Nguyên nhân tai biến mạch máu

Nguyên nhân tai biến mạch máu
PGS. TS. BS. NGUYỄN HOÀI NAM
Giảng viên ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Ủy viên BCH Hội tim mạch học Việt Nam.
Ủy viên BCH Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực VN.
Chuyên gia Mạch máu Bệnh viện Quốc tế Minh Anh

   Tai biến mạch máu não là gì?
   Tai biến mạch máu não (TBMMN) hay đột quỵ là bệnh của hệ thần kinh phổ biến nhất hiện nay, nó xảy ra khi việc cung cấp máu lên một phần bộ não bị đột ngột ngừng trệ, khiến các tế bào não bị mất máu nhanh chóng dẫn đến tổn thương, tàn tật hoặc tử vong. Tai biến mạch máu não có hai dạng là nhồi máu não (do nghẽn/ tắc mạch) hoặc chảy máu não (do vỡ mạch)....  Các yếu tố nguy cơ đột quỵ không kiểm soát được có tiền sử gia đình về TBMMN, trong đó giới nam mắc bệnh cao hơn nữ nhưng phụ nữ lại dễ bị tai biến trở lại nên có tỷ lệ tử vong cao hơn nam giới.

     Có hai dạng TBMMN chính là thiếu máu cục bộ và xuất huyết. Thiếu máu cục bộ hay đột quỵ thiếu máu cục bộ chiếm khoảng 80% - 90% số ca bệnh. Đây là dạng TBMMN do cục máu đông, làm giảm hoặc ngừng lưu lượng máu tới não. Nó có thể xuất hiện ở nơi khác trong cơ thể và di chuyển lên mạch trong não, hoặc cục máu bắt nguồn trong não bộ. TBMMN thiếu máu cục bộ được chia thành hai loại phụ là đột quỵ huyết khối và đột quỵ do tắc mạch. Hai là xuất huyết, mạch máu trong não bị vỡ, máu chảy vào não và do áp lực nó ép các mạch máu khác và các tế bào não, gây tổn thương não dẫn tới tử vong. Có hai dạng phụ của xuất huyết là TBMMN trong não và TBMMN dưới màng mạng nhện. Ngoài hai loại trên còn có TBMMN hay đột qụy mini  (TIA) hay còn gọi là đột quỵ thoáng qua hoặc các cơn thiếu máu cục bộ tạm. Triệu chứng của TIA bao gồm nhầm lẫn, suy yếu mệt mỏi, ngủ lịm, tê liệt, méo mặt và mất thị lực.

Nguyên nhân tai biến mạch máu
Nhận biết sớm biểu hiện của TBMMN để hạn chế những biến chứng nặng nề cho người bệnh

   Triệu chứng TBMMN
   Các triệu chứng và dấu hiệu ban đầu của TBMMN có thể xảy ra đột ngột với các dấu hiệu như khó nói, khó hiểu hoặc lúng túng, khó khăn về cơ bắp, tê liệt, đặc biệt là ở một bên của cơ thể, đau đầu nghiêm trọng, suy giảm tầm nhìn (ở một hoặc cả hai mắt), khó nuốt và méo một bên mặt…

     Nếu TBMMN càng lâu thì tổn thương não càng lớn nên thời gian vàng để chẩn đoán và điều trị trong vòng 3 giờ là hiệu quả. Ở một số bệnh nhân đủ tiêu chuẩn, việc sử dụng thuốc chống đông máu sẽ có tác dụng làm tan cục máu đông và khôi phục lại lưu lượng máu. Không phải tất cả các bệnh nhân đều đủ tiêu chuẩn điều trị. Cũng có một số rủi ro như chảy máu liên quan đến điều trị nên đột quỵ thường là nguyên nhân hàng đầu gây khuyết tật lâu dài ở con người.

     Nguyên nhân và cách phòng chống 
   Nguyên nhân thường gặp của TBMMN xuất phát từ các mạch máu bên ngoài và bên trong não. Xơ vữa động mạch xảy ra khi mảng bám như cholesterol, canxi, chất béo…tích tụ và thu hẹp các mạch máu làm cho các cục máu đông dễ hình thành trong thành mạch. Các cục máu đông có thể tự do bóc tách khỏi mạch máu nhỏ bên trong não và tích tụ lại gây tắc nghẽn, vỡ ra làm chảy máu não. Thủ phạm làm tăng TBMMN bao gồm huyết áp, cholesterol cao, tiểu đường và béo phì. Có thể giảm nguy cơ đột quỵ bằng cách thay đổi lối sống. Bỏ hút thuốc lá, năng tập luyện, và hạn chế lượng đồ uống có cồn.

     Theo giới chuyên gia, để phòng ngừa TBMMN, nên tránh các yếu tố nguy cơ bằng thói quen sống tích cực như không lạm dụng  rượu bia, thuốc lá hoặc sử dụng các chất kích thích. Duy trì cân nặng hợp lý bằng cách năng luyện tập thể thao. Tránh căng thẳng thần kinh quá mức và kéo dài.  Tăng cường rau xanh, hoa quả, hạn chế ăn quá mặn, quá nhiều mỡ động vật. Kiểm soát và điều trị tốt các bệnh nếu mắc phải như đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn mỡ, bệnh lý tim mạch...

     Nếu người thân bị TBMMN thì nên đỡ họ không bị té ngã. Nếu tỉnh táo thì cần để bệnh nhân nằm yên và nhanh chóng gọi xe cấp cứu đưa bệnh nhân đến bệnh viện gần nhất. Nếu hôn mê cần cho bệnh nhân thở hay hô hấp nhân tạo nhằm kịp thời cung cấp oxy cho não. Đặc biệt, không được tự ý điều trị dù chỉ là bấm huyệt, châm cứu, đánh gió,,, bởi nó có thể làm bệnh thêm trầm trọng và làm mất thời gian vàng điều trị. Không cho bệnh nhân ăn uống và đề phòng nôn trào ngược, hít chất nôn hoặc thức ăn vào đường thở gây nguy hiểm. Không tự ý dùng thuốc hạ huyết áp, chỉ dùng thuốc hạ huyết áp. Mọi điều trị đều phải tuân thủ theo phác đồ và khuyến cáo của bác sĩ và nên theo dõi nguy cơ bị cơ TBMMN thứ hai có thể xảy ra.

Đột quỵ não (tai biến mạch máu não) là một bệnh cực kỳ nguy hiểm. Việc điều trị đột quỵ não sẽ gặp khó khăn nếu không biết rõ nguyên nhân. Có khoảng hơn 20 yếu tố nguy cơ có thể là nguyên nhân gây tai biến mạch máu não. Các yếu tố nguy cơ này làm gia tăng hình thành cục máu đông xuất hiện trong máu và làm tắc mạch máu nuôi dưỡng não, gây ra đột quỵ.

Nội dung bài viêt

  • 1. Nguyên nhân gây tai biến mạch máu não từ yếu tố nguy cơ không thể thay đổi
  • 2. Các yếu tố nguy cơ thay đổi được
    • 2.1. Tăng huyết áp
    • 2.2. Đái tháo đường
    • 2.3. Rối loạn lipid máu- một nguyên nhân gây tai biến mạch máu não
    • 2.4. Vữa xơ động mạch
    • 2.5. Béo phì
    • 2.6. Hút thuốc lá
    • 2.7. Uống rượu nhiều
    • 2.8. Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua
    • 2.9. Nguyên nhân gây tai biến mạch máu não do phình động mạch não
    • 2.10. Dị dạng động – tĩnh mạch não

1. Nguyên nhân gây tai biến mạch máu não từ yếu tố nguy cơ không thể thay đổi

Tuổi (đa số gặp trên 45 tuổi), giới tính (nam gặp nhiều hơn nữ), chủng tộc, di truyền… Chúng ta không thể thay đổi được các yếu tố này. Tuy nhiên, biết được các nguyên nhân gây tai biến, những đối tượng nguy cơ có thể dự phòng hiệu quả hơn.

2. Các yếu tố nguy cơ thay đổi được

2.1. Tăng huyết áp

Huyết áp là gì?

Huyết áp là áp lực dòng máu tác động lên thành động mạch. Tim có vai trò như một máy bơm hoạt động nhịp nhàng bơm máu vào hệ thống mạch máu. Khi tim bóp mạnh tống máu đi sẽ tạo áp lực lớn nhất gọi là huyết áp tối đa (hay huyết áp tâm thu).

Ở giai đoạn tim giãn ra, máu được hút về tim, áp lực dòng máu thấp nhất gọi là huyết áp tối thiểu (hay huyết áp tâm trương). Vậy tăng huyết áp có phải là một nguyên nhân gây tai biến mạch máu não?

Nguyên nhân tai biến mạch máu
Các chỉ số huyết áp

Như thế nào là tăng huyết áp?

Gọi là tăng huyết áp nếu huyết áp ≥ 140/90mmHg.

Huyết áp tăng cao gây tổn thương thành mạch máu, tạo các điểm yếu ở thành mạch. Các điểm yếu bị tổn thương tiến triển nặng dần theo thời gian và đến một thời lúc nào đó vỡ ra, gây đột quỵ chảy máu não.

Tăng huyết áp cũng là nguyên nhân gây vữa xơ động mạch. Các mảng vữa xơ gây chít hẹp lòng mạch, cản trở dòng máu lưu thông, gây đột quỵ nhồi máu não.

Việc phát hiện tăng huyết áp khá đơn giản bằng thao tác đo huyết áp mà bất kỳ nhân viên y tế nào cũng thực hiện được. Mọi người cũng có thể tự kiểm tra huyết áp bằng một máy đo huyết áp tự động có trên thị trường.

Theo khuyến cáo của Hội Tim mạch học Việt Nam năm 2008: nên dùng máy đo huyết áp quấn ở cánh tay hơn là máy quấn cổ tay.

Tăng huyết áp là nguyên nhân gây tai biến mạch máu não hàng đầu. Tuy nhiên, một tỷ lệ khá cao dân chúng lại không có ý thức quan tâm đến vấn đề này. Hậu quả là nhiều người để huyết áp tăng cao một thời gian dài không điều trị có thể gây biến chứng đột quỵ não.

2.2. Đái tháo đường

Đái tháo đường cũng là một nguyên nhân gây tai biến mạch máu não thường gặp. Đái tháo đường gây tổn thương có hệ thống toàn bộ hệ thống động mạch, trong đó có động mạch ở não. Đái tháo đường làm tăng tỷ lệ mắc đột quỵ não từ 2-6,5 lần, tăng tỷ lệ tử vong lên 2 lần. Đái tháo đường cũng là yếu tố đóng vai trò trung tâm trong Hội chứng chuyển hóa, là yếu tố nguy cơ đặc biệt gây ra các biến cố tim mạch và đột quỵ não.

Đường máu của người bình thường 3,9-6,0mmol/l.

Một người được chẩn đoán đái tháo đường khi nào?

  • Mức Glucose máu ở thời điểm bất kì >11mmol/l
  • Hoặc mức Glucose máu lúc đói > 7mmol/l
  • Hoặc Glucose máu > 11mmol/l ở thời điểm 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống. (Nhân viên y tế cho bệnh nhân uống glucose theo liều quy định và sau 2 giờ xét nghiệm đường máu)

Chẩn đoán tiền đái tháo đường

  • Rối loạn dung nạp glucose: glucose máu thời điểm 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống 7,8-11mmol/l
  • Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói: glucose máu lúc đói tăng dưới 7mmol/l và glucose máu thời điểm 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống tăng dưới 7,8mmol/l

Các trường hợp nguy cơ mắc đái tháo đường

  • Tuổi trên 40
  • Tiền sử bố mẹ, anh chị em ruột, có người bị đái tháo đường
  • Thừa cân, béo phì (với người châu Á: BMI < 23)
  • Trẻ sinh ra cân nặng thấp < 2500g.
  • Sinh con > 4kg
  • Huyết áp cao
  • Hút thuốc lá

2.3. Rối loạn lipid máu- một nguyên nhân gây tai biến mạch máu não

Khi hàm lượng lipid trong máu quá cao là điều kiện thuận lợi để lipid “ngấm” vào và lắng đọng ở thành mạch máu. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành mảng vữa xơ động mạch.

Trước đây, người ta quan niệm rối loạn lipid máu là khi tổng lượng lipid máu tăng cao (cholesterol và/hoặc triglycerid). Nhưng hiện nay đã có bằng chứng nghiên cứu cho thấy sự rối loạn về thành phần phức bộ lipid máu cũng quan trọng không kém tổng lượng lipid máu tăng cao.

Lipid trong cơ thể gồm 2 nhóm:

  • Ngoại sinh (do thức ăn cung cấp)
  • Nội sinh (do cơ thể sinh ra).

Lipid là thành phần rất quan trọng để các tế bào, mô trong cơ thể có thể tồn tại và phát triển.

Khi xét nghiệm lipid máu cần đánh giá tối thiểu phức bộ 4 thành phần: cholesterol, triglycerid, LDL-C và HDL-C. Trong đó LDL-C tăng cao có liên quan nhiều nhất đến nguy cơ vữa xơ động mạch và biến cố tim mạch. Ngoài ra, tăng triglycerid đơn độc cũng là yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch.

2.4. Vữa xơ động mạch

Mảng vữa xơ hình thành trong lòng động mạch sẽ làm chít hẹp dần lòng mạch có thể gây tắc mạch. Nhiều trường hợp mảng vữa xơ bong ra, trôi theo dòng máu, đến gây tắc ở vị trí mạch máu khác. Nguyên nhân gây tai biến mạch máu não do mảng xơ vữa cũng khá nguy hiểm.

Nguyên nhân tai biến mạch máu
Tiến triển mảng vữa xơ động mạch gây chít hẹp dần lòng động mạch theo thời gian

2.5. Béo phì

Béo phì là yếu tố thuận lợi góp phần làm tăng huyết áp, rối loạn lipid và tăng glucose máu. Tất cả các yếu tố này kết hợp lại sẽ làm tăng nguy cơ bệnh lý tim mạch. Trong các thể béo phì, thể béo bụng có liên quan với hội chứng chuyển hóa chặt chẽ hơn cả.

2.6. Hút thuốc lá

Hút thuốc lá gây nhiều tác hại đối với sức khỏe, trong đó có nguy cơ gây các bệnh tim mạch như tăng huyết áp, vữa xơ động mạch, rối loạn nhịp tim… và đột quỵ não. Nên khuyến cáo bỏ thuốc lá đối với những trường hợp đang hút thuốc.

Nguyên nhân tai biến mạch máu
Những yếu tố có thể là nguyên nhân gây tai biến mạch máu não

2.7. Uống rượu nhiều

Uống nhiều rượu cũng là một trong những nguyên nhân gây tăng huyết áp. Uống rượu gây tăng huyết áp, vữa xơ động mạch. Ngoài ra, uống rượu nhiều trong thời gian dài có thể gây tổn thương gan, suy gan gây rối loạn đông máu. Do vậy, người uống rượu nhiều có nguy cơ cao bị đột quỵ chảy máu não. Đồng thời, khi đột quỵ thường rất nặng nề.

2.8. Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua

Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua biểu hiện bằng những triệu chứng thiếu máu não ngắn tự hồi phục trong vòng 1 giờ (thường 1-15 phút). Biểu hiện bằng hiện tượng đột ngột thấy mờ mắt hoặc yếu chân tay một bên… Các cơn này tự qua đi không cần điều trị. Sau một thời gian các cơn này lại tái lại.

Có những bệnh nhân bị các cơn thiếu máu não cục bộ tái đi tái lại rất nhiều lần rồi lại tự hồi phục. Do đó, các bệnh nhân này thường không đi khám, để tới khi bị đột quỵ não thực thụ mới vào viện thì phải chịu những hậu quả nghiêm trọng.
Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ đột quỵ não thực thụ. Do đó những người có cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua cần nhanh chóng đi khám để được điều trị dự phòng.

2.9. Nguyên nhân gây tai biến mạch máu não do phình động mạch não

Nguyên nhân tai biến mạch máu
Phình mạch máu não 

Phình động mạch não là nguyên nhân tương đối phổ biến gây đột quỵ chảy máu não ở người trẻ tuổi. Trên thành mạch máu một số người có những điểm yếu. Những điểm yếu này chịu tác động thường xuyên của huyết áp sẽ giãn dần ra tạo thành một túi phình, gọi là phình động mạch. Phình động mạch rất dễ vỡ. Khi vỡ phình động mạch ở não gây ra chảy máu não.

Phình động mạch não gặp ở 1-2% dân số. Trong số đó, khoảng 1% bị vỡ mỗi năm. Khoảng 10% bệnh nhân vỡ phình động mạch não tử vong trước khi đến viện.

Phình động mạch thường diễn biến âm thầm, không triệu chứng. Theo nghiên cứu ở Khoa Đột quỵ Bệnh viện 103 thì trong vòng 2-3 ngày trước khi phình động mạch não vỡ gây đột quỵ não, khoảng một nửa số bệnh nhân có “Dấu hiệu cảnh báo”. Dấu hiệu cảnh báo biểu hiện bằng đau đầu đột ngột, rất dữ dội (thường bệnh nhân mô tả đó là lần đau đầu nhất trong đời). Sau đó triệu chứng tự thoái lui dần. Các bệnh nhân này thường không đi khám! Sau 2-3 ngày thì phình mạch vỡ thực sự và bệnh nhân phải đi cấp cứu trong tình trạng rất nặng nề.

Xem thêm

Sử dụng các loại thuốc điều trị sau tai biến mạch máu não an toàn

2.10. Dị dạng động – tĩnh mạch não

Bình thường, các động mạch được nối thông với tĩnh mạch bằng hệ thống mao mạch có đường kính rất nhỏ.

Nguyên nhân tai biến mạch máu
Máu từ động mạch được lưu chuyển qua tĩnh mạch bằng hệ thống mao mạch 

Dị dạng động tĩnh mạch não là bệnh bẩm sinh, hình thành một đám rối mạch máu bất thường trong não, nối thông động mạch và tĩnh mạch não.

Nguyên nhân tai biến mạch máu
Dị dạng động mạch là một trong những nguyên nhân gây tai biến mạch máu não

Ở vị trí dị dạng, mạch máu có hình dạng và cấu trúc bất thường, rất dễ bị vỡ ra gây chảy máu não. Đa số bệnh nhân có dị dạng động tĩnh mạch não có diễn biến âm thầm. Một tỷ lệ nhỏ bị đau đầu kéo dài, co giật động kinh…

Tất cả các yếu tố nguy cơ kể trên đều dẫn đến làm tăng hình thành cục máu đông, gây bít tắc lòng mạch, cản trở máu nuôi dưỡng não, gây ra đột quỵ. Việc xác định được nguyên nhân gây tai biến mạch máu não giúp cho quá trình điều trị tai biến mạch máu não thuận lợi hơn.

Việc hiểu rõ nguyên nhân gây tai biến mạch máu não cũng là một căn cứ để người dân có những biện pháp phòng ngừa tai biến mạch máu não.

PGS. TS Nguyễn Minh Hiện

TS. BS Phạm Đình Đài – ThS. BS Đặng Phúc Đức

Khoa Đột quỵ – Bệnh viện 103