Dương khuê ở đâu

0 video

2 ảnh

14 ảnh

2 ảnh

1 ảnh

0 ảnh

Ông Dương Khuê [1839-1902] là người ở làng Vân Đình, huyện Ứng Hòa [Hà Nội]. Ông là con cả Đô ngự sử Dương Quang và là anh ruột của danh sĩ Dương Lâm. Dòng họ ông danh giá, sản sinh ra nhiều nhân tài. Hậu duệ phải kể đến là Dương Thiệu Tước, Dương Thụ… rồi Lady bom Dương Nguyệt Ánh.


[Nguồn: Wikipedia]

Ông Dương Khuê là người văn hay, chữ tốt. Năm Mậu Thìn [1868], thời vua Tự Đức, ông dự thi đình đỗ tiến sĩ.

Trước đây, ông vẫn được xem là một đại biểu của khuynh hướng "thoát ly hưởng lạc" trong văn học Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ 19. Song gần đây, bước đầu giới nghiên cứu đã có cách lý giải mới đối với phần tâm sự của ông gửi gắm trong thơ văn.

Là một viên chức buổi giao thời, đường làm quan không mấy suôn sẻ..., vì thế các sáng tác của ông chính là một phương tiện giúp ông giải tỏa những bất mãn đối với hiện thực...

Bài ca trù tiêu biểu và nổi tiếng của ông Dương Khuê là bài Gặp lại cô đầu cũ:

Hồng Hồng, Tuyết, Tuyết,

Mới ngày nào chửa biết cái chi chi.

Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì!

Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu.

Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu,

Kim quân hứa giá, ngã thành ông

Cười cười nói nói thẹn thùng,

Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại.

Riêng một thú Thanh Sơn đi lại,

Khéo ngây ngây dại dại với tình.

Đàn ai một tiếng dương tranh.

Câu chữ Hán“Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu/ Kim quân hứa giá, ngã thành ông” nghĩa là: Khi ta đã trưởng thành, lãng du đây đó thì nàng còn nhỏ/ Nay nàng đến tuổi lấy chồng thì ta đã lên ông” - hoàn cảnh trớ trêu làm sao. Nhưng Dương Khuê muốn nói đến cái lỡ làng của cuộc đời ông đấy thôi.

Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì!

Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu.

15 năm thấm thoắt đó là tính từ khi ông đỗ tiến sĩ, được vua Tự Đức biết đến nhưng cũng chẳng làm được gì cho dân, cho nước, cho sự nghiệp bản thân.

Hôm nay, có phố mang tên ông như một sự đánh giá lại. Trân trọng và ngậm ngùi cho thân phận trí thức Việt một thời loạn lạc.

  • 03/11/2016
  • Ban Thông tin truyền thông
  • 8616

Ngày 28 /10 năm 2016 Hội đồng Họ Dương Hà Nội và các hậu duệ Cụ Dương Khuê đã tổ chức mừng Lễ gắn biển phố Dương Khuê – phường Mai Dịch – quận Cầu Giấy – TP Hà Nội.

Đến dự lễ: Đại biểu Thành phố Hà Nội: Ông Lê Minh Đức – Chánh văn phòng hội đồng nhân dân, Ông Nguyễn Quang Thắng – phó trưởng ban văn hóa hội đồng nhân dân; Đại biểu quận Cầu Giấy: Ông Dương Thanh – phó bí thư quận ủy – chủ tịch UBND; Đại biểu phường Mai Dịch: Ông Phạm Vũ Hòa – phó bí thư đảng ủy – chủ tịch UBND phường, bà Nguyễn Thị Chín – Đảng ủy viên – phó chủ tịch UBND phường;

Đại biểu Hội đồng Họ Dương Việt Nam có: ông Dương Thanh Biểu – PCT làm trưởng đoàn; HĐHD Miền Trung- Tây nguyên, thành phố Hà Nội và HĐHD các quận, huyện thành phố Hà Nội, gần 200 bà con Họ Dương địa phương lân cận và của quê hương Cụ.

Cụ Dương Khuê là người làng Vân Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, nay thuộc thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội.

Xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Cụ là con cả Đô ngự sử Dương Quang. Dương Khuê là người văn hay, chữ tốt. Năm 1864, ông đỗ Cử nhân. Năm Mậu Thìn [1868] thời vua Tự Đức, Cụ dự thi Đình đỗ Tiến sĩ và được bổ làm Tri phủ Bình Giang – Hải Dương, rồi được thăng làm Bố chính, rồi hàm Thượng thư bộ Binh.

Trong các tác phẩm Cụ để lại cho đời sau có Vân Trì thi thảo [Bản thảo thơ Vân Trì]; và một số bài ca trù  nổi tiếng như bài “ Hồng hồng tuyết tuyết”… Với thân thế, sự nghiệp của Cụ nhân kỷ niệm 62 năm ngày giải phóng thủ đô [10/10/1954-10/10/2016], Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội ký quyết định gắn biển đường, phố Dương Khuê.

Phố Dương Khuê thuộc phường Mai Dịch, Quận Cầu Giấy. Con cháu họ Dương muốn đến tham quan hãy tìm đến trường đại học Tài Chính. Đứng từ ngoài đường 32 nhìn vào trường Tài Chính, phố Dương Khuê nằm sát bên tay phải trường Tài Chính . Từ nay đoạn phố cũ chính thức mang tên phố Dương Khuê.

Một số hình ảnh mừng lễ gắn biển phố Dương Khuê:

Các đại biểu Hội đồng Họ Dương: Việt Nam, TP Hà Nội, quận Tây Hồ và các hậu duệ Cụ Dương Khuê trong mừng lễ gắn biển phố mang tên Dương Khuê

Đại biểu  lãnh đạo thành phố Hà Nội và quận Cầu Giấy tặng hoa chúc mừng

Lễ Chào cờ

Ông Dương Thanh Biểu – PCT HĐHDVN phát biểu 

Hậu duệ của Cụ Dương Khuê, Bà Dương Tuyết Lan phát biểu cảm tưởng của mình 

Anh Dương Hồng Long – Hậu duệ của cụ Dương Khuê tặng sách in các tác phẩm của Cụ Dương Khuê

                                                                                     Xuân Trường

Dương Khuê [楊奎, 1839-1902], tự: Giới Nhu, hiệu Vân Trì; là quan nhà Nguyễn, và là nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 19.

Dương Khuê

Bút danhVân TrìCông việcNhà thơ, quan nhà NguyễnQuốc tịchViệt NamDân tộcKinhTác phẩm nổi bậtVân Trì thi thảo

Dương Khuê là người ở làng Vân Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông [nay thuộc thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội].

Xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Ông là con cả Đô ngự sử Dương Quang, và là anh ruột của danh sĩ Dương Lâm.[1]

Nhờ chuyên cần, Dương Khuê là người văn hay, chữ tốt. Năm 1864, ông đỗ Cử nhân [cùng khoa này có Nguyễn Khuyến đỗ Giải nguyên]; nhưng vào kinh thi Hội, thì bị hỏng khoa đầu. Được Tùng Thiện Vương mời về nhà dạy con cháu học, ông nán lại chờ khoa thi sau. Năm Mậu Thìn [1868], thời vua Tự Đức, ông dự thi Đình đỗ Tiến sĩ.[1]

Thăng trầm nghiệp quan

Ban đầu, Dương Khuê được bổ làm Tri phủ Bình Giang [Hải Dương], rồi thăng làm Bố chính.

Đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ 19, tay lái buôn Jean Dupuis uy hiếp các quan chức người Việt ở Bắc Kỳ để tự do sử dụng sông Hồng, ông ở trong nhóm những sĩ phu cương quyết chống lại. Ông dâng sớ về triều xin có thái độ quyết liệt với người Pháp, bị vua Tự Đức phê là "bất thức thời vụ" [không biết thời cuộc], rồi bị giáng xuống chức Chính sứ sơn phòng lo việc khai hoang.[2]

Năm 1873, quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Sau khi thương thuyết, họ chịu trả lại bốn thành cho triều đình Huế, thì Dương Khuê được điều động làm Án sát Hải Phòng.

Dương Khuê và vụ án ở Định-Yên: Năm 1878 ở Nam Định-Hưng Yên xảy ra một vụ nhũng lạm công quỹ khổng lồ mà số thiếu hụt về tiền, gạo, thóc lên tới hàng trăm ngàn quan. Vua Tự Đức phái quan Khoa đạo Trần Đình Liêm cùng với Bố chính Đồng Sĩ Vịnh, Án sát Nguyễn Duy Kế đến tận nơi điều tra. Trong vụ này Bố chính Phan Đức Trạch [đã chết] đã bị thuộc hạ cáo buộc là đã lấy từ kho tiền đưa cho Dương Khuê vay 100 lạng bạc [10000 quan] và Vũ Khoa vay 150 lạng bạc [15000 quan]. Các lời khai của Dương Khuê và Vũ Khoa không làm triều đình hài lòng, nên Dương Khuê bị phạt trảm giam hậu [nghĩa là bị tạm giam, trong thời hạn 3-5 năm phải trả lại số tiền đã lấy, nếu không trả được thì sẽ bị thi hành án tử], Vũ Khoa bị giáng cấp và đổi nhiệm sở. Sau này nhà vua gia ân, chuẩn cho 2 ông được làm việc chuộc tội và được khai phục chức vị cũ [nguồn: Đai Nam thực lục, Quốc sử quán triều Nguyễn, Nhà xuất bản Giáo dục 2002, tập 8, trang 377-378 và 382-383]

Năm 1878, nhân lễ "ngũ tuần khánh thọ " của mình, vua Tự Đức xuống chỉ cho ông làm Đốc học Nam Định. Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Bố chính, Tham tá Nha kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình.

Năm 1897, Toàn quyền Paul Doummer xóa bỏ điều 7 của Hòa ước Giáp Thân 1884, đặt cơ sở cho guống máy cai trị của Chính phủ bảo hộ, thì Dương Khuê xin cáo quan, lúc 58 tuổi, được tặng hàm Thượng thư bộ Binh.[1]

Mất

Dương Khuê mất ngày 6 tháng 3 năm Nhâm Dần [1902]. Nghe tin, bạn thân ông là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ Khóc bạn để viếng ông [trong đó mở đầu bằng câu: "Bác Dương thôi đã thôi rồi"].

Tác phẩm của ông để lại có Vân Trì thi thảo [Bản thảo thơ Vân Trì]; và một số bài ca trù, bài văn, câu đối, trướng...

Trước đây, ông vẫn được xem là một đại biểu của khuynh hướng "thoát ly hưởng lạc" trong văn học Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ 19. Nhà phê bình Nguyễn Tường Phượng viết: "Sinh vào lúc Nho học tàn cuộc, quốc gia mất chủ quyền nên cũng như bạn đồng thời là Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê lấy thơ, rượu, ca xướng...để tiêu khiển". Đồng quan điểm này, GS. Phạm Thế Ngũ xếp các tác phẩm của Dương Khuê vào nhóm "Văn hành lạc và trào phúng".[3] Song gần đây, bước đầu giới nghiên cứu đã có cách lý giải mới đối với phần tâm sự của ông gửi gắm trong thơ văn. Là một viên chức buổi giao thời, đường làm quan không mấy suôn sẻ..., vì thế các sáng tác của ông, chính là một phương tiện giúp ông giải tỏa những bất mãn đối với hiện thực...

Tuy có làm thơ chữ Hán, nhưng ông nổi tiếng nhờ những bài ca trù. Với sự tinh luyện về ngôn ngữ và sự hài hòa trong thanh điệu của ông, khiến những bài ấy luôn cuốn hút người nghe.[4]

Nhìn chung, xét về lời, thơ Dương Khuê đã đạt đến trình độ "thanh thoát, uyển chuyển và hóm hỉnh".

Dưới đây là bài ca trù tiêu biểu và nổi tiếng của Dương Khuê:

Gặp lại cô đầu cũ Hồng Hồng, Tuyết, Tuyết, Mới ngày nào chửa biết cái chi chi. Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì! Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu. Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu, Kim quân hứa giá, ngã thành ông[5] Cười cười nói nói thẹn thùng, Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại. Riêng một thú Thanh Sơn[6] đi lại, Khéo ngây ngây dại dại với tình. Đàn ai một tiếng dương tranh...[7]
Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

bài thơ này nằm trong cuốn Vân Trì thi thảo.

Em Dương Khuê là Dương Lâm [1851-1920], từng giữ chức Phó Tổng tài Quốc sử quán nhà Nguyễn, Chủ bút báo Đồng Văn…Sau ông xin cáo quan về mở trường dạy học tại quê nhà. Ông là người tao nhã, yêu nước, có tài văn chương, và là một nhà giáo giỏi.[8] Trong số các cháu nội của hai ông [Dương Khuê và Dương Lâm], có những người nổi tiếng như: nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Giáo sư-Tiến sĩ Dương Thiệu Tống, nhà thơ Dương Tuyết Lan, nhà khoa học Dương Nguyệt Ánh, nhạc sĩ Dương Thụ, nhạc sĩ kiêm thi sĩ Dương Hồng Kỳ, nhà văn Dương Vân Mai Elliott[9].

  • Nguyễn Huệ Chi, mục từ: "Dương Khuê" im trong Từ điển văn học [bộ mới]. Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
  • Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của:
Dương Khuê

  1. ^ a b c Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, tr. 101.
  2. ^ theo Từ điển văn học [bộ mới], tr. 355.
  3. ^ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, quyển 3, tr. 41.
  4. ^ Lược theo GS. Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học [bộ mới], tr. 356.
  5. ^ Dịch nghĩa: Lúc ta chơi bời phóng đảng là lúc ngươi còn nhỏ, bây giờ ngươi đến tuổi lấy chồng thì ta đã thành ông [già].
  6. ^ Có người cho rằng "Thanh" làng Thanh Thần. "Sơn" là Sơn Minh [sau đổi là Sơn Lãng]. Đây là quê cả tác giả, và là làng có nhiều cô đầu.
  7. ^ Chép theo Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm. Trung tâm học liệu [Sài Gòn] xuất bản, bản in 1968, tr. 176. Có sách chép hơi khác một vài chữ. Hai chú thích trong bài đều căn cứ theo sách này.
  8. ^ Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, mục từ Dương Lâm, tr. 101-102.
  9. ^ Nguyên Phong [26 tháng 4 năm 2013]. “Báo Thanh Niên: "Số phận kỳ lạ của Mai Elliott"”.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Dương_Khuê&oldid=67488517”

Video liên quan

Chủ Đề