liên hệ giữa pháp luật với cơ cấu xã hội và chuẩn mực xã hội. Nội dungthứ ba về các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động thựchiện pháp luật và hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật.Giáo trình là tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy và học tập môn xã hội họcpháp luật. Đây là công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc. Mặc dù đã hết sứccố gắng, song giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong đồngnghiệp và bạn đọc đóng góp ý kiến để giáo trình được hoàn thiện hơn.TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘIMỤC LỤCChương 1. NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬTI. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘIHỌC PHÁP LUẬT1. Điều kiện xuất hiện xã hội học pháp luật ...................................................... 52. Quan điểm của một số trường phái xã hội học pháp luật tiêu biểu ............... 7II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật.......................................... 292. Phương pháp nghiên cứu của xã hội học pháp luật…………………….37III. CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT1. Chức năng nhận thức ................................................................................... 382. Chức năng thực tiễn..................................................................................... 393. Chức năng dự báo ........................................................................................ 40Chương 2. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬTI. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH MỘT CUỘC ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC1. Giai đoạn chuẩn bị [gồm 9 bước] ................................................................ 442. Giai đoạn tiến hành thu thập thông tin [gồm 6 bước] ................................. 603. Xử lý và phân tích thông tin ........................................................................ 62II. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN THÔNG TIN THÔNGDỤNG TRONG ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT1. Phương pháp phân tích tài liệu .................................................................... 652. Phương pháp quan sát ................................................................................. 693. Phương pháp phỏng vấn .............................................................................. 734. Phương pháp ankét – trưng cầu ý kiến ........................................................ 795. Phương pháp thực nghiệm........................................................................... 81Chương 3. MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ CƠ CẤU XÃ HỘII. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA PHÁP LUẬT1. Khái niệm pháp luật trong xã hội học pháp luật ......................................... 852. Bản chất xã hội của pháp luật...................................................................... 93II. CƠ CẤU XÃ HỘI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ CẤU THÀNH CƠ CẤU XÃ HỘI1. Khái niệm cơ cấu xã hội [social structure] ................................................. 962. Một số yếu tố cấu thành cơ cấu xã hội ........................................................ 97III. PHÁP LUẬT TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI CÁC PHÂN HỆ CỦA CƠ CẤUXÃ HỘI1. Pháp luật trong mối liên hệ với cơ cấu xã hội - nhân khẩu [dân số]......... 1012. Pháp luật trong mối liên hệ với cơ cấu xã hội - lãnh thổ .......................... 1133. Pháp luật trong mối liên hệ với cơ cấu xã hội - dân tộc............................ 1184. Pháp luật trong mối liên hệ với cơ cấu xã hội - nghề nghiệp ................... 121IV. PHÁP LUẬT VÀ VẤN ĐỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI1. Khái niệm, các kiểu phân tầng xã hội ....................................................... 1232. Pháp luật với các vấn đề nảy sinh từ phân tầng xã hội, bất bình đẳng xã hội,bảo đảm an sinh xã hội .................................................................................. 126Chương 4. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VỚI CHUẨN MỰC XÃHỘII. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHUẨN MỰC XÃ HỘI1. Khái niệm chuẩn mực xã hội .................................................................... 1292. Các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội............................................. 129II. MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VỚI CÁC CHUẨN MỰC XÃ HỘI1. Mối liên hệ giữa pháp luật với chuẩn mực chính trị ................................. 1312. Mối liên hệ giữa pháp luật và chuẩn mực chính trị .................................. 1333. Mối liên hệ giữa pháp luật với chuẩn mực tôn giáo ................................. 1344. Mối liên hệ giữa pháp luật với chuẩn mực đạo đức .................................. 1385. Mối liên hệ giữa pháp luật với chuẩn mực phong tục tập quán ................ 1416. Mối liên hệ giữa pháp luật với chuẩn mực thầm mỹ ................................ 145Chương 5. CÁC KHÍA CẠNH XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNGPHÁP LUẬTI.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT1. Khái niệm .................................................................................................. 1492. Chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật ............................................... 1503. Quy trình xây dựng pháp luật.................................................................... 151II. CÁC KHÍA CẠNH XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT1. Mối quan hệ xã hội với hiện thực xã hội .................................................. 1532. Khảo sát xã hội học thu thập thông tin...................................................... 1553. Sự tham gia của nhiều chủ thể vào hoạt động xây dựng pháp luật ........... 1584. Đảm bảo sự định hướng chính trị của chính đảng cầm quyền .................. 161III. CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNGPHÁP LUẬT1.Trình độ, kỹ năng soạn thảo các dự án luật ............................................... 1632. Thông tin đại chúng................................................................................... 1633. Dư luận xã hội ........................................................................................... 165IV. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG XÂYDỰNG PHÁP LUẬT1. Tăng cường công tác thẩm tra các dự án luật bằng công cụ xã hội học .........…………………………………………………………………………….1672. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng và các chủ thểtham gia hoạt động xây dựng pháp luật ........................................................ 1693. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động xây dựng pháp luật trướcyêu cầu mở rộng nền dân chủ xã hội và phát triển bền vững........................ 171Chương 6. CÁC KHÍA CẠNH XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆNPHÁP LUẬTI. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT . 172II. CÁC KHÍA CẠNH XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT[đối với các hình thức tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng phápluật] ............................................... 1751. Sự phù hợp giữa các quy tắc của chuẩn mực pháp luật với các lợi ích của chủthể thực hiện pháp luật .................................................................................. 1752. Cơ chế thực hiện pháp luật ........................................................................ 1763. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện pháp luật ............. 181III. CÁC KHÍA CẠNH XÃ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT1. Mối quan hệ giữa chính trị và áp dụng pháp luật ...................................... 1902. Mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và quyết định áp dụng pháp luật 1933. Vai trò của các nhân tố chủ quan trong hoạt động áp dụng pháp luật ...... 1964. Vai trò của các nhân tố khách quan trong hoạt động áp dụng pháp luật .. 199IV. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNGTHỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY1. Nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể thực hiện pháp luật ............... 2022. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công táctuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân ........ 2043. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt độngthực hiện pháp luật ........................................................................................ 2074. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kĩ năng nghiệp vụ, nâng cao ý thứcpháp luật nghề nghiệp cho cán bộ các cơ quan áp dụng pháp luật ............... 2095. Thông báo công khai kết quả hoạt động áp dụng pháp luật trên các phươngtiện thông tin đại chúng ................................................................................. 211Chương 7. SAI LỆCH CHUẨN MỰC PHÁP LUẬTI. KHÁI NIỆM SAI LỆCH CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT1. Khái niệm sai lệch chuẩn mực xã hội ....................................................... 2142. Sai lệch chuẩn mực pháp luật.................................................................... 2163. Phân loại hành vi sai lệch .......................................................................... 2171. Một số nguyên nhân dẫn đến hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật ........ 2192. Một số lý thuyết lý giải về nguyên nhân của hành vi sai lệch .................. 221III. HIỆN TƯỢNG TỘI PHẠM1. Khái niệm .................................................................................................. 2272. Các đặc trưng cơ bản của hiện tượng tội phạm......................................... 2273. Các mô hình nghiên cứu xã hội học pháp luật về hiện tượng tội phạm ... 230IV. CÁC BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM VÀ CÁCHÀNH VI SAI LỆCH CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT1. Biện pháp tiếp cận thông tin...................................................................... 2372. Biện pháp phòng ngừa xã hội.................................................................... 2383. Biện pháp áp dụng hình phạt ..................................................................... 2414. Biện pháp tiếp cận y sinh học ................................................................... 2425. Biện pháp tiếp cận tổng hợp và kế hoạch hóa xã hội ................................ 244DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢOChương 1NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬTI. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘIHỌC PHÁP LUẬT1. Điều kiện xuất hiện xã hội học pháp luậtVào cuối thế kỉ XVIII, ở Tây Âu biến đổi xã hội diễn ra mạnh mẽ trên nhiềulĩnh vực khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội... Khoa học tự nhiên đạt được nhữngthành tựu lớn trong việc khám phá ra cấu trúc, thành phần của thế giới vật chất vàphát triển các phương pháp nghiên cứu thế giới vật chất một cách hệ thống. Điềuđó đã tác động đến các ngành khoa học xã hội. Phát minh của nhà vật lí họcNewton khiến các nhà khoa học xã hội hi vọng sẽ tìm ra được một nguyên lí vềmột trật tự cân bằng, những cơ chế về lực hấp dẫn tương tự trong xã hội. Nhà khaisáng Montesquieu trong cuốn “Tinh thần pháp luật” đưa ra các thuật ngữ có tínhcơ học để lí giải về các hình thức nhà nước phụ thuộc vào các cơ chế vận hành vàxem các hình thức đó có hoạt động theo đúng bản chất của nó không. Tinh thầnpháp luật của một quốc gia có thể tạo ra một sự phục hưng và làm cho bộ máynhà nước hoạt động trở lại để có thể tiếp tục sự vận động đều đặn. Như vậy, tínhchất khách quan của các quy luật nảy sinh từ bản chất của sự vật.Đồng thời với sự phát triển mạnh của khoa học, những biến đổi về chính trịảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội. Cuộc cách mạng tư sản đã làm thay đổi trật tự xãhội phong kiến đã tồn tại hàng trăm năm trước đó, thay thế vào đó là một trật tựxã hội mới. Dưới tác động của tự do hóa thương mại, thị trường mở rộng, hàngloạt các tập đoàn kinh tế, nhà máy, xí nghiệp ra đời thu hút lao động từ nông thônra các đô thị. Nền sản xuất công nghiệp với quy mô lớn đòi hỏi mở rộng thị trườngtiêu thụ sản phẩm và hàng hóa công nghiệp. Quá trình đô thị hóa đẩy mạnh cùngvới sự tích tụ dân cư. Những biến đổi về kinh tế kéo theo những thay đổi sâu sắctrong đời sống xã hội. Gia đình bị chia rẽ do các cá nhân rời bỏ cộng đồng ra khuvực đô thị làm việc và sinh sống. Các giá trị văn hóa truyền thống thay đổi các cá5nhân bị cuốn hút vào các hoạt động kinh tế với lối sống mang tính cạnh tranh, tìnhtrạng thất nghiệp, tệ nạn xã hội và tội phạm gia tăng. Sự chuyển hóa cơ cấu kinhtế dựa trên cạnh tranh tự do thành độc quyền diễn ra nhanh, các quan hệ xã hộimới hình thành. Trong khi đó, pháp luật lại thay đổi một cách chậm chạp và vẫncòn phản ánh các quan hệ xã hội cũ không còn thích hợp để giải quyết các vấn đềxã hội mới nảy sinh.Sự khủng hoảng bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế,chính trị, hệ tư tưởng, văn hóa. Nảy sinh nhu cầu làm cho cơ chế pháp luật thíchnghi với những điều kiện xã hội mới. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến toàn bộhệ thống pháp luật cũng như tư duy pháp lí truyền thống. Trường phái pháp luậtthực chứng [legal positivism] hiện thời không thể lí giải được hết nội dung cũngnhư chức năng của pháp luật. Bởi pháp luật không chỉ là hệ thống quy tắc xử sựdo nhà nước ban hành hoặc thừa nhận đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước. Điềuđó không có nghĩa là phủ nhận tính quy phạm hình thức của pháp luật, tuy nhiên,nếu chỉ hiểu pháp luật như vậy sẽ không phù hợp và khó có câu trả lời chính xáccho nhiều vấn đề hóc búa đang hình thành trong xã hội như: những mâu thuẫn vàxung đột xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội, về mối quan hệ giữa nhà nướcvà xã hội, làm thế nào để bảo đảm pháp chế, trật tự pháp luật, bằng phương phápluận hình thức của pháp luật thực chứng thì khó có thể đưa ra những luận cứ chosự xuất hiện, tồn tại và phát triển của nhà nước pháp quyền... Pháp luật theo quanđiểm thực chứng là pháp luật “chết”, “pháp luật trên giấy tờ”, tách rời khỏi xã hội,trừu tượng khó hiểu, không phản ánh được nhu cầu, ý nguyện và lợi ích của xãhội và như vậy pháp luật không thể hiện đúng chức năng vốn có của nó. Pháp luậtphải được xem xét là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan mà con người cóthể quan sát, nhận thức và mô tả được.Như vậy, sự xuất hiện và phát triển hệ thống kinh tế tư bản đã làm xáo trộnđời sống kinh tế - xã hội của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội. Từ đó nảysinh nhu cầu thực tiễn phải thiết lập lại trật tự xã hội và nhu cầu nhận thức để giảiquyết những vấn đề pháp lí nảy sinh. Xã hội học pháp luật ra đời vào cuối thế kỉ6XIX đã góp phần giải quyết những vấn đề của thực tiễn pháp lí và phát triển mạnhvào đầu thế kỉ XX.Xã hội học pháp luật là lĩnh vực nghiên cứu giáp ranh liên ngành giữa xã hộihọc và luật học. Ngay từ khi ra đời, đã có những tranh luận về nguồn gốc của xãhội học pháp luật, đó là môn khoa học pháp lí hay khoa học xã hội học? Có sựtranh luận vì các nghiên cứu về xã hội học pháp luật đầu tiên gắn với tên tuổi củacác nhà luật học như Eugen Ehrlich, Leon Petrazycki, Roscoe Pound... Tuy nhiên,không thể nghiên cứu xã hội học pháp luật mà chỉ dựa trên nền tảng tri thức củamột lĩnh vực xã hội học hay luật học vì xã hội học pháp luật nghiên cứu các khíacạnh xã hội của pháp luật. Pháp luật ở đây được xem xét là một hiện tượng xã hội,có quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xãhội, chịu sự tác động của xã hội. Xã hội học pháp luật tiếp cận nghiên cứu phápluật trên nền tảng tri thức và phương pháp xã hội học, trên cơ sở đó phát triển cáclí thuyết tổng quát giải thích quá trình xã hội liên quan đến pháp luật và tiến hànhnghiên cứu thực nghiệm, phân tích mối tương quan giữa các sự kiện, hiện tượngpháp lí và xã hội. Từ đó tìm ra những nguyên nhân và tác động của các hiện tượngxã hội khác đến pháp luật. Mặt khác, pháp luật ra đời là để điều chỉnh các mốiquan hệ xã hội do đó pháp luật tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vớicách tiếp cận trên, theo quan điểm của chúng tôi, xã hội học pháp luật được địnhnghĩa như sau:Xã hội học pháp luật là ngành xã hội học chuyên biệt nghiên cứu các quyluật xã hội, các quá trình xã hội của quá trình phát sinh, tồn tại, hoạt động củapháp luật trong xã hội, trong mối liên hệ với các loại chuẩn mực xã hội khác,nguồn gốc, bản chất, các chức năng xã hội của pháp luật; các khía cạnh xã hộicủa hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và các sự kiện, hiện tượngpháp lí thể hiện trong hoạt động của các chủ thể pháp luật.2. Quan điểm của một số nhà xã hội học pháp luật tiêu biểuvà tình hìnhnghiên cứu xã hội học pháp luật ở Việt Nam.2.1. Quan điểm của một số nhà xã hội học pháp luật châu Âu7Mặc dù các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng xã hội học pháp luật ra đờiở châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, nhưng những tiền đề về tư tưởng cho sự hìnhthành xã hội học pháp luật được bắt đầu từ thế kỉ trước.De La Brède - Montesquieu [1689 - 1755] là nhà tư tưởng người Pháp. Tácphẩm “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu xuất bản năm 1748 là cơ sở cho cácnghiên cứu xã hội học pháp luật. Theo ông, các luật lệ phải được xem xét như làcác sự kiện. Từ việc nghiên cứu các sự kiện giúp chúng ta khám phá ra nguyênnhân của các sự kiện đó. Ông muốn nghiên cứu hệ thống pháp luật một cách kháchquan như sự tồn tại của các sự kiện xã hội khác. Ông cho rằng “trước khi luậtpháp được cấu thành, đã có những mối tương quan có thể được về công lí”.1“Luật, theo nghĩa rộng nhất, là những quan hệ tất yếu từ trong bản chất của sựvật. Với nghĩa này thì mọi vật đều có quy luật của nó”.2 Như vậy, trong phạm viluật pháp cũng có một định luật giống như định luật chi phối “bản chất của các sựvật”. Phương pháp thực nghiệm là phương pháp duy nhất đem lại kết quả chínhxác.Ông nghiên cứu pháp luật trong mối liên hệ với các hiện tượng xã hội khácnhư: chính trị, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc, dânsố, tiền tệ và ngay cả các yếu tố vật chất như khí hậu, đất đai… cũng tham gia vàosự hình thành pháp luật, trong đó chính trị là yếu tố quyết định đến pháp luật. Ôngphân chia xã hội Pháp thành ba tầng lớp: vua chúa, quý tộc và dân thường, quyềnlực nhà nước chia thành hai loại là chuyên chế và hành chính.Quyền lực hành chính được chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cácquyền này được phân lập, phụ thuộc vào nhau để ảnh hưởng sao cho không mộtquyền nào có thể vượt quá hai quyền còn lại và ba quyền này được giao cho bacơ quan khác nhau nắm giữ. Đây là quan điểm cấp tiến vì đã hoàn toàn loại bỏ bađẳng cấp thời bấy giờ là tăng lữ, quý tộc và những người dân còn lại được gọi làMontesquieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn - Khoa Luật,Hà Nội, 1996, tr. 2.2Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn - Khoa Luật,Hà Nội, 1996, tr. 39.18đẳng cấp thứ ba, tức là đã loại bỏ tàn tích của chế độ phong kiến.Ông chỉ ra có ba dạng nhà nước tồn tại dựa trên ba “nguyên tắc” xã hội làquân chủ [chính quyền được tự do do một người đứng đầu được thừa kế tức làvua hay nữ hoàng] dựa trên nguyên tắc danh dự; cộng hòa [chính quyền được tựdo do người đứng đầu được bầu ra lãnh đạo] dựa trên nguyên tắc đức hạnh; vàđộc tài [chính quyền bị kiểm soát bởi các nhà độc tài] dựa trên nỗi sợ hãi. Ôngcũng phân tích những luật lệ nào là cần thiết trong ba loại chính thể để khiến choquốc gia bảo tồn được sức mạnh trước các quốc gia khác. Theo ông, pháp luật làphương tiện hữu hiệu duy trì trật tự xã hội và chế ước quyền lực nhà nước. Tuynhiên, nền dân chủ pháp trị ấy chỉ mang ý nghĩa tích cực và phát huy tác dụng củanó phải dựa trên nguyên tắc đạo đức và lòng khoan dung, của tinh thần tráchnhiệm và sự hi sinh quyền lợi riêng tư cho mục đích chung.Đánh giá về giá trị của tác phẩm Tinh thần pháp luật: “Aron cho rằng chủđề của Tinh thần pháp luật là mục đích chính của xã hội học nó làm cho lịch sửcó thể hiểu được... Aron coi Montesquieu là một nhà xã hội học còn hơn cả Comtevà là một trong những nhà lí luận lớn nhất của bộ môn. Durkheim nhận xét: trongkhi xây dựng xã hội học, những thế hệ tiếp sau đã không làm gì nhiều hơn ngoàiviệc đặt tên cho lĩnh vực nghiên cứu mà Montesquieu đã mở đầu”.3Jean Jacques Rousseau [1712 - 1778] sinh tại Geneva, là nhà nghiên cứuthuộc trào lưu Khai sáng. Tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” ra đời năm 1762 lígiải về quá trình hình thành xã hội và nhà nước trên quan điểm của thuyết quyềntự nhiên và thỏa thuận xã hội.Theo ông, trật tự xã hội là một thứ quyền thiêng liêng làm nền tảng cho mọithứ quyền khác. Trật tự xã hội không phải tự nhiên mà có, nó được xác lập trêncơ sở các công ước. Công ước hình thành dựa trên nhu cầu tồn tại của con người.Để bảo vệ mình trước nguy cơ tha hóa của trạng thái tự nhiên thành trạng tháikhông còn luật pháp hay đạo đức, các cá nhân không còn cách nào khác là kết hợp3Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng, Lịch sử xã hội học, Nxb. Lí luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr. 18.9lại với nhau tạo thành một lực chung, điều khiển bằng một động cơ chung, khiếncho mọi người đều hành động một cách hài hòa. “Mỗi người chúng ta đặt mìnhvà quyền lực của mình dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung, và chúng tatiếp nhận mọi thành viên như một bộ phận không thể tách rời của toàn thể”.4 Trậttự xã hội do các quyết định của cá nhân tạo ra, cá nhân lại tự đặt mình dưới quyềncủa ý chí chung thể hiện trong khế ước.Trật tự xã hội không thể phục tùng cái gì khác ngoài sự tự do của con người.Trên cơ sở đó hình thành nên con người công cộng và đó chính là “Nhà nước”.Các cá nhân riêng lẻ được gọi là “công dân” khi phục tùng luật pháp. Nhà nướcđược tạo ra do sự đoàn kết của các thành viên trong xã hội. Nhà nước tồn tại thìphải có một lực lượng chung mang tính cưỡng chế để động viên, xếp đặt cho mỗibộ phận đều được thỏa đáng với toàn bộ. Thiên nhiên đã ban cho con người cáiquyền tuyệt đối sử dụng tứ chi, thì công ước xã hội cũng phải trao cho cơ thểchính trị cái quyền tuyệt đối với các thành viên của nó. Chính cái quyền tuyệt đốiấy được điều hành bằng ý chí chung, mang tên quyền lực tối cao. Các cá nhân traoquyền lực cho chính quyền - những người đại diện cho nguyện vọng và ý chíchung của quảng đại quần chúng. Tuy chính quyền chỉ là một phần nhỏ trong dânchúng nhưng là người nắm pháp luật, họ chính là các quan tòa - những người ápđặt việc thực hiện ý chí, nguyện vọng chung của nhân dân.Trong xã hội, pháp luật không những có vai trò quan trọng đối với việc xáclập quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi người, mà còn là cơ sở để đo lường sự phảitrái trong quan hệ giữa các thành viên xã hội và giữ cho xã hội trong vòng trật tự.Theo ông, luật bao giờ cũng là tổng quát chung cho mọi người và tất cả thần dânlà một cơ thể, mà trừu tượng hóa các hành động. Ý chí chung phản ánh lợiích chung của cộng đồng và chính lợi ích chung của cộng đồng phải trở thành nềntảng của luật pháp. Thế nhưng muốn thật sự là ý chí chung thì phải là ý chíchung từ trong đối tượng và trong bản chất của nó, phải từ tất cả và ứng dụng cho4J.J. Rousseau, Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lí luận chính trị, Hà Nội, 2006, tr. 68.10tất cả. Ý chí chung sẽ mất đi sự đúng đắn tự nhiên khi nó thiên về một đối tượngriêng lẻ nhất định. Dân chúng là những người phải tuân theo luật và là nhữngngười làm ra luật. Luật bao gồm ba loại: Luật cơ bản [luật chính trị], luật dân sựvà luật hình sự, ngoài ba loại đó còn một thứ quan trọng hơn cả là phong tục, tậpquán và dư luận xã hội, thứ luật này không khắc vào bảng đồng, bia đá mà khắcvào lòng dân tạo nên hiến pháp chân chính của quốc gia.Rousseau muốn xây dựng một thiết chế chính trị dựa trên quyết định tự docủa các cá nhân đó chính là khế ước xã hội. Theo ông, cơ thể chính trị có quyềnlực tối cao phải là một “con người tập thể” và “con người tập thể” này có quyềntuyệt đối đối với các thành viên của nó. Tuy nhiên, quyền lực tối cao không thểvượt qua giới hạn của công ước tổng quát, tức là không thể vi phạm những thoảthuận mà con người đã xác lập. Quyền lực tối cao là thống nhất không thể phânchia. Thống nhất vì nó là ý chí chung của nhân dân, đại diện và bảo vệ lợiích chung của nhân dân. Mặc dù ông phủ nhận quan điểm của Montesquieu vềviệc phân chia quyền lực thành các nhánh độc lập, nhưng Rousseau vẫn chủtrương phân chia chức năng của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện cácquyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quyền lập pháp luôn được thựchiện một cách trực tiếp bởi toàn thể nhân dân và không tách rời khỏi nhân dân.Karl Marx [1818 - 1883]. Khác với các nhà tư tưởng của trường phái phápquyền tự nhiên, Marx cho rằng pháp luật ra đời gắn liền với sự ra đời của nhànước. Pháp luật không tồn tại vào thời kì nguyên thủy, vì trong thời kì này trìnhđộ phát triển kinh tế còn thấp kém, chỉ có các tập quán, tôn giáo và quy phạm đạođức là phương tiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhưng khi chế độ tư hữuxuất hiện, xã hội phân chia thành giai cấp, giữa các giai cấp có sự mâu thuẫn gaygắt không điều hòa được, các chuẩn mực xã hội cũ không còn khả năng duy trìđược trật tự xã hội, cần có một loại chuẩn mực xã hội mới có tính cưỡng chế mạnhmẽ hơn, thể hiện ý chí giai cấp đó là pháp luật. Theo Marx, pháp luật là một thànhphần của kiến trúc thượng tầng của xã hội cùng với văn hóa, hệ tư tưởng... vàđược quyết định bởi điều kiện vật chất của xã hội. Pháp luật là những quy tắc phản11ánh phương thức sản xuất của xã hội. Trong các xã hội có giai cấp, pháp luật luônlà công cụ thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, thể hiện trực tiếpý chí của giai cấp thống trị. Luật pháp trong xã hội tư bản là không công bằng, dobản chất của xã hội là xung đột, vì xã hội được cấu thành bởi các giai cấp mâuthuẫn, đối lập với nhau về lợi ích. Xung đột sẽ dẫn đến các cuộc cách mạng, giaicấp vô sản sẽ đứng lên đấu tranh chiếm giữ tư liệu sản xuất và thiết lập nền chuyênchính của giai cấp mình và cuối cùng được thay thế bằng xã hội cộng sản - xã hộikhông có giai cấp, pháp luật cũng không còn cần thiết bởi nó là phương tiện củasự áp bức giai cấp và được sinh ra trong một xã hội có giai cấp.Kế tiếp những nghiên cứu nhằm tìm ra bản chất của pháp luật bằng cách quychiếu tới những điều kiện xã hội mà trong đó nó vận hành, phải kể đến hai nhà xãhội học nổi tiếng đó là Emile Durkheim và Max Weber.Emile Durkheim [1858 - 1917] là người khởi xướng xây dựng lí thuyết chứcnăng luận trong xã hội học, các công trình nghiên cứu của ông có ý nghĩa rất lớnvề lí thuyết và phương pháp đối với sự phát triển của xã hội học nói chung và xãhội học pháp luật nói riêng. Durkheim sống trong thời kì nước Pháp bị thất bạitrong cuộc chiến năm 1870, tiếp đó là cuộc nổi dậy và bị đàn áp đẫm máu côngxã Paris năm 1871. Do đó, các tác phẩm của ông tập trung vào việc tìm ra quyluật để thiết lập một trật tự xã hội. Mối quan tâm lớn nhất của Durkheim là cái gìđã gắn kết các xã hội lại với nhau? Tại sao chúng lại không tan rã? Theo ông,chính luật pháp có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và duy trì sự đoàn kết xãhội [social solidarity]. Ông chỉ ra rằng, khi xã hội tiến hóa từ thần quyền đến chủnghĩa thế quyền, từ chủ nghĩa tập thể đến chủ nghĩa cá nhân, luật pháp đã hướngtới sự bồi thường hơn là chỉ trừng phạt. Tuy nhiên, sự trừng phạt đóng vai trò quantrọng trong việc thể hiện thái độ chung về đạo đức nhờ đó sự đoàn kết xã hội đượcbảo toàn.Ông dùng khái niệm đoàn kết xã hội để chỉ các mối quan hệ giữa cá nhân vàxã hội, giữa các cá nhân với nhau. Nếu như không có sự đoàn kết xã hội thì cáccá nhân riêng lẻ, biệt lập không thể tạo thành xã hội với tư cách là một chỉnh thể.12Có hai kiểu đoàn kết xã hội là “đoàn kết cơ học” [mechanical solidarity] và “đoànkết hữu cơ” [organic solidarity]. Những hình thức của sự đoàn kết xã hội nàyđược phản ánh trong luật pháp: phân loại những luật pháp khác nhau, ta sẽ thấynhững kiểu đoàn kết xã hội tương ứng.Trong các xã hội cổ xưa, con người gắn bó với nhau bằng sự đoàn kết cơ họclà kiểu đoàn kết xã hội dựa trên sự thuần nhất, đơn điệu của các giá trị và niềmtin. Các cá nhân gắn bó với nhau vì sự kiềm chế mạnh mẽ từ phía xã hội và vìlòng trung thành của cá nhân đối với truyền thống, tập tục và quan hệ gia đình.Sức mạnh của ý thức tập thể có khả năng chi phối và điều chỉnh suy nghĩ, tìnhcảm và hành động của các cá nhân. Trong xã hội kiểu cơ học, quyền tự do, tinhthần tự chủ và tính độc lập của các cá nhân rất thấp. Sự khác biệt và tính độc đáocủa cá nhân là không quan trọng. Xã hội gắn kết kiểu cơ học thường có quy mônhỏ, nhưng ý thức cộng đồng cao, các chuẩn mực, luật pháp mang tính chất trừngphạt. Ở xã hội hiện đại, con người gắn bó với nhau bằng kiểu đoàn kết hữu cơ dựatrên cơ sở phân công lao động, tính đa dạng và sự khác biệt trong xã hội. Xã hộiđoàn kết hữu cơ thường có quy mô lớn, ý thức cộng đồng yếu, nhưng tính độc lập,tự chủ cá nhân được đề cao; quan hệ xã hội chủ yếu mang tính chất trao đổi đượcluật pháp, khế ước kiểm soát và bảo vệ. Pháp luật chủ yếu mang tính chất tạo dựngvà phục hồi công lí nhằm điều chỉnh những hành vi sai trái trong xã hội.Lí giải về hiện tượng tội phạm, Durkheim cho rằng một sự kiện được coi làbình thường đối với một kiểu xã hội nhất định, trong một giai đoạn nhất định.Hiện tượng tội phạm cũng là một hiện tượng bình thường của đời sống xã hội bởinó có ở tất cả các kiểu xã hội và là bộ phận không thể thiếu trong cơ thể xã hộilành mạnh. Qua các thời kì khác nhau tội phạm cũng thay đổi hình thức. Hành viđược coi là tội phạm không giống nhau ở các quốc gia. Tội phạm là hành vi xâmphạm tới lương tâm tập thể, nó có tội vì nó gây căm phẫn cho lương tâm tập thể.Để cho trong xã hội một hành vi được coi là tội phạm điển hình mất đi, thì tìnhcảm tập thể đã bị tổn thương phải được thấy trở lại trong tất cả ý thức của các cánhân. Trong thực tế, nếu điều này xảy ra thì tội phạm không vì thế mà biến mất,13nó chỉ thay đổi hình thức vì nguyên nhân làm cạn kiệt nguồn tạo ra tội phạm sẽlập tức mở ra một nguồn gây ra tội phạm mới. Ông lập luận thêm, một số tội phạmđôi khi là cần thiết đối với sự tiến hoá của xã hội “theo luật pháp Aten, Socrat làkẻ phạm tội và sự kết tội ông chỉ có chính đáng thôi. Song tội của ông, đó là sựđộc lập tư duy của ông, lại là có ích, chẳng những cho nhân loại, mà còn cho cảtổ quốc của ông. Vì ông phục vụ chuẩn bị cho một nền đạo đức và một lòng tinmới mà những người dân Aten khi đó cần đến vì các truyền thống mà họ đã sốngcho đến lúc đó không còn phù hợp với các điều kiện tồn tại của họ nữa. Songtrường hợp của Socrat không phải là trường hợp đơn độc, trường hợp đó vẫnđược tái sinh một cách định kì trong lịch sử”.5Ông khẳng định, nếu coi hiện tượng tội phạm là một căn bệnh của xã hội thìhình phạt chính là phương thuốc để chữa căn bệnh ấy, không thể khác được.Nhưng hình phạt phải được áp dụng như thế nào để hoàn thành vai trò phươngthuốc chữa căn bệnh đó của xã hội. Nếu tội phạm là hiện tượng bình thường củaxã hội, thì hình phạt không phải đối tượng để chữa nó và chức năng thực sự củanó phải tìm kiếm ở nơi khác. Luật pháp hà khắc ở các xã hội kém phát triển, còntrong xã hội hiện đại thì hình phạt trở nên bớt tính tàn bạo. Biện pháp trừng phạtchỉ là cách mà chính quyền củng cố lương tâm tập thể bằng trừng phạt những aixúc phạm đến chính quyền.Max Weber [1864 - 1920] là nhà xã hội học người Đức. Sinh ra trong mộtgia đình trí thức, ông đã theo đuổi sự nghiệp qua rất nhiều lĩnh vực sử học, luậthọc, kinh tế học và xã hội học. Cùng với A. Comte, E. Durkheim, M. Weber đượccoi là một trong những thành viên sáng lập ra ngành xã hội học. Trong khi E.Durkheim chịu sự ảnh hưởng lớn bởi quan điểm thực chứng luận thì Max Weberlại nhấn mạnh đến việc lí giải động cơ và ý nghĩa của hành động xã hội. Ông chorằng: “nhiệm vụ của xã hội học là nghiên cứu các thiết chế xã hội như nhà nước,pháp luật, tổ chức, cộng đồng... với tư cách là hành động của cá nhân đang tương5E. Durkheim, Các quy tắc của phương pháp xã hội học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 90 - 95.14tác với nhau”.6Theo Weber, nhà nước là một tổ chức độc quyền, hợp pháp sử dụng sứcmạnh bạo lực. Có ba loại hình thống trị: Loại hình mang tính hợp lí là loại hìnhthống trị được quy định bởi luật pháp; loại hình mang tính truyền thống; loại hìnhthống trị bằng uy tín. Thống trị bằng uy tín hay sự sùng bái cá nhân không ổn địnhnên thường phải hành chính hóa để trở thành một hình thức quyền lực có cấu trúcvững chắc hơn. Hình thức thống trị hợp lí dựa trên cơ sở pháp luật, trong đó quyềnlực được thể hiện thông qua bộ máy hành chính. Trong số ba loại hình lí tưởng vềquyền lực nhà nước, Weber coi nhà nước có bộ máy hành chính là loại nhà nướcphát triển nhất vì nó có một “trật tự pháp lí” bao gồm các quy phạm mang tínhchất duy lí.Ông cho rằng, sự phát triển của luật pháp là một quá trình tiến hóa từ tínhphi duy lí sang tính duy lí [tức là quá trình duy lí hóa]. Ở đây, tính duy lí pháp lí[legal rationality] có nghĩa là một hệ thống các quy phạm mang tính chất nhấtquán, logic cả quy tắc và quá trình ra phán quyết đều hợp lí. Sự tuân thủ trình tựđó có được là nhờ trật tự pháp lí và hình thức chính quyền quan liêu, chuyênnghiệp. Dấu hiệu của quyền lực hợp pháp - duy lí là tính không thiên vị của nó vàphi nhân cách hình thức: Như các nhà chức trách thi hành pháp luật không để sựcăm ghét hoặc niềm say mê, sự yêu thích hay sự nhiệt tình… không để những gìthuộc về cá nhân tác động đến công việc mà chỉ đơn thuần đó là bổn phận. Còntính phi duy lí pháp lí [legal irrationality] có nghĩa là sử dụng những phương tiệnkhác ngoài lôgic hay lí trí để đưa ra phán quyết trong các vụ án. Trong các xã hộithống trị bởi một nhà lãnh đạo có uy tín lôi cuốn, tư duy pháp lí bất hợp lí về cảhình thức lẫn nội dung. Công lí có nghĩa là sự lôi cuốn do uy tín, sự tuân thủ nhằmđáp lại nhà lãnh đạo, trong xã hội như vậy thì hoàn toàn không có chính quyền.Theo Weber, loại hình hệ thống pháp luật luôn phù hợp và tương thích với loạihình tổ chức chính trị tổng quát của một xã hội.6Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng, Lịch sử xã hội học, Nxb. Lí luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr. 113.15Ông khẳng định, pháp luật chịu ảnh hưởng gián tiếp bởi hoàn cảnh kinh tế,sự chuyển đổi cơ cấu xã hội tư bản có ảnh hưởng đến sự phát triển của pháp luật.Khi phân tích về tinh thần của chủ nghĩa tư bản, ngoài những yếu tố như thịtrường, kĩ thuật thì vai trò của luật pháp và bộ máy hành chính có ý nghĩa quantrọng đối với sự phát triển xã hội. Ông viết: “Chủ nghĩa tư bản hiện đại đòi hỏiphải có sự tiên liệu, có tính toán, không chỉ về mặt kĩ thuật sản xuất, mà cả về mặtluật pháp cũng như một bộ máy hành chính với những quy tắc, hình thức rõ ràng.Không có những yếu tố này, thì chắc chắn sẽ chỉ có thể nảy sinh thứ chủ nghĩa tưbản phiêu lưu và thương mại đầu cơ, cũng như đủ mọi loại chủ nghĩa tư bản chịusự chi phối của chính trị, chứ không thể nảy sinh loại hình doanh nghiệp thuầnlí... Chỉ có phương Tây mới tạo ra cho mình một nền luật pháp và hành chính đạtđược trình độ hoàn hảo như vậy về mặt kĩ thuật và hình thức để điều hành kinhtế”.7Đối với Weber, pháp luật cơ bản gắn liền với nhân tố kinh tế, nhưng khôngđược quyết định bởi nhân tố kinh tế. Chính sách kinh tế hợp lí là trọng tâm củachế độ tư bản, nhưng chủ nghĩa duy lí này có được là nhờ sự phù hợp và khả năngdự báo của luật pháp. Một hệ thống các quy phạm mang tính chất nhất quán vàlogic là điều kiện tiên quyết của chủ nghĩa tư bản giúp các nhà buôn theo đuổicông việc kinh doanh và tạo ra lợi nhuận. Việc đạt được tính duy lí nào đó đòi hỏihệ thống hóa một trật tự pháp luật mà ông thấy thiếu vắng một cách bất thườngtrong pháp luật Anh quốc.Vậy làm sao giải thích được sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản ở Anh. Câu trảlời của ông là: thứ nhất, mặc dù luật nước Anh thiếu trật tự có tính hệ thống củaluật La Mã, nhưng nó lại là một hệ thống pháp lí có tính hình thức cao [như trongtố tụng dân sự phải tuân theo những thủ tục đặc biệt và chính xác của những án lệcụ thể dành cho những vụ kiện dân sự cụ thể]. Điều này đã tạo sự ổn định cho hệthống pháp lí, tạo ra một mức độ an toàn và khả năng dự đoán cao hơn trong môi7Max Weber, Nền đạo đức tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2010, tr. 60.16trường kinh doanh; thứ hai, việc hành nghề luật sư ở Anh, trong thời kì phát triểncủa chủ nghĩa tư bản tập trung chủ yếu ở khu vực thương mại [The City]. Các luậtsư thường tư vấn cho các chuyên gia và tập đoàn lớn. Điều đó giúp họ đưa ranhững yêu cầu sửa đổi pháp luật cho phù hợp với quan hệ kinh doanh; thứ ba,những luật sư ở Anh có tính chuyên nghiệp cao và hoạt động giống như nhữnghội viên của phường hội thủ công, văn bản pháp luật ban hành nhằm ngăn ngừaviệc kiện cáo sau này. M. Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp luật như làmột yếu tố của quá trình duy lí góp phần hình thành, phát triển xã hội hiện đại vàchủ nghĩa tư bản ở phương Tây.Trên đây là những quan điểm làm nền tảng cho sự ra đời của xã hội học phápluật. Các công trình nghiên cứu về xã hội học pháp luật hoàn chỉnh gắn liền vớiđóng góp của các học giả tên tuổi như Eugen Ehrlich, Leon Petrazycki, GeorgesGurvitch… Nghiên cứu xã hội học pháp luật mở rộng khái niệm pháp luật ra ngoàiphạm vi cách tiếp cận nghiên cứu pháp luật thường thấy trong giới luật sư về lĩnhvực tố tụng được đưa ra từ phòng xử án. Các nhà nghiên cứu tiếp cận pháp luậttheo hướng đa nguyên, phát triển phạm vi của xã hội học pháp luật theo nhiềuhướng khác nhau.Eugen Ehrlich [1862 - 1922] là nhà xã hội học pháp luật người Áo. Ông đưara lập luận rằng, khái niệm pháp luật mà người ta dùng lâu nay là rất bó hẹp và cótính kĩ thuật, đó đơn thuần chỉ là khái niệm pháp luật trong thực tiễn xét xử. Cáinày chưa đủ bởi vì trong thực tiễn lại có một thứ pháp luật khác được thực hiện,đó là cái chi phối hành động con người còn rộng hơn chuẩn mực pháp luật màthẩm phán dựa vào đó để ra phán quyết. Thực tế, hành vi của các cá nhân trongxã hội phần lớn là do tập quán và các chuẩn mực xã hội khác điều chỉnh chứ khôngphải do quan tòa, vì vậy còn có một loại pháp luật rộng hơn nhiều đang tồn tạitrong mỗi cộng đồng xã hội. Chỉ pháp luật ấy mới sinh động và giúp con ngườigiải quyết tất cả các mâu thuẫn phát sinh trong đời sống xã hội.Ehrlich gọi thứ pháp luật được ban hành bởi nhà nước trên cơ sở của hoạtđộng xét xử và hoạt động của các cơ quan thi hành, xét cho đến cùng chỉ là pháp17luật của một thiểu số dân chúng. Từ đó ông đưa ra kết luận: “Trọng tâm phát triểnpháp luật nằm ở ngay trong xã hội chứ không phải ở pháp chế, luật học hay cácquyết định của tòa án. Các chuẩn mực pháp luật do các cơ quan thi hành phápluật dùng chỉ là các chuẩn mực dùng để ra các quyết định vì thế thực tiễn pháp líkhông thể hiện cuộc sống”.8 “Đối với xã hội học pháp luật, bản thân chuẩn mựcpháp luật chẳng nói lên cái gì cả. Nếu xã hội học muốn phát hiện ra tính quy luậtcủa đời sống pháp luật thì nó cần nghiên cứu cả các hiện tượng xã hội và kinh tế,bởi vì chỉ có thể hiểu đúng sự phát triển của pháp luật nếu gắn liền nó với sự pháttriển xã hội và kinh tế”.9 Nhà làm luật không làm ra luật mà chỉ phát hiện ra luậtmà thôi. Do đó nhiệm vụ của xã hội học pháp luật là đi tìm nguồn gốc và sự ảnhhưởng của pháp luật chứ không chỉ nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật và lígiải chuẩn mực.Ehrlich khẳng định tính xã hội và tính đa nguyên của pháp luật, ông cho rằngcó hai loại pháp luật: pháp luật của nhà nước và pháp luật từ thực tiễn cuộc sống.Tòa án và cơ quan hành chính cũng cần có được cái tự do lập pháp. Mặt khác,trong mỗi tổ chức hay sự liên kết của con người [bộ lạc, gia đình, công ti, hộiđoàn, công xã…] đều tồn tại một trật tự tự thân, cái trật tự do họ tự làm được gọilà các thỏa thuận, hợp đồng hay quy chế hoặc là các tên gọi khác. Nhưng nó khácquy định trong luật nhà nước ở chỗ nó do các liên minh của con người tự làm nênvà luôn có một trật tự khiến người ta tự nguyện tuân thủ. Vì vậy nền tảng và bảnchất của pháp luật nên tìm trong chính xã hội. Phương pháp tìm kiếm tốt nhất đólà thực nghiệm: quan sát cuộc sống, hành vi của con người, nghiên cứu tập quán,các tư liệu pháp luật, biên bản của việc thực thi pháp luật... Nguồn tư liệu phápluật quan trọng nhất mang tính điển hình là các quyết định của tòa án, còn mộtyếu tố quan trọng khác đó chính là các văn bản trong đời sống kinh doanh, hợpđồng mua bán, tín dụng, điều lệ công ti, di chúc, giấy đăng kí kết hôn... Nhữngvăn bản này mang tính cá nhân, cá biệt trong đời sống kinh doanh, hàm chứa89Kulcsar Kalman [Đức Uy biên dịch], Cơ sở xã hội học pháp luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 71.Kulcsar Kalman [Đức Uy biên dịch], Cơ sở xã hội học pháp luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 73.18những nội dung điển hình, lặp đi lặp lại nhiều lần và có những lĩnh vực mà chuẩnmực pháp luật chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh một phần. Như vậy, Ehrlich đãđưa ra những luận cứ khoa học nhằm xác lập lĩnh vực đối tượng nghiên cứu vàphương pháp nghiên cứu của xã hội học pháp luật.Leon Petrazycki [1867 - 1931] nhà xã hội học pháp luật người Ba Lan lạiđưa ra hướng tiếp cận tâm lí về pháp luật. Ông phân biệt giữa hình thức “phápluật thực định” được ban hành và đảm bảo bởi nhà nước và “pháp luật trực quan”[intuitive legal rules]. Pháp luật trực quan bao gồm những kinh nghiệm pháp líhình thành qua một quá trình phức tạp từ xúc cảm trong tâm trí của các cá nhân[xúc cảm là một hình thức trải nghiệm cơ bản của con người về thái độ của chínhmình đối với sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, người khác và với bảnthân] thúc đẩy cá nhân hành động. Pháp luật trực quan cùng với đạo đức giúp chocá nhân thực hiện hoặc kiềm chế thực hiện hành động. Theo ông, phương phápthích hợp nhất cho việc nghiên cứu thu thập những thông tin, kiến thức về kinhnghiệm pháp lí là quan sát nội tâm bên trong và thế giới bên ngoài. Quan sát bênngoài liên quan đến những thông tin về ý nghĩa của một hành động hoặc biểutượng từ quan sát ngay lập tức mà không cần tham chiếu đến bất kì bối cảnh rộnglớn hơn. Còn quan sát nội tâm là đặt các hành động cụ thể trong một bối cảnhrộng hơn về ý nghĩa sự kiện liên quan mà không xuất phát từ một hành động hoặcbiểu hiện cụ thể.Petrazycki cho rằng, pháp luật tồn tại dưới nhiều hình thức trong đó bao gồmcả các quy chế hoạt động của các nhóm, tiền lệ pháp, tập tục,... Luật pháp nằmtrong kinh nghiệm thuộc về ý thức như một sự cưỡng chế hay sự thôi thúc cá nhânphải thực hiện nhiệm vụ nào đó tương ứng với một quyền hạn nhất định. Mỗingười tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật đã có những kì vọng trước vềnhững gì pháp luật yêu cầu trong từng tình huống nhất định. Nguồn gốc của mệnhlệnh và kì vọng như vậy không nằm ngoài các nguồn của pháp luật như quy chế,tiền lệ pháp, tập tục… thống trị trong một xã hội cụ thể. Điều đó là cần thiết để cóthể tiếp cận nghiên cứu hiện tượng pháp luật trong lương tâm và trực giác. Muốn19khám phá quá trình của pháp luật như cách thức nó tồn tại phải dựa vào sự phântích các yếu tố mang tính mệnh lệnh và kì vọng bên trong ý thức cá nhân đó làphẩm chất tâm lí đặc biệt, có trong quy tắc đạo đức.Georges Gurvitch [1894 - 1965] là nhà xã hội học pháp luật người Pháp,người đặt nền móng cho sự hình thành lí thuyết xã hội học pháp luật một cách hệthống. Ông cho rằng, pháp luật mang tính thống nhất thông qua những biểu hiệnđồng thời trong các hình thức và các cấp độ khác nhau của sự tương tác xã hội.Mục tiêu của ông là nhằm xây dựng khái niệm “pháp luật xã hội” [social law] nhưmột định luật của sự tương tác và hợp nhất. Giống như các nhà nghiên cứu khác,ông nhấn mạnh pháp luật không chỉ là các quy tắc được ban hành và thực thi bởicác cơ quan của nhà nước, chẳng hạn như cơ quan lập pháp, tòa án và cảnh sát.Các nhóm xã hội, các cộng đồng xã hội khác nhau, cho dù được thành lập và tổchức chính thức hay không luôn tạo ra các quy tắc riêng để kiểm soát và điềuchỉnh quan hệ với các nhóm xã hội, cộng đồng xã hội khác. Theo quan điểm xãhội học pháp luật cách thức đó cũng được coi là pháp luật. Tư tưởng đa nguyênpháp lí10 thể hiện trong tác phẩm Sociology of Law, trong đó Gurvitch đã xác lậpmột cách chính xác, căn bản nhất lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học pháp luật vàmở rộng các nghiên cứu của mình ở hầu hết các lĩnh vực trong thực tiễn đời sốngpháp lí.Theo ông, xã hội học pháp luật là một lĩnh vực xã hội học nghiên cứu về tinhthần con người [human spirit], xuất phát từ việc nghiên cứu tâm lí tập thể hay lítrí tập thể. Tinh thần tập thể thể hiện thông qua hành động tập thể ở cách thức tổchức thực hiện pháp luật, cách thức xử sự đến các biểu hiện ở cơ cấu không gian,cơ sở vật chất hình thành nên các chế định pháp luật. Xã hội học pháp luật là cầunối trung gian giữa những biểu hiện về mặt vật chất của pháp luật phù hợp với ýnghĩa bên trong để thúc đẩy và đưa pháp luật vào thực tiễn, đồng thời là cơ sở sửađổi pháp luật cho phù hợp. Xã hội học pháp luật đi từ những biểu hiện thành vănĐa nguyên pháp lí là khái niệm dùng để mô tả tình huống mà trong đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùngtồn tại điều chỉnh cùng một lĩnh vực xã hội.1020như các quy phạm mang tính chuẩn mực, thủ tục, sắc lệnh cho đến những biểuhiện đặc biệt của pháp luật như các quy định tùy nghi và pháp luật tiềm ẩn; từpháp luật tiềm ẩn chuyển sang giá trị pháp luật và các lí tưởng pháp luật và cuốicùng là khảo sát ý kiến của tập thể về các chế định pháp luật.Gurvitch chỉ ra đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật bao gồm balĩnh vực: Thứ nhất, nghiên cứu các lĩnh vực vi mô, bao gồm tiếp cận theo chiềungang, đó là các quy tắc pháp lí có tính tổ chức được đảm bảo bằng sự trừng phạtvà cưỡng chế bên ngoài, ngoài ra nó còn nghiên cứu cả những quy tắc pháp lí hìnhthành một cách tự phát và lan truyền trong các cộng đồng xã hội; tiếp cận theochiều dọc, đó là các hình thức pháp luật hoạt động trên cơ sở một hệ thống phâncấp phụ thuộc lẫn nhau với từng quan hệ xã hội cụ thể. Thứ hai, nghiên cứu lĩnhvực vĩ mô là nghiên cứu mối liên hệ giữa thực tại xã hội với các lĩnh vực của phápluật. Lĩnh vực cuối cùng là nghiên cứu về nguồn gốc của pháp luật bao gồm nhữngquy tắc mang tính định hướng của bất kì hệ thống pháp luật nào và các yếu tố tácđộng đến hệ thống pháp luật như kinh tế, chính trị, văn hóa...Gurvitch là người đã mở rộng lĩnh vực đối tượng nghiên cứu của chuyênngành theo hướng đa nguyên pháp lí. Theo ông, pháp luật là một phần không thểtách rời và cấu thành của các tổ chức xã hội, các nhóm và cộng đồng xã hội. Xãhội học pháp luật có nhiệm vụ phân tích các quy tắc của hệ thống pháp luật trongsự tương tác với các nhóm xã hội, tầng lớp xã hội với các đặc trưng giới tính,chủng tộc, tôn giáo và các đặc điểm xã hội khác. Ngoài ra, nó còn nghiên cứu cácquy tắc trong nội bộ của các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội như luật sư, doanhnhân, các nhà khoa học, các thành viên của các đảng chính trị...2.2. Quan điểm một số nhà xã hội học pháp luật Hoa KỳTại Hoa Kỳ, các nghiên cứu xã hội học pháp luật phát triển vào đầu thế kỉXX, các trung tâm nghiên cứu được tài trợ thành lập tại một số trường đại học đãthực hiện các nghiên cứu thực nghiệm. Ban đầu xã hội học pháp luật chưa phải đãlà một lĩnh vực nghiên cứu độc lập mà là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành.21

Video liên quan

Chủ Đề