Hiệp ước Bali có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển của tổ chức ASEAN

Hiệp ước Bali III mở ra triển vọng hội nhập tốt đẹp cho ASEAN

Trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 19 đang diễn ra tại Bali, chiều 17/11, lãnh đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố Bali về Cộng đồng ASEAN trong Cộng đồng các quốc gia toàn cầu, hay còn gọi là Hiệp ước Bali III.

Trên cơ sở các nguyên tắc của Hiến chương ASEAN; nhận thức về tầm quan trọng chiến lược của Kết nối ASEAN đối với tăng cường hội nhập và nâng cao vai trò quốc tế của khối; tiến trình hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa ASEAN với các bên đối tác đối thoại qua các cơ chế, khuôn khổ hiện hành; sự cần thiết phải tăng cường hợp tác của ASEAN trong các vấn đề toàn cầu chủ chốt, các nhà lãnh đạo ASEAN quyết định thông qua cương lĩnh chung về các vấn đề toàn cầu.

Hiệp ước Bali III qui định về một ASEAN liên kết và hợp tác chặt chẽ hơn đối với các vấn đề quốc tế cùng quan tâm, thúc đẩy hơn nữa tiếng nói chung của ASEAN tại các diễn đàn quốc tế liên quan; một ASEAN với năng lực được tăng cường nhằm đóng góp, ứng xử với các vấn đề toàn cầu chủ chốt cùng quan tâm vì lợi ích của tất cả các nước thành viên và một Ban Thư ký ASEAN được tăng cường năng lực thực thi.

Với những đặc điểm đó, các nước ASEAN cam kết cùng tiến hành hợp tác ở cấp độ khu vực, toàn cầu trên nhiều lĩnh vực. Cụ thể:

Về hợp tác chính trị - an ninh: Góp phần bảo đảm hòa bình, an ninh và ổn định không chỉ thông qua sự tôn trọng nhất quán các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và giải quyết hòa bình các tranh chấp, mà còn thúc đẩy các sáng kiến hòa giải, tích cực tham gia các nỗ lực gìn giữ hòa bình và kiến thiết hòa bình hậu xung đột dựa trên sự sẵn sàng của từng nước thành viên; bảo đảm an toàn, tự do lưu thông hàng hải quốc tế, đẩy mạnh hợp tác hàng hải; tiếp tục nỗ lực hướng tới sự nhất trí chung về các vấn đề liên quan đến Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân [SEANWFZ], phát triển một cách tiếp cận chung của ASEAN nhằm đóng góp vào các nỗ lực bảo đảm an toàn hạt nhân toàn cầu…

Về hợp tác kinh tế: Hiệp ước Bali III xác định các nội dung về hội nhập, ổn định và phát triển kinh tế trên cơ sở những mục tiêu và nguyên tắc chung về những công cụ cơ bản nhằm triển khai Cộng đồng Kinh tế ASEAN và thúc đẩy sự hội nhập đầy đủ của ASEAN vào nền kinh tế toàn cầu. Theo đó, các nhà lãnh đạo xác định cần tăng cường sự tham gia tích cực của ASEAN vào các sáng kiến kinh tế khu vực và toàn cầu có tác động đến khu vực; thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế nội khối và đối ngoại của ASEAN, nhất là thương mại và đầu tư; nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bổ sung hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô quốc gia tương thích hơn với những đặc điểm của hợp tác tài chính và điều phối kinh tế vĩ mô ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu; tăng cường hợp tác tài chính và điều khối kinh tế vĩ mô trong và ngoài ASEAN, trong đó có việc tiếp tục sự tham gia tích cực của ASEAN tại G-20; đẩy mạnh các nỗ lực chung về bảo đảm an ninh lương thực và năng lượng với các nước, cũng như quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế liên quan như Chương trình Lương thực Liên hợp quốc [UNWFP], Tổ chức Lương nông LHQ [FAO]…

Về hợp tác văn hóa – xã hội: Hiệp ước Bali III xác định tăng cường hợp tác của ASEAN trên phạm vi toàn cầu nhằm thúc đẩy nỗ lực đối phó với biến đổi khí hậu, huy động tối đa sự tham gia của các thành phần xã hội vào các chương trình giảm nhẹ thiên tai và đối phó với tình trạng khẩn cấp; tăng cường hợp tác giữa quân đội các nước ASEAN trong khuôn khổ hoạt động cứu trợ nhân đạo và giảm nhẹ thiên tai [HADR]; thúc đẩy hợp tác giữa Trung tâm Điều phối ASEAN về cứu trợ nhân đạo quản lý thảm họa [AHA Center] với các tổ chức khu vực quốc tế liên quan. Các nhà lãnh đạo ASEAN cũng nhất trí các nước ASEAN sẽ đóng góp tích cực nhằm cùng đạt được một thoả thuận cân bằng, toàn diện và ràng buộc pháp lý theo tinh thần của Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu [UNFCCC]; thúc đẩy hợp tác về chăm sóc sức khỏe, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, phát triển nguồn nhân lực và văn hóa, trong đó có những cam kết đối với các mục tiêu thiên nhiên kỷ của LHQ…

Các nhà lãnh đạo ASEAN nhất trí giao các bộ trưởng liên quan thực thi Tuyên bố này với sự hợp tác và vai trò của Ban Thư ký ASEAN, Hội đồng Điều phối ASEAN [ACC], các cơ cấu tổ chức trực thuộc và Ủy ban các Đại diện thương trực tại ASEAN [CPR]./.

Hội nghị cấp cao của các nước Đông Nam Á họp tại Bali [2/1976] là sự kiện có ý nghĩa:


A.

Đánh dấu mốc ra đời của tổ chức ASEAN

B.

Mở rộng việc kết nạp các nước thành viên

C.

Đánh dấu mốc phát triển của tổ chức ASEAN bằng việc kí kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa các nước trong khu vực

D.

Đưa ra tuyên bố về việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa các nước Đông Nam Á 

Hiện nay, quốc gia nào trong khu vực Đông Nam Á vẫn chưa gia nhập ASEAN?

Nội dung nào sau đây không phải hạn chế của chiến lược kinh tế hướng ngoại?

Sự khác biệt cơ bản nhất giữa tổ chức Liên hợp quốc và ASEAN là gì?

ASEAN + 3 là sự hợp tác của ASEAN với quốc gia nào?

Cộng đồng ASEAN chính thức được thành lập vào thời gian nào?

Thách thức của Việt Nam khi gia nhập ASEAN là gì?

Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] thành lập trong bối cảnh

Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN - Association of Southeast Asian Nations] ra đời trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều chuyển biến to lớn vào nửa sau những năm 60 của thế kỷ XX.

Sau khi giành được độc lập, các nước Đông Nam Á bước vào thời kỳ phát triển kinh tế trong điều kiện rất khó khăn, nhiều nước trong khu vực thấy cần có sự hợp tác với nhau để cùng phát triển. Đồng thời, họ cũng muốn hạn chế ảnh hưởng của các cường quốc bên ngoài đối với khu vực, nhất là khi cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Đông Dương đang bị sa lầy.

Những tổ chức hợp tác mang tính khu vực trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều và những thành công của Khối thị trường chung châu Âu có tác động cổ vũ các nước Đông Nam Á tìm cách liên kết với nhau.

Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] được thành lập tại Băng Cốc [Thái Lan] với sự tham gia của 5 nước: In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a, Xin-ga-po, Thái Lan và Phi-líp-pin.

Mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hóa thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.

Trong giai đoạn đầu [1967 - 1975], ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế. Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Ba-li [In-đô-nê-xi-a] tháng 2 - 1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á [gọi tắt là Hiệp ước Ba-li].

Hiệp ước Ba-li đã xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực với nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Quan hệ giữa các nước Đông Dương [Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia] với ASEAN được cải thiện sau thời kỳ căng thẳng giữa hai nhóm nước [từ cuối thập kỉ 70 đến giữa thập kỉ 80] về “vấn đề Cam-pu-chia”. Việt Nam và ASEAN bắt đầu quá trình đối thoại, hòa dịu.

Kinh tế các nước ASEAN bắt đầu tăng trưởng.

ASEAN tiếp tục mở rộng thành viên: Năm 1984, Bru-nây gia nhập ASEAN. Năm 1992, Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Ba-li và ngày 18 - 7 - 1995, Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN. Tiếp đó, nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á đã gia nhập vào ASEAN như Lào và Mian-ma [năm 1997] và Cam-pu-chia [năm 1999].

Tháng 11 - 2007, các nước thành viên đã kí bản Hiến chương ASEAN nhằm xây dựng ASEAN thành một cộng đồng vững mạnh.

Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau:

Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [viết tắt theo tiếng anh là ASEAN] được thành lập tại Băng Cốc [Thái Lan] với sự tham gia của năm nước: Inđônêxia, Malayxia, Xingapo, Thái Lan và Philíppin.

Mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hóa thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.

Trong giai đoạn đầu [1967 - 1975], ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế. Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Ba-li [In-đô-nê-xi-a] tháng 2 - 1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á [gọi tắt là Hiệp ước Ba-li].

Hiệp ước Ba-li đã xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực với nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Năm 1984, Brunây gia nhập và trở thành thành viên thứ sáu của ASEAN.

Từ đầu những năm 90, ASEAN tiếp tục mở rộng thành viên của mình trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều thuận lợi. Năm 1992, Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Bali. Tiếp đó, ngày 28 - 7 - 1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ bảy của ASEAN. Tháng 7 - 1997, Lào và Mianma gia nhập ASEAN. Đến năm 1999, Campuchia được kết nạp vào tổ chức này.

Như vậy, từ 5 nước sáng lập ban đầu, đến năm 1999, ASEAN đã phát triển thành mười nước thành viên. Từ đây, ASEAN đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, cùng phát triển.

Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau:

Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [viết tắt theo tiếng anh là ASEAN] được thành lập tại Băng Cốc [Thái Lan] với sự tham gia của năm nước: Inđônêxia, Malayxia, Xingapo, Thái Lan và Philíppin.

Mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hóa thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.

Trong giai đoạn đầu [1967 - 1975], ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế. Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Ba-li [In-đô-nê-xi-a] tháng 2 - 1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á [gọi tắt là Hiệp ước Ba-li].

Hiệp ước Ba-li đã xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực với nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Từ 5 nước sáng lập ban đầu, đến năm 1999, ASEAN đã phát triển thành mười nước thành viên. Từ đây, ASEAN đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, cùng phát triển.

Video liên quan

Chủ Đề