Khi về ở An Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn làm công việc nay cho triều đình nhà Mạc

Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm


Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia năm 1991. Nguyễn Bỉnh Khiêm thủa nhỏ tên gọi là Văn Đạt quê ở trang Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Ngày sinh của ông chưa có sách nào ghi cụ thể. Theo cuốn "Công dư tiệp ký" của Vũ Phương Đề - một danh thần ở khoảng cuối đời Lê Trung Hưng người làng Mộ Trạch, tỉnh Hải Dương thi đỗ tiến sĩ khoa Bính Thìn năm 1736 đời Lê Ý Tông, làm quan tới chức Đông Các hiệu thư thị tham chánh sơn Nam đã viết: "Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Hồng Đức thứ 21 [tức năm Tân Hợi 1491] lúc nhỏ vốn dáng kỳ vĩ, chưa đầy một năm đã nói sõi. Năm 4 tuổi, thân mẫu dạy cậu học các bài nghĩa của kinh, mới đọc qua đã thuộc làu làu...".


Lớn lên được mẹ và thầy Dương Đức Nham dạy học. Sang tuổi trưởng thành, ông học thầy bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Do xã hội lúc đó nhiều biến động, mãi đến năm 44 tuổi ông mới dự thi thời triều Mạc. Cả 3 kỳ thi đề đỗ giải Nguyên Khôi. Kỳ thi Đình năm Ất Tỵ [1535], ông đỗ Trạng Nguyên và được Vua bổ làm Hiệu thư ở viện Hàn Lâm, rồi Đại học sỹ tòa Đông Các. Ông làm quan cho nhà Mạc được 8 năm rồi dâng "Thất trảm sớ", không được Vua ưng thuận nên cáo lão từ quan về quê, mở trường dạy học, sáng tác hàng nghìn bài thơ bằng chữ Nôm và chữ Hán. Người đời tương truyền, ông có nhiều bài sấm ký bao quát tầm nhìn thời thế ứng nghiệm. Nhiều học trò theo học ông đã lừng danh như: Giáp Hải, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Đinh Thời Trung, Trương Thời Cử... có người làm tới chức Tể Tướng. Như vậy, Ông không chỉ là cây đại thụ về thơ văn mà còn là một nhà giáo lỗi lạc.

Mặc dù sống cuộc đời điền viên, vui thú cỏ cây hoa lá, ngam thơ, vịnh cảnh cùng môn sinh nhưng lòng ông vẫn đau đáu nỗi yêu nước, thương dân. Ông mất ngày 28 tháng Giêng mùa đông năm Ất Dậu [1585] niên hiệu Diên Thành thứ 9 đời Mạc Mậu Hợp, thọ 95 tuổi.


Triều đình nhà Mạc cử Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng về dự lễ viếng và thay mặt Vua truy tặng Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc công. Tháng Giêng năm Bính Tuất [1586], Vua Mạc ban cấp cho làng Trung Am 3000 quan tiền để lập đền thờ ông, có gắn biển mang hàng chữ "Mạc triều Trạng Nguyên tể tướng từ" do nhà Vua tự tay đề, đồng thời giao cho địa phương 100 mẫu ruộng thờ ông [theo TS Vũ Khâm Lân trong sách Đại Việt sử loại tiệp lục]. Như vậy, đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm trên nền đất cũ được xây dựng xưa nhất là năm 1586. Sau đó do biến động của lịch sử, ngôi đền đó không còn, sau này mới được dựng lại. Theo "Công dư tiệp ký" của ông Vũ Phương Đề ghi: "năm Vĩnh Hựu nguyên niên [Ất Mão 1735, đời Lê Ý Tông] người trong làng vì nhờ Thị Đức của tiên sinh có dựng lại trên nền nhà cũ... người hàng tổng cũng nhớ ơn đức, xuân, thu hai kỳ đến tế lễ".

Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam Đỗ Mười đến thăm đền đã ghi hàng chữ lưu niệm "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà văn, một thầy giáo, một nhà triết học, một nhà dự báo, một danh hân văn hóa như cây đại thụ bóng trùm cả một thế kỷ XVI. Tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết, nhân cách cao cả cùng với tri thức uyên bác và tài năng sáng tạo đã tạo nên sự nghiệp, uy tín và ảnh hưởng rộng lớn của ông mà đến nay chúng ta rất đỗi tự hào, trân trọng".


Năm Mậu Thìn 1929 [Bảo Đại thứ 3], dân làng quyên góp tiền bạc, công sức tu tạo lại ngôi đền. Tháng 9/1985, ngôi đền được Thành phố chỉ đạo tu sửa, mở mang khuôn viên, sửa lại đường sá. Năm 1998, đền được nâng cấp, tôn nền xây tường bao.

Đặc biệt vào cuối năm 2000, kỷ niệm 415 năm ngày mất của Trạng Trình, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng duyệt kế hoạch cho nâng cấp tạo dựng cả một vùng rộng lớn thành quần thể "Di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm" gồm: "Quán Trung Tân", mộ phần cụ Nguyễn Văn Định [thân phụ Nguyễn Bỉnh Khiêm], khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chùa Song Mai nơi phu nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tu hành. Đường đi được làm lại, khuôn viên, vườn cây lưu niệm được qui hoạch, cảnh quan thật khang trang, ngoạn mục.

Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491 – 1585], tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tựlà Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam - Bắc triều [Lê - Mạc phân tranh] cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi [1535]và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từông và gọi chung là Sấm Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của ông còn lưu lại đến ngày nay.Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông [1491], ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương [nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng]. Thân phụ của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định [người huyện Vĩnh Lại] là người có tướng sinh quý tử.Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương [nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng]. Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn [Tuyết Giang] nối đôi bờ.Về hành trạng của bà Nhữ Thị Thục, các tài liệu nghiên cứu đến nay vẫn chưa thống nhất về tính xác thực của những giai thoại trong dân gian kể rằng bà chê ông  Nguyễn Văn Định không biết cách dạy con nên đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ[bởi với biệt tài lý số của mình, bà Nhữ Thị Thục đã tiên đoán nhà Lê sơ 40 năm sau thời thịnh trịcủa Lê Thánh Tông sẽ đi vào suy tàn nên bà muốn dạy Nguyễn Văn Đạt học cách làm vua để có thể giành được ngôi vị đế vương về sau, điều này trái với ý muốn của ông Nguyễn Văn Định]. Nhiều nguồn sử liệu trước đây khẳng định rằng sau khi bỏ về nhà cha mẹ đẻ, bà đã vượt qua lễ giáo phong kiến mà đi bước nữa để rồi sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan [người làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây cũ]. Nhưng nhiều nghiên cứu hiện nay cho rằng điều này rất khó xảy ra bởi bà Nhữ Thị Thục sinh ra Nguyễn Văn Đạt khi đã luống tuổi [ngoài 20 tuổi] trong khi Phùng Khắc Khoan sinh sau Nguyễn Bỉnh Khiêm [Nguyễn Văn Đạt] tới 37 năm. Một điều nữa là bà Nhữ Thị Thục sau khi qua đời lại được an táng bên nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ mà không phải tại làng Trung Am bên nhà chồng như quan niệm truyền thống xưa nay.Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn [thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm] ở thôn An Tử Hạ cònghi lại: "Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế", qua đó cho thấy mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ. Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều [thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay] nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cất công vào tận xứThanh đểtầm sư học đạo. Lương Đắc Bằng từng là một đại thần giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ nhưng sau khi những kế sách nhằm ổn định triều chính do ông đưa ra không được vua Lê cho thi hành, Lương Đắc Bằng đã cáo quan về quê sống đời dạy học [1509]. Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu đã trở thành học trò xuất sắc nhất của người thầy họ Lương. Bởi vậy mà trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học [Chu Dịch] là Thái Ất thần kinh đồng thời ủy thác người con trai Lương Hữu Khánh của mình cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ.Lớn lên trong thời đại loạn [giai đoạn triều Lê sơ rơi vào khủng hoảng, suy tàn], không muốn đi lại vết xe cũ của người thầy Lương Đắc Bằng nên từ khi trưởng thành cho đến khi ra ứng thí [1535], suốt hơn 20 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa [trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ]. Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ [1527], xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng  thí [ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc]. Tới năm Đại Chính thứ sáu [1535] đời Mạc Thái Tông [Mạc Đăng Doanh] thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên. Năm ấy ông đã 45 tuổi. Ngay sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư [chuyên việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình] rồi sau được cử giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Nhưng sự qua đời đột ngột của Mạc Thái Tông vào năm Đại Chính thứ 11 khi mới 41 tuổi [1540] đã kết thúc giai đoạn được coi là thịnh trị nhất dưới triều Mạc đồng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng mất đi một chỗ dựa vững chắc cho việc thực hiện những hoài bão trị quốc của mình. Nhân lúc triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái do Mạc Hiến Tông [Mạc Phúc Hải] còn ít tuổi lên thay vua cha nhưng chưa đủ năng lực điều hành chính sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần [trong đó có cả con rể của ông là Phạm Dao làm Trấn thủ Sơn Nam] nhưng không được vua chấp thuận. Bởi vậy, năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan tại triều đình.Sau hai năm về trí sĩ, tới năm Giáp Thìn [1544], vua Mạc lại cho người vềphong tước Trình Tuyền Hầu cho ông, rồi sau lại thăng ông lên chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công. Do vậy mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Một số nhà nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nguồn gốc của tên gọi Trình Tuyền [gắn với tước hiệu Trình Tuyền Hầu và Trình Quốc Công của ông] là bắt nguồn từ tên địa danh của làng Trung Am từ trước chứ không phải là bắt nguồn từ họ tên người theo ý hiểu rằng "Nguyễn Bỉnh Khiêm là người hiểu rõ suối nguồn Lý học của họ Trình [tức Trình Di và Trình Hạo] đời Tống bên Trung Quốc".Gần hai chục năm từ năm 53 tuổi tới 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không ở hẳn kinh đô nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính,lúc bàn quốc sự, lúc theo xa giá nhà vua đi dẹp loạn, vua Mạc tôn kính ông như bậc quân sư. Những việc trọng đại nhà vua thường sai sứ giả về hỏi [trong đó có lời khuyên nổi tiếng đã đi vào sử sách: Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế], có khi lại đón ông lên kinh để bàn việc, xong rồi ông lại trở về làng Trung Am. Ngoài 73 tuổi, ông mới chính thức treo ấn từ quan, về quy ẩn nơi quê nhà. Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải một người bạn lâu niên với Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm thơ ca ngợi tài đức cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu như "Lực phù nhật cốc trụ kình thiên" [năng lực phò vua như cột chống đỡ trời] hay "Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt" [một tay anh kiệt huân nghiệp trải bốn triều vua].Trong những năm trí sĩ cũng nhưthời gian quy ẩn tại quê nhà, ông đã cho dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mởtrường dạy học cạnh sông Tuyết [còn có  tên là sông Hàn]. Vì vậy mà về sau các môn sinh tôn ông là "Tuyết Giang phu tử". Học trò của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính [con trai cả của ông]... Nhiều tài liệu văn học sử cho rằng Nguyễn Dữ[tác giả của Truyền kỳ mạn lục] cũng từng là học trò của ông và được ông phụ chính tác phẩm để Truyền kỳ mạn lục trở thành một áng thiên cổ kỳ bút như Vũ Khâm Lân đã ca ngợi. Tuy nhiên cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Dữ chưa từng là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà chỉ là một người sống cùng thời với ông. Vấn đề này đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất của giới nghiên cứu văn học cũng như lịch sử.Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên [1585], ông tạ thế tại quê nhà ởtuổi 95, đây là tuổi thọ hiếm có đương thời. Trước khi qua đời, ông còn dâng sớ lên vua Mạc: "... Thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy, vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song nhân giả có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa lòng". Bấy giờ vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang đã nói lên sự trân trọng rất lớn của triều Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triều đình lại sai cấp ruộng tự điền trăm mẫu, đồng thời cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà, đích thân vua đề chữ lên biển gắn trước đền thờ là "Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ".Theo bản Phả ký [Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký] do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm 1743, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy ba người vợ và 12 người con, trong đó có 7 người con trai. Cũng giống như cha, hầu hết các con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều theo phò tá nhà Mạc. Bởi vậy sau khi nhà Mạc bị thất thủ dưới tay nhà Lê-Trịnh [1592], con cháu ông đều phải thay tên đổi họ, li tán thập phương. Một chi họ do người con trai cảcủa ông là Hàn Giang hầu Nguyễn Văn Chính đứng đầu đã di cư về vùng Trường Yên thuộc đất Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay và đổi từ họ Nguyễn sang họ Giang nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh. Lúc sinh thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử người con trai thứ 7 [con trai út] dẫn người cháu đội bát hương sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết bên quê ngoại để trông coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng mẹ Nhữ Thị Thục rồi về sau tạo thành một chi họ Nguyễn hậu duệ của Trạng Trình trên đất Tiên Lãng ngày nay.Những đóng góp cho Phật giáoNếu Nguyễn Trãi có nhiều lần đọc "Pháp Bảo đàn kinh" [tác giả từng viết "Môn Thiền nhất phái Tào Khê thủy", "Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm" –"Du Nam Hoa tự"]; Nguyễn Du sau này đã viết "Ngã độc Kim Cương thiên biến kinh" [Tụng đọc "Kinh Kim Cương"  hơn  nghìn  vạn  lần]  ["Lương  Chiêu  Minh  thái  tửphân  kinh  thạch  đài"]  thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài "Độc Phật kinh hữu cảm". Ông đã chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều trong cuộc đời và sáng tác.Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có cái nhìn thời thếrất sâu sắc, độc đáo. Ông học được những kiến thức Nho học từ Lương Đắc Bằng [thuộc phái Tượng số học của Tống Nho]. Học trò suy tôn ông là Tuyết Giang Phu Tử–một bậc chân nho.Tuy nhiên ta vẫn gặp thái độnhư không mấy lạc quan trong cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết những câu tương tự Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi: "Nho quan tự tín đa thân ngộ" [Tự biết "cái mũ nhà nho" đã làm cho tấm thân mắc nhiều lầm lỡ – "Ngụ hứng, 3", "Bạch Vân am thi tập"]. Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan với nhà Mạc nhưng ông cũng thấy được sự đổ nát từ bên trong. Ông đã dâng sớ chống tham nhũng. Về trí sĩ ông lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ như là một tín đồ nhà Phật. [Cha ông là Văn Định cũng đã từng lấy đạo hiệu là Cù Xuyên].Về quê ông tích cực xây chùa, mở trường học. Thường ngày ông cùng với vài nhà sư, một số bạn bè dạo chơi các danh thắng trong đó có núi Yên Tử – trung tâm thiền học Việt Nam. Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi chùa Phổ Minh [ngôi chùa được xây dựng từthời nhà Trần], ông đã sánh Pháp giới của nhà Phật với quan niệm Trời của Nho gia: "Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại" [Pháp giới sánh ngang tầm rộng lớn của trời] "Du Phổ Minh tự"]. Điều này chứng tỏông đã nhận thức được tư tưởng "Nhất thế chư pháp vô phi Phật pháp" ở "Kinh Kim Cang" [7, 56]. Đến tiết Trung nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm hy vọng ở lòng yêu thương rộng lớn:"Từ bi ta muốn nhờ công sức, Cứu được bao người chịu khổ oan" ["Trung nguyên tiết xá tội" –Đinh Gia Khánh dịch]. Nhà thơ rất cảm hứng khi đọc kinh Phật ["Độc Phật kinh hữu cảm"]. Ông tâm đắc triết lý sắc không: "Xuân hoa phong nguyệt không mà sắc" ["Tân quán ngụhứng, 12"]. Đây là tư tưởng "Sắc tức thịkhông, không tức thịsắc" nổi bật của "Kinh Bát nhã" Tư tưởng Thiền có lẽ đã gây chấn động trong nhận thức của tác giả: "Vị Phật na tri vô hữu tướng, Đáo thiền phương ngộ bổn lai ky [cơ]" [Chưa Phật nào hay vô hữu tướng, Đạt thiền mới biết bổn lai cơ –"Tân quán ngụ hứng, 18"]. Tư tưởng này được tìm thấy ở"Kinh Kim Cang". Khi Phật nói với Tu –bồ-đề: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu các ông thấy các pháp [tướng] đều hư vọng, không thật [phi tướng] tức là thấy được Như Lai [thật tướng các pháp]" [7, 41]. Tư tưởng này cũng được tiếp nối ở"Pháp Bảo Đàn kinh". Tác giả nói "Bổn lai cơ" trong trường hợp này không ngoài mệnh đề "Bổn lai vô nhất vật" ["Pháp Bảo Đàn kinh"]. Khái niệm "cơ" ở  cuối câu có thể có nguồn gốc xuất pháp từ Tượng Số học –vốn là sở trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính tư tưởng Thiền và kinh Phật đã làm phong phú và nâng cao bản lĩnh Nho học cùng bản sắc trí tuệ trong thơ và đời Nguyễn Bỉnh Khiêm.Tác phẩmTronglịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri...Nhưng ông cũng đồng thời là một tác gia lớn có những đóng góp quan trọng trong sựphát triển của văn học dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm.Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉcủa thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc. Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng một nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đềtựa cho tập thơ chữ Hán của mình, ông đã viết: "... Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân" [Bạch Vân am thi tập tiền tự]. Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập [còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập], chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký [Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký] của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc.Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn năm 1743, có đôi dòng nhận định về di sản thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "không cần gọt dũa mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà có nhiều ý vị... như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy". Danh sĩ thời nhà Nguyễn là Phan Huy Chú trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí ở phần Văn tịch chí cũng gần như có chung quan điểm với Vũ Khâm Lân khi nhận xét về thơ văn Trạng Trình: "thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên".Như PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh [Viện Văn học] đã đánh giá, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ viết nhiều nhất trong năm thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam. Về số lượng mà xét thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà quán quân. Tuy nhiên vấn đề không chỉlà số lượng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có một phong cách thơ riêng không lẫn. Ai cũng biết một nguyên tắc thẩm mỹ quan trọng của thơ thời trung đại là "thơ ngôn chí", nguyên tắc mà các nhà nghiên cứu hiện đại thường xem là làm hạn chế tính thẩm mỹ của thơ và ngay các nhà thơ cổcũng không phải đều nhất nhất tuân theo. Thế nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tuân theo một cách "triệt để" và với một cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ. Với ông, đề vịnh, tự sự, tự thuật cũng đều để ngôn chí, và phong cách riêng của ông cũng được xác định chính từ những vần thơ ngôn chí ấy. Thơ văn của ông thể hiện sự ưu thời mẫn thế, đậm chất triết lý, giáo huấn nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.Theo đánh giá của GS. Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận "Bước đầu suy nghĩ vềVăn học Mạc", thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh dấu cho sự khởi đầu của một hình thức tư duy mới trong tiến trình hoàn thiện thơ ca trung đại Việt Nam. Đó là tư duy thế sự. Thơ vẫn mang tính trữ tình nhưng là "trữ tình lý trí". Nó mang hình thức không phải là tư duy cảm tính mà là tư duy lý tính, nhìn thẳng vào xã hội nên gọi là tư duy thế sự. Bởi vậy thơ có tính phát hiện, hiện thực rất đáng kể. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu vào các ngóc ngách của xã hội để thấy bức tranh phức tạp của xã hội mà bức tranh ấy diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực. Vì là tư duy thế sự nên cũng nhìn sâu vào tâm lý con người. Trong khi ở thời trước đó [điển hình là thời của Lê Thánh Tông] mọi thứ trong xã hội đều được ước lệ hoá, công thức hoá, được mỹ hoá thành một xã hội chung chung đâu cũng như nhau.Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là người tiếp nối cho sự phát triển và hoàn thiện của nền thơ ca dân tộc kể từ sau Nguyễn Trãi, đồng thời bổsung vào đó đậm đặc hơn, chất triết lý, suy tưởng và giáo huấn, để thơ trở thành một công cụ hữu ích, phục vụ con người, phản ánh hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng một cách sâu sắc, với cái nhìn khái quát của một triết gia, trong đó có những chiêm nghiệm từng trải của cá nhân ông. Giàu chất trí tuệ, thơ ông là những khát vọng muốn khám phá những quy luật của thiên nhiên, xã hội và của cả con người, nhằm tự vượt thoát ra khỏi những bế tắc của một thời và có ảnh hưởng sâu sắc tới tận ngày hôm nay, cả về tư tưởng và nghệ thuật của thơ, cả về tầm vóc văn hóa và nhân cách của một nhà thơ, được thể hiện rõ nét nhất qua Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các học giả như GS. Nguyễn Huệ Chi [Viện Văn học] và PGS.TS. Trần  Nguyên  Việt [Viện  Triết  học] có  chung quan điểm  khi  cho rằng  Nguyễn  Bỉnh Khiêm là người mở đầu cho tư duy biện chứng trong lịch sửtư tưởng Việt Nam dưới cái nhìn mang đậm tính triết học thể hiện qua thơ văn của ông.Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ [cả chữ Hán và chữ Nôm] còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia [bi ký] nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh... Hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình [nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa]. Những văn bia đó không chỉ có giá trị về mặt lịch sử hay khảo cổ mà còn chứa đựng nhiều giá trị về mặt tư tưởng cũng như nhân sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong số đó, có giá trị nhất là bài văn bia tại quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn với nội dung như sau: "... Tôi viết biển đề tên Quán Trung Tân. Có người hỏi tôi: Quán tên là Trung Tân có ý nghĩa như thế nào? Tôi trảlời rằng: Trung là đạo trung, giữ được toàn Thiện là Trung, trái lại thì không phải là Trung. Còn Tân là bến để đậu, biết chỗ bến đậu đúng thì là bến chính, nếu đậu sai chỗ là bến mê... Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ chí Thiện... Xin ghi vào đá đểlưu lại lâu dài. Tháng Mạnh xuân, niên hiệu Quảng Hoà thứ ba [1543] Tiến sĩ cập đệ khoa Ất Mùi [1535] Lại bộ Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ Tư chính Khanh Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn" [Bản dịch của nhà sửhọc Ngô Đăng Lợi]. Qua bài văn bia này, ông không chủ trương trung với một cá nhân nào dù đó là một ông vua, mà làtrung với lẽ phải, với chân lý, với điều thiện và với nghĩa vụ mà mình phải thực hiện.Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm kí Nôm thường mang tên Trạng Trình [Sấm Trạng Trình] và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm.Di ngôn...Vẹn toàn điều  Thiện  là  Trung,  không  vẹn  toàn điều  Thiện  thì  không  phải  là Trung. Tân là cái bến, biết chỗdừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê... Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện. [Trung Tân quán bi ký, 1543]...Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. [Diên Thọkiều bi ký, 1568]Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân [Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giảcủa Đoan Quận công Nguyễn Hoàng]Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế[Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của vua Mạc]Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong [Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về mối quan hệ giữa vua Lê và chúa Trịnh]Tứ bách niên tiền, chung phục thuỷ/ Thập tam thếhậu, dị nhi đồng [Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về con cháu họ Mạc]Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam [Thơ gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải]Tiền trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh trọng Việt Nam [Thơ gửi Trạng nguyên, Thư Quốc công Nguyễn Thiến]Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ/ Hưng tộ diên trường ức vạn xuân [Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về thời vận mới của nước Việt]Cổ lai quốc dĩ dân vi bản / Đắc quốc ưng tri tại đắc dân [Thơ chữ Hán, Cảm hứng]Cổ lai nhân giả tư vô địch / Hà tất khu khu sự chiến tranh [Thơ chữ Hán]Nho quan tự tín đa thâm ngộ/ Đình thực thùy năng vị quốc mưu [Thơ chữ Hán, Ngụ hứng]Tất cánh dục cầu ngô lạc xứ/ Tri ngô hậu lạc tại tiên ưu [Thơ chữ Hán, Ngụ hứng]Có thuở được thời mèo đuổi chuột / Đến khi thất thế kiến tha bò [Thơ chữ Nôm, Bài số 75]Thớt có tanh tao ruồi đậu đến / Ang không mật mỡ kiến bò chi [Thơ chữ Nôm, Bài số 53]Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa / Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi [Thơ chữ Nôm, Bài số 52]Thế gian biến cải vũng nên đồi / Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi [Thơ chữ Nôm, Bài số 77]Làm người hay một chớ hay hai / Chớ cậy rằng hơn, chớ cậy tài [Thơ chữ Nôm, Bài số 65]Làm người chớ thấy tài mà cậy / Có nhọn bao nhiêu lại có tù [Thơ chữ Nôm, Bài số 11]Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao [Thơ chữ Nôm, Bài số 79]Làm người có dại mới nên khôn / Chớ dại ngây si, chớ quá khôn [Thơ chữ Nôm, Bài số 94]Chớ cậy rằng khôn khinh rẻ dại / Gặp thời, dại cũng hoá ra khôn [Thơ chữ Nôm, Bài số 94]Thuở khó dẫu chào, chào cũng lảng / Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thời quen [Thơ chữ Nôm, Bài số 5]Đạo ở mình ta lấy đạo trung / Chớ cho đục, chớ cho trong [Thơ chữ Nôm, Bài số 104]Nguyễn Bỉnh Khiêm là tấm gương sáng về tài năng và nhân cách. Tấm gương đó còn sáng soi đến mãi ngày nay và sau này.

Video liên quan

Chủ Đề