Nền văn hóa là cơ sở cho sự ra đời nhà nước Văn Lang là gì

Đối với các định nghĩa khác, xem Văn Lang [định hướng].Tên gọi Việt Nam

28792524 TCN Xích Quỷ2524258 TCN Văn Lang257179 TCN Âu Lạc204111 TCN Nam Việt111 TCN40 CN Giao Chỉ4043 Lĩnh Nam43203 Giao Chỉ203544 Giao Châu544602 Vạn Xuân602679 Giao Châu679757 An Nam757766 Trấn Nam766866 An Nam866967 Tĩnh Hải quân9681054 Đại Cồ Việt10541400 Đại Việt14001407 Đại Ngu14071427 Giao Chỉ14281804 Đại Việt18041839 Việt Nam18391945 Đại Nam18871954 Đông Dương
[Bắc/Trung/Nam Kỳ]từ 1945 Việt NamBản mẫu chính Lịch sử Việt Nam

  • x
  • t
  • s

Văn Lang [chữ Hán: 文郎] là nhà nước đầu tiên theo truyền thuyết trong lịch sử Việt Nam. Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các Hùng Vương. Loạt bài
Lịch sử Đông Nam Á

Đông Nam Á thời tiền sử Những nền văn minh đầu tiên
Văn hóa Đông Sơn
Văn hóa Sa Huỳnh
Văn hóa Óc Eo
Văn hóa Mã Lai
Văn hóa Java
Văn hóa Môn - Khmer Các vương quốc đầu đầu tiên
Văn Lang [TK 7 TCN - 258TCN]
Âu Lạc [258TCN-208TCN]
Lâm Ấp [192 - 605]
Phù Nam [1 - 630]
Chân Lạp [550 - 717]
Dvaravati [TK 6 - TK 11]
Malayu [TK 4 - TK 7]
Langkasuka [TK 4 - TK 7]
Pan Pan [TK 4 - TK 7]
Sailendra [732 - giữa TK 9]
Medang [giữa TK 9 - 1049]
Pyu [TK 3 - TK 9]
Hariphunchai [TK 8 - TK 13] Các quốc gia phong kiến hình thành
Đại Việt [938 - 1887]
Chăm Pa [TK 7 - 1693]
Vương quốc Khmer [877 - 1863]
Pagan [TK 9 - TK 13]
Sukhothai [1238 - 1448]
Ayutthaya [1351 - 1767]
Lan Na [1254 - TK 17]
Lan Xang [1353 - TK 18]
Kediri [1049 - 1221]
Majapahit [1293 - 1527]
Srivijaya [TK 8 - TK 13]
Melaka [1402 - 1511] Giao lưu về văn hóa - tôn giáo
Phật giáo đại thừa
Phật giáo tiểu thừa
Hindu giáo
Hồi giáo
Công giáo
Ảnh hưởng của Ấn Độ
Ảnh hưởng của Trung Hoa Thực dân hóa từ Châu Âu
Thuộc địa Hà Lan
Thuộc địa Bồ Đào Nha
Thuộc địa Anh
Thuộc địa Tây Ban Nha
Thuộc địa Pháp Các phong trào dân tộc đầu thế kỷ 20Đông Nam Á hiện nay

Xem thêm

  • Lịch sử Brunei
  • Lịch sử Campuchia
  • Lịch sử Đông Timor
  • Lịch sử Indonesia
  • Lịch sử Lào
  • Lịch sử Malaysia
  • Lịch sử Myanma
  • Lịch sử Philippines
  • Lịch sử Singapore
  • Lịch sử Thái Lan
  • Lịch sử Việt Nam sửa

Hùng vương, chữ Hùng đó, có lẽ là từ chữ Lạc nhầm sang. Nguyên ở chữ Hán, chữ 駱 với chữ 雒 cùng một âm là lạc. Chữ Lạc 雒 này với chữ Hùng 雄 thời mặt chữ giống nhau. Hoặc vì thế mà chữ Lạc 駱 này lẫn sang chữ Lạc 雒 này lại lẫn sang chữ Hùng 雄, cho nên Sử ta là Hùng vương mà ở sách của họ Cao thời là Lạc vương.

Trong Sử có chép Lạc hầu 駱侯, Lạc tướng 駱將; Hai Bà Trưng cũng là con gái quan Lạc tướng mà quê ở Phong Châu. Cho nên biết là từ chữ Lạc nhầm sang chữ Hùng. Sự nhầm lẫn đó, truyền nối đã lâu; nay chỉ nên cứ theo là Hùng vương mà nên biết chữ hùng đó tức là chữ Lạc.

Mục lục

  • 1 Tên gọi
  • 2 Sử liệu
  • 3 Địa lý
  • 4 Tổ chức nhà nước
  • 5 Nghi vấn về sự tồn tại
  • 6 Kết thúc
  • 7 Tham khảo
  • 8 Xem thêm
  • 9 Liên kết ngoài

Tên gọiSửa đổi

Tên nước Văn Lang, cũng là tên bộ tộc mạnh nhất đã thống nhất 15 bộ tộc ở khu vực miền Bắc Việt Nam, theo một số suy đoán thì có khả năng, từ "Văn Lang" có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang, mà nhiều dân tộc miền núi ở cao nguyên Trung Bộ chỉ một loại chim mà họ tôn kính như vật tổ.

Trong truyền thống của người Mường, tổ tiên của họ là hai con chim Ay và Ua [hay Klang và Klao]. Một cách tương tự, tên gọi của Mê Linh có nguồn gốc là Mling, cũng chỉ một loài chim. Cách giải thích này phù hợp với tên gọi của vùng đất: Bạch Hạc, "con hạc trắng", - Mê Linh nằm trong vùng đất này, - đồng thời cũng phù hợp với bức họa trình bày chim cao cẳng và người nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim, trên các trống đồng[1]. Một điểm khác, chữ Hồng trong từ Hồng Bàng, thời kỳ thượng cổ của Kinh Dương vương, chỉ một loài chim nước thuộc họ chim Diệc.

Sử liệuSửa đổi

Theo bộ sử ký Đại Việt sử ký toàn thư [ĐVSKTT] viết rằng phần ngoại kỷ do sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15 chép rằng: Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông, sinh ra Lộc Tục, tức Kinh Dương Vương, Lộc Tục lấy con gái Long Vương hồ Động Đình, đẻ ra Lạc Long Quân [theo truyền thuyết Lạc Long Quân là cháu 5 đời của Thần Nông]. Kế tiếp Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ [con gái Đế Lai] sinh được 100 người con trai, 50 người theo Lạc Long Quân theo cha về bờ biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.

Theo truyền thuyết này, Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ vào khoảng năm 2879 TCN, sinh ra người con là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân và Âu cơ sinh được 50 người con theo mẹ lên núi [Âu Việt] và 50 người con theo cha xuống biển [Lạc Việt]. Con trưởng của Lạc Long Quân là Vua Hùng cai trị nước Văn Lang [bộ tộc Lạc Việt], truyền qua các đời vua Hùng và kết thúc vào năm 258 TCN [tức là thế kỷ thứ III TCN] bởi An Dương Vương [bộ tộc Âu Việt]. An Dương Vương thống nhất 2 bộ tộc gọi là Âu-Lạc. Vì vậy quan niệm dân gian coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới 4000 năm văn hiến.

Tuy nhiên theo bộ sử ký xuất hiện còn sớm hơn bộ ĐVSKTT là bộ Đại Việt sử lược vào thế kỷ 13 thì chép nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục các bộ tộc Việt [15 bộ] khác vào khoảng thế kỷ 7 TCN cùng thời với vua Chu Trang Vương của nhà Chu - Trung Quốc. Ông lên ngôi xưng hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Văn Lang.[2] Về sau các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia Trung Quốc nên gọi kinh đô thời Văn Lang là Phong Châu.[3] Trong bộ Việt sử lược có dành những dòng sau cho các vua Hùng

"Đến đời Trang Vương nhà Chu [696-682 TCN], ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút."[4]Sách An Nam chí [tức An Nam chí nguyên] của Cao Hùng Trưng cho rằng: Đất Giao Chỉ từ khi chưa đặt có quận huyện, chỉ có ruộng của dân giống Lạc, theo nước trào lên xuống mà cấy lúa; có vua giống Lạc [Lạc vương] thống trị dân; có tướng giống Lạc [Lạc tướng] là quan để giúp vua. Vua quan đều ấn đồng dải xanh, gọi là nước Văn Lang; truyền 18 đời.

Địa lýSửa đổi

Theo "Lĩnh Nam chích quái" [嶺南摭怪], quyển 1, Hồng Bàng thị truyện [鴻龐氏傳] thì nước Văn Lang:

  • Đông giáp Nam Hải [南海], tức biển Đông
  • Tây tới Ba Thục [巴蜀]
  • Bắc tới hồ Động Đình [洞庭]
  • Nam tới nước Hồ Tôn Tinh [狐猻精], còn gọi là nước Hồ Tôn [胡孫]. Hồ Tôn Tinh về sau trở thành nước Chiêm Thành [占城].

Nước được chia thành 15 bộ [部], còn gọi là quận [郡], bao gồm:

  1. Việt Thường [越裳]
  2. Giao Chỉ [交趾]
  3. Chu Diên [朱鳶]
  4. Vũ Ninh [武寧]
  5. Phúc Lộc [福祿]
  6. Ninh Hải [寧海]
  7. Dương Tuyền [陽泉]
  8. Lục Hải [陸海]
  9. Hoài Hoan [懷驩]
  10. Cửu Chân [九真]
  11. Nhật Nam [日南]
  12. Chân Định [真定]
  13. Văn Lang [文郎]
  14. Quế Lâm [桂林]
  15. Tượng Quận [象郡]

Nước Văn Lang năm 500 TCN

Theo "Việt sử lược" [越史略], quyển thượng, Quốc sơ duyên cách [國初沿革] thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc [部落] là:

  1. Giao Chỉ [交趾]
  2. Việt Thường Thị [越裳氏]
  3. Vũ Ninh [武寧]
  4. Quân Ninh [軍寧]
  5. Gia Ninh [嘉寧]
  6. Ninh Hải [寧海]
  7. Lục Hải [陸海]
  8. Thang Tuyền [湯泉]
  9. Tân Xương [新昌]
  10. Bình Văn [平文]
  11. Văn Lang [文郎]
  12. Cửu Chân [九真]
  13. Nhật Nam [日南]
  14. Hoài Hoan [懷驩]
  15. Cửu Đức [九德]

Kinh đô đặt tại bộ Văn Lang.

Trong "Đại Việt sử ký toàn thư" [大越史記全書], Ngoại kỉ [外紀], quyển 1, Hồng Bàng thị kỉ [鴻厖氏紀], cương vực và tên gọi 15 bộ của nước Văn Lang được chép gần như tương tự với "Lĩnh Nam chích quái" chỉ khác là không có bốn bộ Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận mà thay vào đó là bốn bộ Vũ Định [武定], Bình Văn [平文], Tân Hưng [新興] và Cửu Đức [九德]. Bộ Văn Lang là nơi vua đóng đô. 15 bộ của nước Văn Lang theo "Đại Việt sử ký toàn thư" bao gồm:

  1. Giao Chỉ [交趾]
  2. Chu Diên [朱鳶]
  3. Vũ Ninh [武寧]
  4. Phúc Lộc [福祿]
  5. Việt Thường [越裳]
  6. Ninh Hải [寧海]
  7. Dương Tuyền [陽泉]
  8. Lục Hải [陸海]
  9. Vũ Định [武定]
  10. Hoài Hoan [懷驩]
  11. Cửu Chân [九真]
  12. Bình Văn [平文]
  13. Tân Hưng [新興]
  14. Cửu Đức [九德]
  15. Văn Lang [文郎]

Bản đồ cương vực của nước Văn Lang.

Các tài liệu nghiên cứu sau này cho rằng lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, thậm chí kéo dài tới Thừa Thiên Huế[5], dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, thời kỳ Văn Lang của các vua Hùng tương ứng với thời kỳ văn hoá Đông Sơn [từ năm 696 TCN - 682 TCN]

Mười lăm bộ, ở Sử cũ có chép đầy đủ tên riêng, là:

1] Văn Lang[文郎]

2] Giao Chỉ [交趾]

3] Chu Diên [朱鳶]

4] Võ Ninh [武寧]

5] Phúc Lộc[福祿]

6] Việt Thường[越裳]

7] Ninh Hải [陸海]

8] Dương Tuyền [陽泉]

9] Lục Hải [陸海]

10] Võ Định [武定]

11] Hoài Hoan [懷驩]

12] Cửu Chân [九真]

13] Bình Văn [平文]

14] Tân Hưng  [新興]

15] Cửu Đức  [九德]

Người đời sau có lấy tên các bộ ấy để chú sách  Dư địa chí. Nay xem như ở Sử Khân định khảo và chú, từ nước Ngô mới đặt quận Cửu Đức [nay là đất Hà Tĩnh] mà đến đời thuộc hán mới có huyện Chu Diên [nay là đất Vĩnh Tường]. Nhân Nhân thế xem ra thời cả như như mười ba bộ kia, có nhẽ đều là sau khi Triệu Đà thống trị ta, mới đạt đặt tên ấy. 15 bộ chia đây, không biết cõi đất ra làm sao, nhưng hẳn chỉ có những tên gọi rất đơn sơ mà không truyền lại đến nay vậy. Vậy nay chỉ tạm biết là mười lăm bộ mà không dám theo ở Sử cũ liệt tên.

Tổ chức nhà nướcSửa đổi

Đứng đầu nhà nước là Hùng Vương, trong triều đình có các quan giúp việc là Lạc Hầu, quan Lạc Tướng cai quản các bộ địa phương, dưới Lạc Tướng là các quan Bồ Chính cai quản từng khu vực nhỏ [làng]. Theo các tư liệu cổ, các vị vua cai trị nước Văn Lang có tất cả 18 đời [hoặc dòng] vua. Mới đặt tên quan. Tướng văn, gọi là Lạc hầu; tướng võ, gọi là Lạc tướng; các quan nhỏ, gọi là Bồ chánh; con trai vua thời là Quan lang; con gái vua là Mỵ nương. Đời đời cha truyền con nói, gọi là phụ đạo.

Xã hội có giai cấp có lẽ chưa xuất hiện, nhưng chắc chắn đã xuất hiện sự phân tầng. Theo Lĩnh Nam chích quái, tôi tớ được gọi là xao nếu là nữ, và xung nếu là nam, kẻ bề dưới là hôn. Xao có thể được gắn với sao trong tiếng Thái: con gái, hôn của tiếng Chăm và ho hun của tiếng Jarai và côn huon trong tiếng Thái là những từ dùng để gọi các nô lệ lo việc nhà.

Quan điểm về đặc tính của nhà nước Văn Lang rất đa dạng. Có nhiều quan điểm khác nhau trong đó có quan điểm của GS. Hà Văn Tấn Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine cho rằng nhà nước Văn Lang chỉ là một cái làng lớn [Hà Văn Tấn, Làng, liên làng và siêu làng [Mấy vấn đề về phương pháp], Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 1, 1987, in lại trong Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nhà xuất bản ĐHQGHN, 2007]; quan điểm của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cho rằng: Nhà nước Văn Lang thực chất là một "nhà nước siêu làng", thể hiện cả ở sự liên kết giữa làng và nước, chứ không chỉ là sự liên kết giữa các làng với nhau. Theo tác giả, tính chất "siêu làng" thể hiện ít nhất ở ba khía cạnh: Thứ nhất, về nội dung, nhà nước mang dáng dấp của một cái làng lớn có tính liên kết mạnh, tính đại diện cao và tính giai cấp yếu. Thứ hai, về phạm vi và tính chất liên kết, quan hệ làng nước mang tính hoà đồng, lưỡng hợp, chưa có sự phân định rạch ròi về chức năng, thẩm quyền giữa làng và nước. Thứ ba, về thời gian, nhà nước Văn Lang dần được hình thành trong một quá trình rất lâu dài[6].

Nghi vấn về sự tồn tạiSửa đổi

Trong sử sách Trung Hoa chỉ nhắc đến Âu Lạc nhưng không nhắc gì đến nhà nước Văn Lang hay Lạc Việt. Văn Lang cũng có thể là tên để phân biệt với Dạ Lang. Liam C. Kelley [2012] chỉ ra rằng những truyền thuyết về Hùng Vương, họ Hồng Bàng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, nhà nước Văn Lang được tầng lớp quý tộc Việt Nam [vốn đã Hán hóa từ trước] sáng tạo ra sau khi dựng nước, nhằm tạo ra bản sắc riêng cho họ khi so sánh với di sản văn hóa của Trung Hoa còn lại tại miền bắc Việt Nam.[7] Những tên gọi như Mỵ Nương, Quan Lang, Bồ Chính đều là những từ mượn từ ngôn ngữ Tai [Thái], chính xác hơn chúng là những từ vựng Tai bị Hán hóa.[8]

Cứ ở Sử cũ, lấy vua Kinh Dương làm vua đầu nước ta mà thứ hai truyền đến vua Lạc Long, ấy là con cháu vua Đế Minh bên Tàu; vua Đế Minh đi tuần sang phương nam, lấy bà Vụ Tiên mà sinh đẻ ra vậy. Vua Lạc Long lại lấy bà Âu Cơ, sinh ra một trăm con trai, ấy là tổ trăm họ Việt mà một dòng cn trưởng, đời đời nối ngôi làm Hùng vương. Sử cũ nói như thế; song vua Đế Minh bên Tàu chưa từng đi tuần sang miền Nam, cho nên sách sử Khâm định đã bác bỏ nhời ấy. Huống chi trăm họ Việt không phải toàn là một giống ta [2] thời như dòng trưởng nhà Lạc Long sao có đời đời nối nối làm Hùng vương mà đóng đô ở cõi Phong Châu. Chẳng qua: thấy người sang, bắt quàng làm họ, vì một cái căn tính [3] hèn yếu đó mà Sử ta khi trước có một đoạn ở đầu như thế chăng? Nay xem như nhời ở trong sách An Nam chí của cao Hùng, tuy chưa thật đủ làm chắc bằng; song thử tưởng tượng đời thượng cổ lúc bấy giờ, có khi như thế là phải. Vua Hùng tức là một vị Đại tù trưởng của nước ta lúc ban đầu; giang sơn nào, anh hùng ấy vậy. Lại xem như thực tích còn lại, nước ta có núi Hùng Sơn, miếu Hùng vương mà hai vua Kinh Dương, Lạc Long thời không thấy dấu vết. Vậy nay theo ở sách Khâm định, chép vua Hùng làm vua đầu ở nước ta, mà tước bỏ một đoạn đầu ở Sử cũ.

Kết thúcSửa đổi

Cuối thời Hồng Bàng, theo ĐVSKTT cũng như theo Đại Việt sử lược, do nhiều lần bị vua Thục sang đánh nhưng nhờ binh cường tướng giỏi nên đều thắng nên vua Hùng sinh ra kiêu ngạo, chểnh mảng võ bị, ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục là Thục Phán sang đánh, vua còn mải mê uống rượu, khi quân Thục đến gần vua nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng. Thục Vương chiếm lấy nước, sáp nhập và thành lập nước Âu Lạc.

Tham khảoSửa đổi

  • Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên
  • Đại Việt sử lược, khuyết danh - Trần Quốc Vượng dịch
  • Chú thích
  1. ^ Trần Quốc Vượng,"Từ truyện ngụ ngôn đến lịch sử", sđd, trang 148-155
  2. ^ Từ Văn Lang đến Thăng Long - Quá trình tìm chọn kinh đô muôn đời của đất nước [1]
  3. ^ [2][liên kết hỏng]
  4. ^ Việt Sử lược.
  5. ^ LỊCH SỬ TT-HUẾ. Báo Thừa-Thiên-Huế.
  6. ^ Nguyễn Minh Tuấn, Nhà nước Văn Lang - nhà nước siêu làng, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà nội, chuyên san Kinh tế - Luật, Tập 23, Số 3, năm 2007
  7. ^ Kelley, Liam C. [2012]. The Biography of the Hồng Bàng Clan as a Medieval Vietnamese Invented Tradition". Journal of Vietnamese Studies, Vol. 7, No. 2: 87-122, published by: University of California Press.
  8. ^ Kelley, Liam C. [2013]. Tai Words and the Place of the Tai in the Vietnamese Past". Journal of the Siam Society Vol. 101: 81-82.

Xem thêmSửa đổi

  • Hùng Vương
  • Hồng Bàng
  • Phong Châu [kinh đô]
  • Vũ Ninh [bộ]
  • Việt Thường
  • Thánh Gióng
  • Sơn Tinh
  • Thủy Tinh [nhân vật]
  • Mai An Tiêm
  • Chử Đồng Tử
  • Mỵ Nương
  • Lang Liêu
  • Văn hóa Đông Sơn
  • Trống đồng Đông Sơn
  • Lạc Việt
  • Âu Việt
  • An Dương Vương
  • Triệu Đà
  • Âu Lạc
  • Nam Việt

Liên kết ngoàiSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Văn Lang.

  • Văn Lang tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Van Lang [legendary kingdom, Vietnam] tại Encyclopædia Britannica [tiếng Anh]

Chủ Đề