Chất lượng giấc ngủ của sinh viên hệ chính quy trường đại học y dược huế năm 2015
Nguyễn Thị Khánh Linh, Đặng Hồng Nhung, Phạm Bá Bảo Ngân, Võ Văn Thắng, Nguyễn Minh Tú,
Tóm tắt
Nghiên cứu đánh giá chất lượng giấc ngủ và tìm hiểu các yếu tố liên quan với rối loạn giấc ngủ theo thang điểm Pittsburgh ở sinh viên hệ chính quy thuộc Trường Đại học Y Dược Huế. Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 577 sinh viên hệ chính quy Trường Đại học Y Dược Huế. Dữ liệu được thu thập bằng cách phỏng vấn dựa vào bộ câu hỏi và số liệu được xử lí bằng phần mềm SPSS 20.0. Chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh [PSQI] đã được sử dụng để kiểm tra chất lượng giấc ngủ [PSQI>5: chất lượng giấc ngủ kém]. Ngoài ra còn có thang đánh giá trầm cảm - lo âu - stress [DASS21], các chỉ số sức khỏe [hút thuốc, lối sống ít vận động, tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe thể chất] đã được thực hiện để tìm hiểu các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ. Kết quả cho thấy giờ ngủ trung bình của sinh viên là 6,1 giờ [SD = 1,05]. Tỷ lệ sinh viên có chất lượng giấc ngủ kém là 49,4% [n = 577]. Có mối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ với một số yếu tố: căng thẳng, trầm cảm, lo âu, không gian ngủ, tiếng ồn, thói quen ngủ trưa, căng thẳng học tập và sự kiện cuộc sống. Vì vậy chất lượng giấc ngủ của sinh viên Y Dược Huế là một vấn đề cần quan tâm.
URI: //trichdan.link/bai-bao/NTKL2017218 |
Loading Preview
Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.
9 760 KB 1 52
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06[43] [2020] 86-94 86 06[43] [2020] 86-94 Nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng
Perception of sleep quality among nursing students
Nguyễn Thị Bích Trâma,b*
Nguyen Thi Bich Trama,b*
a Trung tâm Thực hành Mô phỏng Y khoa, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
a
Medical Simulation Center, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam
b
Khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
b
Faculty of Nursing, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam [Ngày nhận bài: 29/10/2020, ngày phản biện xong: 02/11/2020, ngày chấp nhận đăng: 17/12/2020] Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ và xác định các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh
viên điều dưỡng năm nhất. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Áp dụng phương pháp nghiên cứu cắt ngang thông
qua bộ câu hỏi PSQI [Thang đo chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh]. Tổng cộng có 120 sinh viên Cử nhân điều
dưỡng năm nhất tham gia vào nghiên cứu. Kết quả: Tổng điểm chỉ số chất lượng giấc ngủ PSQI trung bình của sinh
viên là 4,88 [SD = 2,48] và có 35,4% người tham gia có tổng điểm PSQI lớn hơn 5, có liên quan đến chất lượng giấc
ngủ kém. Có 67,5% sinh viên tự đánh giá chất lượng giấc ngủ của họ tốt và rất tốt mặc dù tổng điểm PSQI cho thấy chỉ
có 64,5% sinh viên mới thực sự có chất lượng giấc ngủ tốt. Các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng
năm nhất bao gồm: Các rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng ban ngày và việc uống thuốc ngủ. Trong đó các rối loạn
giấc ngủ phổ biến nhất là không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút, thức dậy vào giữa đêm hoặc sáng sớm, phải
dậy để đi vệ sinh và tiếng ồn.
Kết luận: Sinh viên chưa cảm nhận được thực sự chất lượng giấc ngủ của họ như thế nào điều này có thể do sinh viên
còn thiếu kiến thức về những yếu tố tạo nên chất lượng giấc ngủ tốt.
Từ khóa: Chất lượng giấc ngủ, sinh viên Điều dưỡng, rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng ban ngày và thuốc ngủ. Abstract
Objectives: Explore the perception of sleep quality and identify the sleep-related factors of freshman nursing students.
Method: This study had a descriptive, cross-sectional survey design using the Pittsburgh Sleep Quality Index [PSQI]
with a total of 120 students participating in this study. Result: The students' sleep quality index mean score was 4.88
[SD = 2.48]. 35.4% of participants had PSQI scores greater than 5, which was associated with poor sleep quality. 67.5%
of students self-rated their sleep quality as good and very good although the overall PSQI score showed that only 64.5%
of participants had good sleep quality. Sleep-related factors of freshman nursing students included: sleep disturbances,
daytime dysfunction, and the use of sleeping pills. The most common sleep disorders were the inability to fall asleep
within 30 minutes, waking up in the middle of the night or the early morning, having to get up to use the toilet, and
noise. Conclusion: Students did not realize that the quality of their sleep was poor. This may be due to the lack of
knowledge about the factors that contribute to good sleep quality.
Keywords: Sleep quality, nursing students, sleep disturbance, daytime dysfunction, sleeping pills.
* Corresponding Author: Nguyen Thi Bich Tram; Medical Simulation Center, Duy Tan University, Danang, 550000,
Vietnam; Faculty of Nursing, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam
Email: Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06[43] [2020] 86-94 1. Đặt vấn đề
Giấc ngủ là điều cần thiết cho sức khỏe thể
chất và tinh thần. Chất lượng giấc ngủ kém và
thói quen ngủ kém có thể dẫn đến thiếu ngủ,
gây hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và xã
hội [8]. So với các vấn đề sức khỏe khác thì sức
khỏe giấc ngủ là chủ đề chưa được nghiên cứu
nhiều [12]. Đặc biệt vấn đề giấc ngủ của sinh
viên điều dưỡng cũng cần phải được quan tâm.
Nghiên cứu chỉ ra rằng sinh viên điều dưỡng
còn thiếu kiến thức về hậu quả của việc thiếu
ngủ cũng như ảnh hưởng của nó đến chất lượng
và sự an toàn khi chăm sóc người bệnh [16].
Bên cạnh đó, sinh viên năm nhất có nguy cơ
thiếu ngủ nghiêm trọng vì đây là thời gian ít sự
giám sát của người lớn, lịch trình thất thường
và dễ dàng tiếp cận với các loại hình giải trí
khác nhau [14]. Ngoài ra, đây cũng có thể là lần
đầu sinh viên phải sống trong ký túc xá hoặc
nhà trọ, điều này cũng liên quan đến chất lượng
giấc ngủ kém [3]. Đối với sinh viên điều
dưỡng, các nguyên nhân gây rối loạn giấc ngủ
được báo cáo bao gồm phải thức dậy quá sớm
hoặc thường xuyên thức dậy lúc nửa đêm [10].
Đối với sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất,
việc vừa học vừa làm và thức khuya để học bài
cũng được tìm thấy có ảnh hưởng tiêu cực đến
chất lượng giấc ngủ [4].
Để hiểu rõ hơn về giấc ngủ của sinh viên
điều dưỡng, người sẽ trực tiếp chăm sóc người
bệnh và ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ
chăm sóc y tế trong tương lai.
Nghiên cứu gồm 2 mục tiêu:
1. Đánh giá mức độ nhận thức về chất lượng
giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng năm nhất, 87 HBM là mô hình tâm lý được phát triển nhằm
giải thích và dự đoán hành vi liên quan đến sức
khỏe. Bốn thành phần chính của HBM là: tính
nhạy cảm nhận thức [perceived susceptibility],
mức độ nghiêm trọng của nhận thức [perceived
severity], lợi ích của nhận thức [perceived
benefits] và rào cản nhận thức [perceived
barriers] [7]. Trong những năm qua, mô hình
được mở rộng bao gồm các tín hiệu hành động
[cues to action], tính hiệu quả [self-efficacy] và
các yếu tố thúc đẩy [motivating factors] [7].
Một nghiên cứu gần đây đã sử dụng HBM
để dự đoán hành vi giấc ngủ ở sinh viên đại
học, nghiên cứu tìm thấy có mối tương quan
thuận giữa mức độ nghiêm trọng của nhận thức
với giấc ngủ [11]. Sinh viên cảm nhận được các
hậu quả tức thời của việc ngủ không đủ giấc,
chẳng hạn như căng thẳng hoặc không thể tập
trung vào công việc. Bên cạnh đó, các tín hiệu
hành động để có được giấc ngủ đầy đủ được
tìm thấy bao gồm tạo môi trường phòng ngủ
thoải mái, giảm căng thẳng, thư giãn trước khi
đi ngủ và duy trì lịch trình ngủ đều đặn [11].
Thành phần HBM được sử dụng trong
nghiên cứu này là nhận thức cá nhân [tính nhạy
cảm và mức độ nghiêm trọng của nhận thức] và
yếu tố thúc đẩy. Nhận thức cá nhân chứa bảy
thành phần của chỉ số chất lượng giấc ngủ
Pittsburgh [PSQI: Pittsburgh Sleep Quality
Index] và số giờ ngủ mỗi đêm cần thiết để cảm
thấy được nghỉ ngơi. Yếu tố thúc đẩy gồm
thông tin sinh viên [tuổi, giới tính] và tín hiệu
hành động có thể xảy ra [sinh viên tin rằng
điểm số sẽ được cải thiện nếu ngủ nhiều hơn]. 2. Xác định các yếu tố liên quan đến giấc
ngủ của sinh viên. 2. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu Mô hình khung khái niệm được sử dụng
trong nghiên cứu này là mô hình niềm tin sức
khỏe Rosenstock [HBM - Health Belief Model]. Thiết kế nghiên cứu được sử dụng trong
nghiên cứu này là thiết kế nghiên cứu cắt ngang
và sử dụng bảng câu hỏi có cấu trúc. 2.1. Thiết kế nghiên cứu 88 Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06[43] [2020] 86-94 2.2. Cỡ mẫu
Công thức tính cỡ mẫu:
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng
một tỷ lệ: nguyện và họ được phép rút khỏi nghiên cứu
bất kỳ thời điểm nào trong khi hoàn thành bảng
câu hỏi. Bảng câu hỏi sẽ được trao cho sinh
viên để hoàn thành và gửi lại cho tác giả, việc
này sẽ không mất quá 15 phút.
2.5. Bộ công cụ nghiên cứu Trong đó:
n: cỡ mẫu
α: xác suất sai lầm loại I [𝛂=0,05]
Z[1-α/2] = 1,96
d: sai số cho phép, chọn d = 0,05
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Trang
thì tỷ lệ p = 8% [2]. Do đó, cỡ mẫu ước lượng
là 114 đối tượng.
Thực tế chúng tôi nghiên cứu được 120 đối
tượng.
Đối tượng nghiên cứu ở đây là các sinh viên
cử nhân Điều dưỡng năm thứ nhất đang học tại
Trường Đại học Duy Tân.
2.3. Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện [Convenience sampling]
được sử dụng để tiếp cận sinh viên.
2.4. Quy trình thu thập số liệu
Tác giả đã khảo sát các sinh viên năm nhất
trong học kỳ thứ hai của năm học 2019-2020,
thời gian khảo sát kéo dài từ ngày 10 tháng 01
năm 2020 đến ngày 29 tháng 3 năm 2020. Tác
giả đã gửi bộ khảo sát online đến các sinh viên.
Mục đích của nghiên cứu, vai trò của người
tham gia, cũng như những gì tác giả dự định
làm sẽ được giải thích cho từng người tham gia.
Mỗi sinh viên sẽ được cung cấp một mẫu thông
tin giải thích chi tiết về nghiên cứu và sau khi
đọc, họ sẽ được yêu cầu hoàn thành một mẫu
đơn đồng ý trước khi trả lời bảng câu hỏi.
Những người tham gia sẽ được thông báo rằng
việc tham gia vào nghiên cứu là hoàn toàn tự Bộ công cụ nghiên cứu gồm ba phần: các
câu hỏi về thông tin người tham gia, câu hỏi về
nhận thức cá nhân và tín hiệu hành động, và bộ
câu hỏi về thang đo chỉ số chất lượng giấc ngủ
Pittsburgh [PSQI]. Phần thông tin người tham
gia gồm các câu hỏi về tuổi và giới tính. Phần
nhận thức cá nhân và tín hiệu hành động gồm
hai câu hỏi. Câu hỏi đầu tiên kiểm tra xem số
giờ ngủ mỗi đêm mà sinh viên cảm thấy là cần
thiết để được nghỉ ngơi [nhận thức cá nhân] và
câu hỏi thứ hai kiểm tra xem sinh viên có tin
rằng nếu ngủ nhiều hơn thì điểm số của họ sẽ
được cải thiện [tín hiệu hành động].
PSQI là công cụ được sử dụng phổ biến
nhất trên nghiên cứu lâm sàng, hiện tại đây là
công cụ lâm sàng được tiêu chuẩn hóa duy nhất
bao gồm một loạt các chỉ số liến quan đến chất
lượng giấc ngủ [15][4]. PSQI bao gồm 7 phần
và 19 mục, mỗi mục có phạm vi từ 0 đến 3
điểm, điểm tổng có thể dao động từ 0 - 21.
Tổng điểm càng cao, chất lượng giấc ngủ càng
kém [5]. Bảy thành phần của PSQI gồm: chất
lượng giấc ngủ [sleep quality], thời gian đi vào
giấc ngủ [sleep latency], thời gian ngủ [sleep
duration], hiệu quả giấc ngủ theo thói quen
[habitual sleep efficiency], rối loạn giấc ngủ
[sleep disturbances], sử dụng thuốc ngủ [use of
sleeping medications] và rối loạn chức năng
ban ngày [daytime dysfunction]. PSQI có hệ số
tương quan là 0,85 [p < 0,001] và hệ số độ tin
cậy [Cronbach alpha] là 0,83; khi phân biệt
giữa người ngủ kém và người ngủ tốt, điểm số
lớn hơn 5 trên PSQI được chứng minh có độ
nhạy 89,6% và độ đặc hiệu 86,5% [5]. Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06[43] [2020] 86-94 2.6. Phân tích dữ liệu
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS
18.0, sử dụng phép phân tích thống kê mô tả và
phân tích mối tương quan Spearman giữa bảy
thành phần của PSQI với mức ý nghĩa thống kê
là p < 0,05.
2.7. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được phê duyệt bởi Hội đồng
Y Sinh Dược Trường Đại học Duy Tân. Sự
đồng thuận tham gia nghiên cứu của người
tham gia được ngụ ý thông qua việc người tham
gia gửi lại bảng câu hỏi sau khi hoàn thành. Sự
tham gia là tự nguyện và người tham gia hoàn
toàn được ẩn danh.
3. Kết quả và phân tích
3.1. Thông tin người tham gia
Có 120 sinh viên điều dưỡng năm nhất đã
tham gia vào nghiên cứu này. Tuổi trung bình của
những người tham gia là 18,7 tuổi [trong khoảng
18 - 25 tuổi] và 90% sinh viên là nữ [n = 108].
3.2. Mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ
của sinh viên điều dưỡng năm nhất
Tổng điểm chỉ số chất lượng giấc ngủ PSQI
trung bình của mẫu là 4,88 [SD = 2,48; range:
0 - 12], hai giá trị xuất hiện thường xuyên nhất
[mode] là 4 và 5. Có 35,4% [n = 41] người
tham gia có tổng điểm PSQI lớn hơn 5, có liên
quan đến chất lượng giấc ngủ kém.
Bảng 3.1. Phần trăm các biến đo lường giấc
ngủ
Biến số
n = 120 [%]
Số giờ ngủ cần thiết để cảm thấy được nghỉ
ngơi
0 - 4 tiếng
0 [0]
5 - 6 tiếng
25 [20,8]
7 - 8 tiếng
69 [57,5]
8 - 9 tiếng
23 [19,2]
Nhiều hơn 9 tiếng
3 [2,5]
Chất lượng giấc ngủ nói chung
Rất tốt
13 [10,8] Tốt
Kém
Rất kém 89 68 [56,7]
37 [30,8]
2 [1,7] Bảng 3.1 cho thấy phần lớn sinh viên báo
cáo cần ngủ từ 7 - 9 giờ mỗi đêm để cảm thấy
được nghỉ ngơi [n = 92; 76,7%]. Sinh viên
được yêu cầu tự đánh giá chất lượng giấc ngủ
của họ nói chung và có 67,5% sinh viên đánh
giá chất lượng giấc ngủ của họ tốt và rất tốt
[n = 81], mặc dù tổng điểm PSQI cho thấy chỉ
có 64,5% số người tham gia [n = 75] mới thực
sự có chất lượng giấc ngủ tốt.
Bảng 3.2. Giá trị trung bình và độ lệch
chuẩn của các biến đo lường giấc ngủ
Đo lường giấc ngủ
Giờ đi ngủ
Số phút đi vào giấc ngủ
Thời gian thức dậy
Thời gian ngủ M ± SD
11:26 pm ± 1,12
21,4 phút ± 18
7:11 am ± 1,54
7,06 giờ ± 1,47 Bảng 3.2 cho thấy thời gian đi ngủ trung
bình của sinh viên là khoảng vào lúc 11:26 pm
[SD = 1,12; range: 9:30 pm - 2:30 am] và số
phút đi vào giấc ngủ mỗi đêm trung bình là
21,4 phút [SD = 18; range: 1 - 120 phút].
Khoảng 11,8% người tham gia [n = 14] báo cáo
thời gian đi vào giấc ngủ từ 45 phút trở lên.
Thời gian thức dậy trung bình khoảng 7:11 am
[SD = 1,54; range: 4 am - 1 pm] và thời gian
ngủ trung bình là 7,06 giờ [SD = 1,47; range:
2,5 - 11 giờ] Bảng 2]. Có 20% sinh viên cảm
thấy rằng nếu ngủ nhiều hơn, điểm số của họ sẽ
được cải thiện [n = 24].
Bảng 3.3. Tần suất xuất hiện các rối loạn
giấc ngủ
n = 120
Trong tháng qua, bạn có
[%]
thường xuyên khó ngủ vì
Không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút
35 [29,2]
Không
26 [21,7]
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần 90 Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06[43] [2020] 86-94 32 [26,7]
1 hoặc 2 lần 1 tuần
27 [22,5]
3 lần trở lên trong 1 tuần
Thức dậy giữa đêm và sáng sớm
50 [41,7]
Không
24 [20,0]
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần
26 [21,7]
1 hoặc 2 lần 1 tuần
20 [16,7]
3 lần trở lên trong 1 tuần
Phải dậy để đi vệ sinh
59 [49,2]
Không
35 [29,2]
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần
14 [11,7]
1 hoặc 2 lần 1 tuần
12 [10,0]
3 lần trở lên trong 1 tuần
Không thể thở thoải mái
90 [75,0]
Không
16 [13,3]
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần
8 [6,7]
1 hoặc 2 lần 1 tuần
6 [5,0]
3 lần trở lên trong 1 tuần
Ho hoặc ngáy to
100 [83,3]
Không
10 [8,3]
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần
5 [4,2]
1 hoặc 2 lần 1 tuần
5 [4,2]
3 lần trở lên trong 1 tuần
Cảm thấy quá lạnh
71 [59,2]
Không
30 [25,0]
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần
14 [11,7]
1 hoặc 2 lần 1 tuần
5 [4,2]
3 lần trở lên trong 1 tuần
Cảm thấy quá nóng
85 [70,8]
Không
21 [17,5]
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần
9 [7,5]
1 hoặc 2 lần 1 tuần 3 lần trở lên trong 1 tuần
Gặp ác mộng
Không
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần
1 hoặc 2 lần 1 tuần
3 lần trở lên trong 1 tuần
Bị đau
Không
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần
1 hoặc 2 lần 1 tuần
3 lần trở lên trong 1 tuần
Những lý do khác
Không
Có với tần suất trung bình ít
hơn 1 lần 1 tuần
1 hoặc 2 lần 1 tuần
3 lần trở lên trong 1 tuần 5 [4,2]
77 [64,2]
24 [20,0]
12 [10,0]
7 [5,8]
82 [68,3]
28 [23,3]
3 [2,5]
7 [5,8]
7 [14,6]
14 [29,2]
14 [29,2]
13 [27,1] Sinh viên được yêu cầu chọn tần suất trải
qua một số rối loạn giấc ngủ trong vòng một
tháng qua dựa trên thang điểm sau: Không trải
qua, có trải qua nhưng với tần suất trung bình ít
hơn một lần một tuần, một hoặc hai lần một
tuần, ba hoặc nhiều lần một tuần [Bảng 3.3].
Các rối loạn giấc ngủ phổ biến nhất được báo
cáo bởi sinh viên dựa trên tần suất xảy ra là
không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút,
thức dậy vào giữa đêm hoặc sáng sớm, phải dậy
để đi vệ sinh và những lý do khác mà sinh viên
mô tả bao gồm: do áp lực học tập, nhớ nhà,
căng thẳng, lo lắng chi tiêu, dùng facebook,
uống caffe, ngủ trưa nhiều, cơ thể nhức mỏi,
đau đầu, tức ngực, muỗi đốt và tiếng ồn. Có
10% [n = 12] sinh viên thấy khó đi vào giấc
ngủ do suy nghĩ nhiều và hai sinh viên báo cáo
điều này xảy ra ba lần mỗi tuần hoặc nhiều hơn. Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06[43] [2020] 86-94 91 Bảng 3.4. Phần trăm các thành phần chất lượng giấc ngủ
Trong tháng qua, bạn có thường xuyên
n = 120 [%]
Uống thuốc ngủ hay không?
Không
117 [97,5]
Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần
1 [0,8]
1 hoặc 2 lần 1 tuần
2 [1,7]
3 lần trở lên trong 1 tuần
0 [0]
Cảm thấy buồn ngủ khi lái xe, khi ăn uống hay khi tham gia vào các hoạt động xã hội hay không?
Không
66 [55,0]
Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần
37 [30,8]
1 hoặc 2 lần 1 tuần
11 [9,2]
3 lần trở lên trong 1 tuần
6 [5,0]
Cảm thấy không có đủ nhiệt huyết để hoàn thành công việc hay không?
Không
54 [45,0]
Có với tần suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tuần
34 [28,3]
1 hoặc 2 lần 1 tuần
21 [17,5]
3 lần trở lên trong 1 tuần
11 [9,2]
Bảng 3.4 hiển thị phần trăm của các thành
phần chất lượng giấc ngủ còn lại bao gồm sử
dụng thuốc để hỗ trợ giấc ngủ, khó tỉnh táo
trong các hoạt động xã hội và gặp vấn đề trong
việc nhiệt tình hoàn thành nhiệm vụ. Khoảng
2% sinh viên báo cáo dùng thuốc để hỗ trợ giấc
ngủ ít nhất một lần mỗi tuần và 45% sinh viên khó giữ được tỉnh táo khi lái xe, khi ăn hoặc khi
tham gia hoạt động xã hội. Hơn 50% sinh viên
báo cáo không có nhiệt huyết để hoàn thành
công việc với tần suất nhiều hơn một lần một
tuần và khoảng 9,2% sinh viên gặp vấn đề này
ba lần trở lên trong một tuần. Bảng 3.5. Mối tương quan của các thành phần PSQI
Thành phần
PSQI
Thời gian
ngủ
Rối loạn
giấc ngủ
Thời gian đi
vào giấc
ngủ
Hiệu suất
giấc ngủ
Uống thuốc
ngủ
Rối loạn
chức năng
ban ngày
Chất lượng
giấc ngủ
Giới tính
Tuổi Thời
gian
ngủ
1,000 Rối loạn
giấc ngủ Hiệu
suất giấc
ngủ
-0,422 Uống
thuốc
ngủ
-0,261 Rối loạn
chức năng
ban ngày
-0,021 Chất
lượng
giấc ngủ
-0,265 Giới
tính Tuổi 0,085 Thời gian
đi vào
giấc ngủ
0,067 -0,122 -0,045 0,085 1,000 0,100 -0,022 0,209* 0,461** 0,331** -0,151 -0,161 0,067 0,100 1,000 -0,063 -0,042 -0,030 0,234** -0,006 -0,096 -0,422 -0,022 -0,063 1,000 0,085 0,041 0,073 -0,067 -0,008 -0,261 0,209* -0,042 0,085 1,000 0,226* 0,039 -0,051 -0,010 -0,021 0,461** -0,030 0,041 0,226* 1,000 0,265** -0,003 -0,079 -0,265 0,331** 0,234** 0,073 0,039 0,265** 1,000 -0,119 -0,139 -0,122
-0,045 -0,151
-0,161 -0,006
-0,096 -0,067
-0,008 -0,051
-0,010 -0,003
-0,079 -0,119
-0,139 1,000
0,068 0,068
1,000 Ghi chú: * p < 0,05 và ** p ≤ 0,01 92 Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06[43] [2020] 86-94 3.3. Các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của
sinh viên điều dưỡng
Mối tương quan được đánh giá giữa bảy
thành phần của PSQI. Có 6 mối tương quan đã
được tìm thấy giữa các biến: rối loạn giấc ngủ
và uống thuốc ngủ [r = 0,209; p = 0,022], rối
loạn giấc ngủ và rối loạn chức năng ban ngày
[r = 0,461; p = 0,000], rối loạn giấc ngủ và chất
lượng giấc ngủ [r = 0,331; p = 0,000], thời gian
đi vào giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ [r =
0,234; p =0,010], uống thuốc ngủ và rối loạn
chức năng ban ngày [r = 0,226; p = 0,013], rối
loạn chức năng ban ngày và chất lượng giấc
ngủ [r = 0,265; p = 0,003] [bảng 3.5].
4. Thảo luận
4.1. Mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ
của sinh viên điều dưỡng năm nhất
Có 35.4% sinh viên Điều dưỡng năm nhất có
chất lượng giấc ngủ kém. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ
lệ sinh viên hệ chính quy Trường Đại học Y
Dược Huế [có chất lượng giấc ngủ kém là
49.4%] [1][3]. Kết quả này cũng trái với các
nghiên cứu khác, các kết quả trước kết luận có
71% đến 84% sinh viên Điều dưỡng có chất
lượng giấc ngủ kém [4], [10]. Tuy nhiên, có
67.5% sinh viên tự đánh giá chất lượng giấc
ngủ của họ là tốt, trong khi tổng điểm PSQI cho
thấy 64.5% sinh viên mới thực sự có chất lượng
giấc ngủ tốt. Điều này cho thấy sinh viên chưa
cảm nhận được thực sự chất lượng giấc ngủ của
họ như thế nào. Sự khác biệt trong việc tự đánh
giá của sinh viên về chất lượng giấc ngủ có thể
do thiếu kiến thức về những yếu tố tạo nên chất
lượng giấc ngủ tốt.
Hầu hết sinh viên [khoảng 76.7%] thừa nhận
cần ngủ từ 7 đến 9 giờ để cảm thấy được nghỉ
ngơi, điều này phù hợp với khuyến nghị của Tổ
chức Giấc ngủ Quốc gia về việc người trưởng
thành cần ngủ từ 7 đến 9 giờ [9][2]. Kết quả
này tương tự với kết quả từ nghiên cứu của
Thomas và cộng sự, ông báo cáo rằng 85% sinh viên Điều dưỡng mỗi đêm cần ngủ 7 tiếng trở
lên để cảm thấy được nghỉ ngơi [16][5]. Ngoài
ra, có 20% sinh viên tin rằng nếu họ ngủ nhiều
hơn, điểm số của họ sẽ được cải thiện, cho thấy
20% sinh viên này đang thừa nhận rằng việc
thiếu ngủ có ảnh hưởng đến khả năng học tập
của họ, đây là một dấu hiệu tích cực có thể dẫn
đến thay đổi hành vi. Tuy nhiên, kết quả này
trái với kết quả của một nghiên cứu gần đây,
nghiên cứu đó báo cáo rằng 74% sinh viên Điều
dưỡng tin rằng họ sẽ cải thiện học tập nếu ngủ
nhiều hơn [16][5].
Thời gian ngủ trung bình trong nghiên cứu
này là 7.06 giờ mỗi đêm, phù hợp với khuyến
nghị của Tổ chức Giấc ngủ Quốc gia dành cho
lứa tuổi vị thành niên [9][2]. Trong khi đó kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Khánh Linh và
cộng sự cho thấy giờ ngủ trung bình của sinh
viên hệ chính quy Trường Đại học Y Dược Huế
là 6.1 giờ [SD = 1.05] [1][3]. Trong nghiên cứu
này có khoảng 37.3% sinh viên Điều dưỡng
trung bình ngủ ít hơn 7 giờ mỗi đêm. Kết quả
này thấp hơn so với các kết quả nghiên cứu
trước đây trên đối tượng sinh viên Điều dưỡng,
các kết quả trước đây cho thấy 60% sinh viên
Điều dưỡng ngủ ít hơn 7 giờ mỗi đêm trước khi
đến lớp hoặc trước khi đi lâm sàng [4], [16]. Sự
khác biệt có thể do đối tượng nghiên cứu được
chọn, trong khi nghiên cứu này chỉ bao gồm
các sinh viên Điều dưỡng năm nhất, còn nghiên
cứu của Benavente và cộng sự gồm tất cả các
đối tượng sinh viên Điều dưỡng từ năm 1 đến
năm 4 và đối tượng nghiên cứu của Thomas và
cộng sự là sinh viên Điều dưỡng năm cuối [4],
[16]. Ngoài ra, thời gian hoàn thành khảo sát có
thể là nguyên nhân tạo nên sự khác biệt này.
Khảo sát này được hoàn thành từ ngày 10 tháng
1 năm 2020 đến ngày 29 tháng 3 năm 2020.
Trong khi nghiên cứu của Benavente và cộng
sự được hoàn thành trong khoảng thời gian từ
tháng 3 đến tháng 4 năm 2012, còn nghiên cứu
của Thomas và cộng sự không chỉ rõ khoảng Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06[43] [2020] 86-94 thời gian chính xác mà chỉ biết dữ liệu được thu
thập trong vòng 6 tuần [4], [16].
4.2. Các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của
sinh viên điều dưỡng năm nhất
Rối loạn giấc ngủ tương quan thuận với việc
uống thuốc ngủ, rối loạn chức năng ban ngày
và chất lượng giấc ngủ. Điều này cho thấy khi
số lần rối loạn giấc ngủ tăng lên thì việc sử
dụng thuốc ngủ cũng tăng lên, số lần rối loạn
chức năng ban ngày do buồn ngủ cũng tăng lên
và chất lượng giấc ngủ sẽ kém đi. Các rối loạn
giấc ngủ phổ biến nhất được báo cáo bởi sinh
viên dựa trên tần suất xảy ra là không thể đi vào
giấc ngủ trong vòng 30 phút, thức dậy vào giữa
đêm hoặc sáng sớm và phải dậy để đi vệ sinh.
Ngoài ra, sinh viên còn phàn nàn về việc tiếng
ồn làm ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ,
điều này tương tự như phát hiện của các nghiên
cứu trước đây cho thấy sống trong ký túc xá
hoặc nhà trọ có liên quan đến chất lượng giấc
ngủ kém [3], [13]. Đây là rào cản về chất lượng
giấc ngủ khó có thể giải quyết được, vì đa số
sinh viên năm nhất thường sống ở ký túc xá
hoặc nhà trọ.
Một mối tương quan thuận khác cũng được
tìm thấy giữa thời gian đi vào giấc ngủ và chất
lượng giấc ngủ, điều này cho thấy rằng khi thời
gian đi vào giấc ngủ tăng thì chất lượng giấc
ngủ sẽ kém đi. Kết quả này tương tự với kết
quả của Carter và cộng sự, Carter tìm thấy mối
tương quan thuận giữa thời gian đi vào giấc ngủ
và chất lượng giấc ngủ [r = 0,289; p ≤ 0,05] [6].
Trong nghiên cứu này, khoảng 49.2% sinh viên
không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút
với tần suất một lần trở lên trong một tuần và
22.5% cho biết không thể đi vào giấc ngủ trong
vòng 30 phút với tần suất 3 lần trở lên trong
một tuần. Điều này phù hợp với phát hiện trong
nghiên cứu của Carter và cộng sự [8], Carter
báo cáo có khoảng 25% sinh viên đại học gặp
khó khăn khi không thể đi vào giấc ngủ trong
vòng 30 phút với tần suất 3 lần trở lên trong 93 một tuần [6][1]. Điều này dẫn đến dự đoán các
yếu tố là nguyên nhân khiến sinh viên khó đi
vào giấc ngủ có thể bao gồm việc sử dụng các
thiết bị công nghệ trước khi đi ngủ [như máy
tính, điện thoại di động và ti vi] cũng như thói
quen tập thể dục thể thao trước khi ngủ. Do đó,
cần tiến hành nghiên cứu thêm về các yếu tố
ảnh hưởng này.
Ngoài ra còn có mối tương quan thuận giữa
việc uống thuốc ngủ và rối loạn chức năng ban
ngày, điều này cho thấy rằng việc sử dụng
thuốc ngủ tăng lên thì số lần rối loạn chức năng
ban ngày do buồn ngủ cũng tăng lên. Bên cạnh
đó rối loạn chức năng ban ngày cũng có mối
tương quan thuận với chất lượng giấc ngủ, điều
này cho thấy rằng số lần rối loạn chức năng ban
ngày do buồn ngủ tăng lên thì chất lượng giấc
ngủ sẽ kém đi.
5. Kết luận
1. Tổng điểm chỉ số chất lượng giấc ngủ
PSQI trung bình của sinh viên là 4,88 [SD =
2,48] và có 35,4% người tham gia có tổng điểm
PSQI lớn hơn 5, có liên quan đến chất lượng
giấc ngủ kém. Có 67,5% sinh viên tự đánh giá
chất lượng giấc ngủ của họ tốt và rất tốt mặc dù
tổng điểm PSQI cho thấy chỉ có 64,5% sinh
viên mới thực sự có chất lượng giấc ngủ tốt.
2. Các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của
sinh viên điều dưỡng năm nhất bao gồm: Các
rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng ban ngày và
việc uống thuốc ngủ. Trong đó các rối loạn giấc
ngủ phổ biến nhất là không thể đi vào giấc ngủ
trong vòng 30 phút, thức dậy vào giữa đêm hoặc
sáng sớm, phải dậy để đi vệ sinh và tiếng ồn.
6. Kiến nghị
Cần giáo dục sinh viên về tầm quan trọng
của chất lượng giấc ngủ, hướng dẫn về các loại
thuốc hỗ trợ giấc ngủ, cả thuốc kê đơn và
không kê đơn nên được cung cấp cho sinh viên
để sinh viên nhận thức được tác dụng và rủi ro
khi dùng những loại thuốc này. Trong tương lai 94 Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06[43] [2020] 86-94 có thể tiến hành các nghiên cứu tìm hiểu về các
yếu tố có ảnh hưởng và có mối quan hệ với chất
lượng giấc ngủ, chẳng hạn như việc làm thêm,
tình trạng mối quan hệ, thu nhập, hoạt động thể
dục thể thao, lịch học, thời gian tham gia hoạt
động xã hội và thởi gian ngủ trưa. Ngoài ra
cũng có thể tiến hành các đề tài nghiên cứu
trước sau, so sánh điểm số chất lượng giấc ngủ
của người tham gia ở hai thời điểm khác nhau
ví dụ như đầu kỳ và cuối kỳ để tìm ra sự thay
đổi. Cuối cùng, có thể tiến hành nghiên cứu kết
hợp phương pháp định lượng bằng cách sử
dụng bảng câu hỏi PSQI và phương pháp định
tính thông qua các cuộc phỏng vấn nhằm hiểu
đầy đủ hơn về nhận thức cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến giấc ngủ của sinh viên.
Tài liệu tham khảo
[1] Linh, N. T. K., Nhung, Đ. H., Ngân, P. B. B., Thắng,
V. V., & Tú, N. M. [2017]. Chất lượng giấc ngủ của
sinh viên hệ chính quy Trường Đại học Y Dược Huế
năm 2015 [Sleep quality and its related factors
among students at Hue University of Medicine and
Pharmacy in 2015]. Tạp chí Y học dự phòng
[Journal of Preventive Medicine], Tập 27, Số 8, 109.
[2] Trang, N. T. T. [2018]. Các yếu tố ảnh hưởng đến số
giờ ngủ mỗi đêm của sinh viên trường Đại học Kinh
tế Quốc dân. www.academia.edu/41196654.
[3] Adams, S. K., Williford, D. N., Vaccaro, A., Kisler,
T. S., Francis, A., & Newman, B. [2017]. The young
and the restless: Socializing trumps sleep, fear of
missing out, and technological distractions in firstyear college students. International Journal of
Adolescence Youth, 22[3], 337-348.
[4] Benavente, S. B. T., Silva, R. M. d., Higashi, A. B.,
Guido, L. d. A., & Costa, A. L. S. [2014]. Influence
of
stress
factors
and
socio-demographic
characteristics on the sleep quality of nursing
students. Revista da Escola de Enfermagem da USP,
48[3], 514-520.
[5] Buysse, D. J., Reynolds, C. F., Monk, T. H., Berman,
S. R., & Kupfer, D. J. [1989]. The Pittsburgh Sleep Quality Index: a new instrument for psychiatric
practice and research. Psychiatry res, 28[2], 193-213.
[6] Carter, B., Chopak-Foss, J., & Punungwe, F. B.
[2017]. An analysis of the sleep quality of
undergraduate students. College Student Journal,
50[3], 315-322.
[7] Hayden, J. [2017]. Introduction to health behavior
theory: Jones & Bartlett Learning.
[8] Hershner, S. D., & Chervin, R. D. [2014]. Causes
and consequences of sleepiness among college
students. Nature science of sleep
[9] Hirshkowitz, M., Whiton, K., Albert, S. M., Alessi,
C., Bruni, O., DonCarlos, L., . . . KheirandishGozal, L. [2015]. National Sleep Foundation’s sleep
time duration recommendations: methodology and
results summary. Sleep health, 1[1], 40-43.
[10] Huang, C.-F., Yang, L.-Y., Wu, L.-M., Liu, Y., &
Chen, H.-M. [2014]. Determinants of daytime
sleepiness in first-year nursing students: A
questionnaire survey. Nurse Education Today,
34[6], 1048-1053.
[11] Knowlden, A. P., & Sharma, M. [2014]. Health
belief structural equation model predicting sleep
behavior of employed college students. Family
community health, 37[4], 271-278.
[12] Knowlden, A. P., Sharma, M., & Bernard, A. L.
[2012]. A theory of planned behavior research
model for predicting the sleep intentions and
behaviors of undergraduate college students. The
journal of primary prevention, 33[1], 19-31.
[13] Lund, H. G., Reider, B. D., Whiting, A. B., &
Prichard, J. R. [2010]. Sleep patterns and predictors
of disturbed sleep in a large population of college
students. Journal of adolescent health, 46[2], 124132.
[14] Marhefka, J. K. [2011]. Sleep deprivation:
consequences for students. Journal of psychosocial
nursing mental health services, 49[9], 20-25.
[15] Mollayeva, T., Thurairajah, P., Burton, K.,
Mollayeva, S., Shapiro, C. M., & Colantonio, A.
[2016]. The Pittsburgh sleep quality index as a
screening tool for sleep dysfunction in clinical and
non-clinical samples: A systematic review and
meta-analysis. Sleep medicine reviews, 25, 52-73.
[16] Thomas, C. M., McIntosh, C. E., Lamar, R. A., &
Allen, R. L. [2017]. Sleep deprivation in nursing
students: The negative impact for quality and safety.
Journal of Nursing Education Practice, 7[5], 87-93. This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Video liên quan