So sánh nền kinh tế bao cấp và nền kinh tế thị trường

Kinh tế bao cấp là gì?

Trước khi so sánh kinh tế bao cấp và kinh tế thị trường bài viết xin làm rõ hai khái niệm kinh tế bao cấp và kinh tế thị trường là gì để bạn đọc hiểu vấn đề hơn.

Sau cuộc chiến tranh dai dẳng và khốc liệt của nhân dân ta với các quốc gia lớn trên thế giới như thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và nhiều quân đội của các nước đồng minh khác khi thông nhất đất nước, toàn thể nhân dân ta bước vào giai đoạn hòa bình, xây dựng đất nước. Thời kì đó gọi là thời kì bao cấp, nước ta xây dựng theo mô hình chủ nghĩa xã hội giống như Liên Xô [cũ].

Trong thời kì bao cấp cơ chế quản lý kinh tế của nước ta chính là cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Kinh tế tư nhân dần bị xoá bỏ trong nền kinh tế, nhường chỗ cho kinh tế nhà nước chỉ huy. Trong nền kinh tế bao cấp, thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hoá được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế đến thủ tiêu việc mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng hóa từ địa phương này sang địa phương khác.

1. Khái niệm

Điểm khác nhau giữa kinh tế bao cấp và kinh tế thị trường chính là khái niệm về hai loại hình này.

Ở nền kinh tế thị trường, trong trường hợp lượng cầu hàng hoá lớn hơn lượng cung thì giá cả hàng hoá sẽ tăng lên

Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.

Ở nền kinh tế thị trường, trong trường hợp lượng cầu hàng hoá lớn hơn lượng cung thì giá cả hàng hoá sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Đơn vị sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn đồng nghĩa với việc có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất. Ngược lại, những đơn vị sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả thì sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp dẫn đến khả năng cạnh tranh kém, bị đào thải nhanh chóng.

Hàng hoá trong nền kinh tế bao cấp được nhà nước nắm toàn quyền điều hành

Trong khi đó, nền kinh tế bao cấp là nền kinh tế kế hoạch hoá – một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Kinh tế tư nhân dần bị xoá bỏ trong nền kinh tế, nhường chỗ cho kinh tế nhà nước chỉ huy.

Trong nền kinh tế bao cấp, thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hoá được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế đến thủ tiêu việc mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng hóa từ địa phương này sang địa phương khác.

2. Đơn vị làm chủ

Trong nền kinh tế thị trường sẽ có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp được tạo điều kiện để phát triển.

Tuy nhiên, trong nền kinh tế bao cấp, nhà nước hoàn toàn độc quyền phối hàng hoá, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Cụ thể, chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số lượng và mặt hàng được phép mua.

Đây cũng là một điểm khác nhau khá rõ rệt của kinh tế bao cấp và kinh tế thị trường.

Câu trả lời [ 2 ]

  1. Kinh tế thị trường là gì?

    Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.

    Ưu điểm

    Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.

    Nhược điểm

    Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội và quan niệm. Người giàu sẽ sử dụng lợi thế của mình để chiếm hữu ngày càng nhiều của cải và quyền lực hơn, trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn.

    Sau một thời gian cạnh tranh “cá lớn nuốt cá bé”, các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ dần biến mất, chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất lớn. Kinh tế thị trường sẽ dần biến thành độc quyền chi phối.

    Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất liên tục, sớm muộn sẽ dẫn đến mất cân bằng cung cầu. Trong giai đoạn đầu, các công ty đầu tư phát triển sản xuất khiến nguồn cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng với cung. Hiện tượng này tích lũy qua nhiều năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa: hàng hoá bị ứ đọng, giá cả sụt giảm, do không bán được hàng để thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt doanh nghiệp phá sản và dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Cuộc Đại khủng hoảng ở Mỹ năm 1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá mức trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.

    Đó là chưa kể vấn đề về sự sai và sót trong thông tin có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp và lạm phát.

    Trong một số tình huống, thị trường tự do đi ngược lại lợi ích chung của xã hội, một số ít người vì lòng tham lợi nhuận mà sẵn sàng gây tổn hại cho số đông. Ví dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc men, nếu Nhà nước không can thiệp [quy định mức giá tối đa, cấm đầu cơ tích trữ] thì các nhà buôn thuốc sẽ lợi dụng tình trạng này để đẩy giá bán thuốc chữa bệnh lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ không đủ tiền mua thuốc và sẽ phải chết vì bệnh dịch. Hoặc thị trường sản xuất phim ảnh, ca nhạc giải trí vì chạy theo lợi nhuận mà sản xuất những tác phẩm mang nội dung phản cảm, đồi trụy, gây tổn hại tới đạo đức xã hội.

    Để cơ chế thị trường không phát sinh tiêu cực, thì các điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin minh bạch, không có các ảnh hưởng ngoại lai, không có đầu cơ, không có vi phạm đạo đức kinh doanh, không có lách luật v.v… Tuy nhiên, trong thực tế không có nước nào đáp ứng hoàn hảo các điều kiện này, nên có những trường hợp cơ chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế, thậm chí góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế hoặc khủng hoảng nhân đạo. Khi đó sẽ có thất bại thị trường.

    Trong thực tế hiện nay, để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, không có nước nào có một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do – tự phát, các chính phủ luôn can thiệp vào thị trường dù ít hay nhiều. Cũng như vậy, không có nước nào có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn [ngay cả kinh tế Bắc Triều Tiên cũng có một phần nhỏ là kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình]. Thay vào đó, hầu hết các nước có nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường và yếu tố can thiệp của Nhà nước nhiều hay ít.

    Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.

    Kinh tế bao cấp là gì?

    Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Theo đó thì kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Mặc dù kinh tế chỉ huy đã tồn tại ở miền Bắc dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ trước năm 1975, song thời kỳ bao cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986 trên toàn quốc, tức là trước Đổi Mới.

    Trong nền kinh tế kế hoạch, thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế đến thủ tiêu việc mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Nhà nước có độc quyền phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số lượng và mặt hàng được phép mua.

    Trong 10 năm bao cấp, Việt Nam thực hiện hai kế hoạch: 5 năm lần thứ II [1976-1980] và 5 năm lần thứ III [1981-1985]. Do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, nhà nước Việt Nam xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu. Nhà nước xem thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản dẫn đến không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng vì Việt Nam sao chép mô hình kinh tế kế hoạch của Liên Xô mà không thật sự hiểu rõ ưu điểm và nhược điểm của mô hình này, không đủ năng lực quản lý kinh tế để phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ hiểu đơn giản xây dựng chủ nghĩa xã hội là quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, sau đó phát triển kinh tế theo kế hoạch. Chính tư duy đơn giản đó dẫn họ đến thất bại. Hơn nữa nội lực của Việt Nam quá yếu nên mô hình kinh tế kế hoạch hóa cũng không thể nào phát huy được tác dụng tập trung nội lực để đầu tư phát triển.

    Vai trò của tiền tệ

    Dưới thời bao cấp, do thiếu hàng hóa nên việc phân phối hàng hóa chủ yếu dựa vào hệ thống tem phiếu. Thị trường chợ đen vẫn tồn tại nhưng không phải kênh phân phối hàng hóa chính. Mua hàng gì thì có tem phiếu hàng đó. Một phần tiêu biểu của thời kỳ bao cấp là đồng tiền Việt Nam bị mất giá. Lương công nhân đôi khi cũng được trả bằng hiện vật vì giá trị đồng tiền cứ sụt dần. Nếu lấy đồng lương năm 1978 làm chuẩn thì số tiền đó năm 1980 chỉ là 51,1%. Đến năm 1984 thì còn 32,7%.

    Thị trường tự do bị xem là bất hợp pháp và bị hạn chế nên hàng hóa lưu thông trên thị trường chợ đen ít và giá rất cao. Người dân, cán bộ công nhân viên thường bán hàng tiêu dùng mà họ không sử dụng ra thị trường chợ đen.

    Nông nghiệp

    Sau năm 1975, với tiêu chuẩn phân phối trung bình 9 kg gạo/người/tháng thì 4 triệu dân thành thị mỗi năm phải cần 530.000 tấn gạo. Nhưng số lượng này không được đảm bảo khi Nhà nước chỉ có thể huy động nổi hơn 1 triệu tấn mỗi năm trên toàn quốc trong khi số gạo đó phải dùng để nuôi một quân đội thường trực lớn và phân phối cho dân thành thị. Chính vì thế nhà nước chỉ có thể cung cấp cho người dân thành thị một lượng lương thực và thực phẩm tối thiểu vừa đủ để họ duy trì cuộc sống. Trong thời bao cấp xảy ra một nghịch lý người dân thành thị có khẩu phần ăn còn kém chất lượng hơn người dân nông thôn trong khi ở các quốc gia khác thành thị luôn có mức sống cao hơn nông thôn.

    Văn hóa

    Người dân ít được tiếp xúc văn hóa phương Tây, văn học, phim, nhạc… đều được kiểm soát, được xem là “trong sạch”, gần gũi quần chúng và có giá trị nghệ thuật. Văn học được lưu hành chủ yếu là văn học cổ điển, văn học Nga, văn học xã hội chủ nghĩa, văn học cánh tả, văn học hiện thực phê phán, hiện thực xã hội chủ nghĩa và lãng mạn tích cực; các trường phái được xem là “tiêu cực”, “rẻ tiền” không được phép lưu hành.

    Phim chỉ có phim nhựa [kể cả phim tài liệu], chưa có phim truyền hình, chủ yếu chiếu rạp, lưu động và phát một số buổi nhất định trên truyền hình. Phim thương mại được chấp nhận ở mức độ nhất định. Các phim nước ngoài được trình chiếu chủ yếu là phim Liên Xô và các phim các nước xã hội chủ nghĩa [phim Trung Quốc bị cấm sau chiến tranh biên giới năm 1979], ngoài ra còn có phim các nước Pháp, Mỹ, Anh, Ấn Độ,…

    Nhà nước chú trọng chống mê tín dị đoan, phổ biến khoa học. Báo chí không có quảng cáo thương mại. Các tờ báo rất giống nhau về quan điểm, tư tưởng, chỉ khác là phục vụ cho các đối tượng khác nhau, không chạy theo lợi nhuận, được bao cấp. Các văn nghệ sĩ sinh hoạt trong các cơ quan tổ chức của nhà nước, được nhà nước trả lương như công chức.

    Xã hội

    Ngoài hậu quả kinh tế, thời bao cấp tại Việt Nam cũng là thời kỳ khép kín và nghi kỵ về mặt xã hội và chính trị. Mặc dù không có luật chính thức, nhưng nhà nước khá thận trọng với người phương Tây, người nước ngoài vì khác biệt tư tưởng và các vấn đề an ninh. Người Việt phần lớn không được tiếp xúc với người ngoại quốc. Ai vi phạm sẽ bị công an tra hỏi. Du lịch không được quan tâm, xuất nhập cảnh rất gắt gao.

    Sự thiếu thốn thời bao cấp khiến nạn ăn cắp vặt nảy sinh. Phân hóa giàu nghèo rất thấp. Giáo dục, y tế được bao cấp dù khá nghèo nàn về trang thiết bị. Sinh viên ra trường đều có việc làm nhưng chịu sự phân công của nhà nước, không được tự lựa chọn công việc, không bị thất nghiệp. Thi đại học rất khó, đòi hỏi tiêu chuẩn cao. Tính cộng đồng trong xã hội cao. Không có nhiều loại hình giải trí nhưng con người ít chịu áp lực của công việc và nhu cầu vật chất hơn so với thời kỳ Đổi Mới.

    Giáo dục

    Thành tựu giáo dục trong thời kỳ này là phát triển hệ thống giáo dục phổ thông đại trà đến tận cấp xã; mỗi xã, phường đều có trường phổ thông cấp I hoặc trường phổ thông cấp I-II, kể cả giáo dục mầm non; tập trung cho công tác bổ túc văn hóa và xóa mù chữ trong độ tuổi đi học; mỗi quận – huyện, thị xã có trường bổ túc văn hóa cho cán bộ cơ sở. Tuy nhiên đi kèm với sự phát triển mạnh về mặt số lượng, chất lượng hệ thống giáo dục lại đi xuống vì tình trạng thiếu trường lớp, thiếu giáo viên được đào tạo tốt, lương giáo viên bị hạ thấp, việc thi cử bị buông lỏng, bệnh thành tích phát triển.

    Khi hai miền Nam và Bắc thống nhất năm 1976 thì khuôn mẫu giáo dục ở miền Bắc tiếp cận với hệ thống giáo dục đã được thiết lập ở miền Nam; cụ thể nhất là học trình 10 năm tiểu học và trung học ở miền Bắc phải phù hợp với học trình 12 năm ở trong Nam. Hai hệ thống này song hành; Miền Bắc tiếp tục hệ 10 năm và miền Nam giữ hệ 12 năm từ năm 1976 đến năm 1981.

    Đến năm 1981, thì cho áp dụng hệ 11 năm cho miền Bắc [thêm lớp 5]. Năm 1992-1993, hệ thống 11 năm phổ thông của miền Bắc được thay đổi từ 11 năm sang 12 năm [thêm lớp 9]. Từ đó đến nay toàn bộ hệ thống là 12 năm thống nhất cả nước. Cuộc cải cách giáo dục bắt đầu từ năm 1981: Hệ thống giáo dục chuyển từ 10 năm sang 12 năm [bỏ lớp vỡ lòng], kéo theo sự đổi mới chương trình sách giáo khoa và cải tiến chữ viết. Do dư luận xã hội phản ứng mạnh, ngành giáo dục dần quay lại chữ viết cũ. Do tinh thần chỉ đạo hệ thống giáo dục Việt Nam phải bắt kịp trình độ Liên Xô và các nước Đông Âu, khiến chương trình giảng dạy của cuộc cải cách giáo dục năm 1981 bị chính các nhà trường kêu quá tải. Với ý nghĩa nội dung bao giờ cũng quyết định phương pháp, nếu sách giáo khoa bị quá tải thì không có một phương pháp nào ngoài phương pháp truyền thụ một chiều cho kịp với nội dung sách giáo khoa.

    Y tế

    Thời bao cấp, người dân đi khám chữa bệnh hay mua thuốc rồi mang hóa đơn về cơ quan hay bệnh viện thanh toán mà không mất tiền, song điều kiện chữa trị vô cùng thiếu thốn.[26] Bao cấp nhưng trong bối cảnh Nhà nước thiếu kinh phí, sản xuất không phát triển nên bệnh viện gặp vô vàn khó khăn. Các loại thuốc men, trang thiết bị y tế… chủ yếu được viện trợ. Bộ Y tế có cả Vụ kế hoạch, Cục Vật tư làm nhiệm vụ phân chỉ tiêu cho các bệnh viện. Ví dụ Bệnh viện Bạch Mai một năm được cấp bao nhiêu cái chiếu, chăn, đường, sữa, xăng dầu, thuốc men… Các bệnh viện thời bao cấp có quy mô nhỏ, chủ yếu kiểu nhà một tầng đến ba tầng. Thuốc men, thiết bị y tế không đủ đáp ứng nhu cầu một phần nhập khẩu, một phần được viện trợ từ các nước cộng sản.

    Đổi mới

    Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, Việt Nam đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở Long An; Nghị quyết Trung ương 8 khóa V [năm 1985] về giá – lương — tiền; thực hiện Nghị định số 25 – CP và Nghị định số 26 – CP của Chinh phủ… Đó là những căn cứ thực tế để Đảng Cộng sản Việt Nam đi đến quyết định thay đổi về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.

    Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng, và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.

    [Nguồn: Wikipedia]

  2. Một số điểm khác nhau rõ rệt giữa Nền kinh tế thị trường và Nền kinh tế bao cấp đó là:

    1] Sự khác nhau

    – Kinh tế thị trường: đa dạng nhà cung cấp, nguồn cung cấp, tư nhân tham gia sản xuất, thương mại, lời lỗ tư nhân chịu, đồng thời khi tạo ra giá trị thì tư nhân phải có nghĩa vụ hoàn thành thuế cho nhà nước.

    – Kinh thế bao cấp: nhà nước bao cấp hết tất cả, lời lỗ nhà nước chịu.

    – Về chế độ sở hữu, cơ chế thị trường trong nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa luôn hoạt động trên nền tảng của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Còn cơ chế thị trường trong nền kinh tế định hướng Xã hội chủ nghĩa lại hoạt động trong môi trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu. Trong đó, chế độ công hữu giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

    – Tính định hướng Xã hội chủ nghĩa đòi hỏi trong khi phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng điều tiết. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng… mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện thực hiện.

    2] Sự giống nhau

    Sự giống nhau biểu hiện ở chỗ, xuất phát từ tính khách quan của nó. Cả hai kiểu kinh tế thị trường này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ thống các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ… Đồng thời, cả nền kinh tế thị trường ở các nước Tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa đều là các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết [quản lí] của nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước ở các nền kinh tế là khác nhau. Không có nền kinh tế thị trường thuần tuý [hoàn hảo] chỉ vận hành theo cơ chế thị trường.

so sánh kinh tế thị trường và kinh tế tập trung quan liêu bao cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [150.38 KB, 38 trang ]

ĐỀ BÀI: SO SÁNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VÀ KINH TẾ TẬP TRUNG QUAN LIÊU BAO
CẤP
A. Đặt vấn đề:
Trong quá trình phát triển của
mình xã hội loài người xuất phát từ
một nền kinh tế tự cung tự cấp. Khi
sản xuất phát triển nhất định, đã có
sản phẩm dư thừa để trao đổi, mua
bán, phân công lao động xã hội và các
hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất ra đời thì loài người đã bước
vào nền kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên,
chỉ khi đến thời kỳ của chủ nghĩa tư
bản, chế độ phong kiến bị xóa bỏ, sản
xuất phát triển cung cấp một khối
lượng hàng hóa ngày càng lớn thì nền
kinh tế thị trường mới thực sự hình
thành và phát triển. Như vậy có thể
thấy rằng kinh tế thị trường đã có
mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình
thành trong xã hội phong kiến và phát
triển cao trong xã hội tư bản chủ
nghĩa, chủ nghĩa tư bản không sản
sinh ra kinh tế hàng hóa và do đó kinh
tế thị trường với tư cách là kinh tế
hàng hóa ở trình độ cao không phải là
sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư
bản mà là thành tựu chung cua nhân
loại. Đồng thời, kinh tế thị trường còn
tồn tại khách quan trong thời kỳ quá


độ lên chủ nghĩa xã hội bởi xét dưới
góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế”,
kinh tế thị trường là phương thức tổ
chức vận hành, là phương tiện điều
tiết kinh tế lấy kinh tế thị trường làm
cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh
tế và điều tiết mối quan hệ giữa người
với người, kinh tế thị trường chỉ đối
lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc
chứ không đối lập với các chế độ xã
hội. Nhận thức được những vấn đề cơ
bản trên đây, Đảng ta đã đề ra đường
lối xây dựng một nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, hoạt động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước thay cho cơ chế kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp – một cơ chế được
xây dựng trong điều kiện cơ sở vật
chất và trình độ phát triển còn lạc hậu
đã làm triệt tiêu những động lực của
nền kinh tế, gây ra tình trạng lạc hậu
trì trệ ở nước ta trước đổi mới. Bởi
vậy, đường lối đó của Đảng ta trong
thời kì đổi mới đã tạo ra một bước
chuyển mình quan trọng đối với kinh
tế - xã hội của đất nước. Việc tiến
hành xây dựng cơ chế thị trường với
nhiều điểm khác biệt so với cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp là một sự lựa


chọn đúng đắn, không phải do ý muốn
chủ quan của ai đó, càng không phải
là một sự chuyển hướng theo chủ
nghĩa tư bản – xuất phát từ quan niệm
cho rằng kinh tế hàng hóa, kinh tế thị
trường chỉ là của chủ nghĩa tư bản, mà
nó phù hợp với quy luật khách quan,
phù hợp tất yếu với lịch sử,tạo ra cho
đất nước ta cơ hội phát triển, hội nhập
với quốc tế dù rằng vẫn còn nhiều khó
khăn thách thức.
B. Giải quyết vấn đề:
I. SO SÁNH NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ
NỀN KINH TẾ TẬP
TRUNG QUAN LIÊU
BAO CẤP:
Tiêu
thức
Cơ chế kế
hoạch hóa tập
trung quan
Nền kinh tế thị
trường
liêu, bao cấp
1. Cơ
chế
quản

kinh


tế
Nhà nước
quản lí nền kinh
tế chủ yếu bằng
mệnh lệnh hành
chính dựa trên
hệ thống chỉ
tiêu pháp lệnh
chi tiết áp đặt từ
trên xuống
dưới. Các doanh
nghiệp hoạt
động trên cơ sở
các quyết định
của cơ quan nhà
nước có thẩm
quyền và các
chỉ tiêu pháp
lệnh được giao.
Tất cả phương
Thị trường
giữ vai trò là
công cụ phân bổ
các nguồn lực
kinh tế. Trong
quá trình sản
xuất và trao đổi,
các yếu tố thị
trường như
cung cầu, giá cả


có tác động điều
tiết quá trình
sản xuất hàng
hóa, phân bổ
các nguồn lực
kinh tế và tài
nguyên thiên
nhiên như vốn,
tư liệu sản xuất,
hướng sản xuất,
nguồn vật tư,
tiền vốn, định
giá sản phẩm, tổ
chức bộ máy,
nhân sự, tiền
lương…đều do
các cấp có thẩm
quyền quyết
định.
sức lao động,…
Các cơ quan
hành chính can
thiệp quá sâu
vào hoạt động
sản xuất, kinh
doanh của các
doanh nghiệp
nhưng lại không
chịu trách
nhiệm gì về vật


Các doanh
nghiệp làm chủ
hoạt động kinh
doanh, nền kinh
tế xuất hiện dựa
trên cơ sở phân
công lao động
xã hội và các
hình thức sở
hữu về tư liệu
chất và pháp lý
đối với các
quyết định của
mình. Những
thiệt hại vật
chất do các
quyết định
không đúng gây
ra thì ngân sách
nhà nước phải
gánh chịu. Các
doanh nghiệp
không có quyền
tự chủ sản xuất,
kinh doanh,
cũng không bị
ràng buộc trách
nhiệm đối với
kết quả sản
xuất, kinh


sản xuất. Thị
trường có vai
trò trực tiếp
hướng dẫn các
đơn vị kinh tế
lựa chọn lĩnh
vực hoạt động
và phương án tổ
chức sản xuất,
kinh doanh hiệu
quả. Doanh
nghiệp tự chịu
trách nhiệm về
hoạt động kinh
doanh của
mình.
doanh. Lỗ thì
Nhà nước bù,
lãi thì Nhà nước
thu.
2. Mô
hình
nền
kinh
tế
Nền kinh tế
khép kín, chủ
yếu dựa vào
nguồn lực của
đất nước, tự


cung, tự cấp, tự
lực cánh sinh;
chưa chú trọng
đến sự hợp tác,
giao lưu; chưa
quan tâm đến
việc áp dụng
khoa học công
nghệ vào sản
xuất.
Nền kinh tế
phát triển mạnh,
mở rộng sự liên
thông với các
thị trường trong
khu vực và trên
toàn thế giới.
Ra sức tiếp thu
những thành tựu
khoa hoc kĩ
thuật. Sản xuất
hiệu quả và có
năng suất cao
hơn, quy mô
rộng rãi hơn.
3. Hình Nền kinh tế Nền kinh tế
thức
sở
hữu
chỉ có hai thành


phần sở hữu về
tư liệu sản xuất
là: Sở hữu Nhà
nước và sở hữu
tập thể, được
thể hiện dưới
dạng Quốc
doanh và Hợp
tác xã.
có 3 chế độ sở
hữu: toàn dân,
tập thể, tư
nhân.Từ các
hình thức sở
hữu cơ bản hình
thành nhiều
thành phần kinh
tế với các hình
thức tổ chức sản
xuất, kinh
doanh đa dạng,
đan xen, hỗn
hợp.
4. Thà
nh
phần
kinh
tế
Nền kinh tế
chỉ có 2 thành


phần trung tâm
và giữ vai trò
chủ đạo đó là
kinh tế nhà
Phát huy vai
trò chủ đạo của
kinh tế nhà
nước đi đôi với
phát triển mạnh
mẽ các thành
nước và kinh tế
tập thể [hợp tác
xã]. Nhà nước
quản lí, làm chủ
và chịu trách
nhiệm về mọi
mặt.
phần kinh tế và
các loại hình
doanh nghiệp
khác. Hình
thành một số
tập đoàn kinh
tế, các công ty
đa sở hữu, các
công ty có vốn
đầu tư từ nước
ngoài,…thu hẹp
các lĩnh vực độc
quyền Nhà


nước.
5. Qua
n hệ
hàng
hóa -
tiền
tệ
Quan hệ hàng
hóa-tiền tệ bị
coi nhẹ, chỉ là
hình thức, quan
hệ hiện vật là
chủ yếu. Nhà
Nền kinh tế
được thực hiện
thông qua mối
quan hệ hàng
hóa- tiền tệ, quy
luật cung cầu
nước quản lí
kinh tế thông
qua chế độ “cấp
phát - giao
nộp”. Được
thực hiện chủ
yếu dưới 3 hình
thức sau: bao
cấp qua giá, bao
cấp qua chế độ
tem phiếu, bao


cấp theo chế độ
cấp phát vốn.
trên thị trường.
Đây là thời kỳ
mà những phát
minh sáng chế,
sức lao động
cũng được xem
như là một hàng
hóa có giá trị và
được trao đổi
trên thị trường.
6. Hình
thức
phân
phối
Nhà nước quy
định chế độ
phân phối vật
phẩm tiêu dùng
cho cán bộ,
công nhân viên
theo định mức
Kết hợp chặt
chẽ những
nguyên tắc phân
phối của chủ
nghĩa xã hội và
nguyên tắc của
kinh tế thị


qua hình thức
tem phiếu. Chế
độ tem phiếu
với mức giá
khác xa so với
giá thị trường
đã biến chế độ
tiền lương thành
hiện vật, thủ
tiêu động lực
kích thích người
lao động và phá
vỡ nguyên tắc
phân phối theo
lao động.
trường, được
thể hiện qua chế
độ phân phối
chủ yếu theo kết
quả lao động,
hiệu quả kinh
tế, phúc lợi xã
hội. Đồng thời
để huy động
mọi nguồn lực
kinh tế cho sự
phát triển chúng
ta còn thực hiện
phân phối theo
mức đóng góp


vốn và các
nguồn lực khác.
7. Cơ
cấu
nền
Chú trọng
chủ yếu là vào
nông nghiệp,
Phát triển
theo hướng
công nghiệp
kinh
tế
công nghiệp và
dịch vụ đã xuất
hiện nhưng
chưa phát triển.
hóa- hiện đại
hóa. Giảm tỉ
trọng nông
nghiệp, tăng tỉ
trọng công
nghiệp- dịch vụ.
8. Tác
động
Nền kinh tế
trì trệ, khủng
hoảng, không
có cạnh tranh,
kìm hãm tiến bộ


của khoa học kĩ
thuật, triệt tiêu
động lực kinh tế
của người lao
động, không
kích thích được
tính năng động,
sáng tạo của
đơn vị sản xuất
Nền kinh tế
trở nên năng
động và phát
triển hơn, cạnh
tranh mạnh mẽ
và gay gắt tuân
theo quy luật
vốn có của thị
trườngnhư quy
luật giá trị, quy
luật cung cầu,
quy luật cạnh
tranh; doanh
nghiệp cũng
kinh doanh.
Trong thời kỳ
này, phân bổ
mọi nguồn lực
theo kế hoạch là
chủ yếu, coi thị
trường chỉ là


công cụ thứ yếu
bổ sung cho kế
hoạch.
như người lao
động có cơ hội
thể hiện khả
năng, năng lực,
cũng như sự
sáng tạo của
bản thân.
II. TÁC ĐỘNG ĐẾN XÃ HỘI:
Việc cải tiến nền kinh tế theo hướng
thị trường đã có những tác động tới xã
hội như sau:
Đầu tiên, vấn đề công bằng trong
phân phối các yếu tố sản xuất được đảm
bảo. Theo đó, mọi thành phần kinh tế,
mọi loại hình doanh nghiệp, mọi người
lao động đều có quyền bình đẳng trước
pháp luật trong việc sử dụng đất đai, tài
nguyên, vốn và các tài sản công. Quyền
đó đã được thể chế hóa và được bảo đảm
bằng pháp luật. Về vấn đề này, Đại hội
XI nhấn mạnh: “Đổi mới, hoàn thiện luật
pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu toàn
dân mà Nhà nước là đại diện đối với đất
đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản
công khác Đất đai, tài nguyên, vốn, tài
sản do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
được giao cho các chủ thể thuộc mọi


thành phần kinh tế sử dụng theo nguyên
tắc hiệu quả. Các chủ thể có quyền và
nghĩa vụ như nhau trong sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực của Nhà nước”.
Tiếp đến, đời sống nhân dân được cải
thiện hơn, xã hội phát triển hơn.Việc gắn
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn
đề xã hội, xóa đói giảm nghèo đạt được
nhiều kết quả tích cực, con người có cơ
hội tìm kiếm việc làm phù hợp với khả
năng của bản than. Ngoài ra, trong nền
kinh tế thị trường thì tư liệu sinh hoạt
phong phú và đa dạng hơn rất nhiều so
với trong nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp.
Cùng với đó, y tế và giáo dục phát
triển với cở sở hạ tầng cũng như trang
thiết bị hiện đại và tối tân hơn thời bao
cấp. Mục tiêu của giáo dục đào tạo là đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong đó có chú trọng đến
việc đào tạo và huấn luyện lực lượng lao
động cho các ngành, các lĩnh vực sản
xuất vật chất và phi vật chất. Với lĩnh
vực giáo dục phổ thông, do chức năng và
nhiệm vụ giáo dục là hết sức đặc trưng,
nên thành quả của giáo dục là đa phương
diện; trong đó, thành quả của giáo dục


đáp ứng nhiệm vụ chính trị là quan trọng
nhất và mang tính chất quyết định.
III. CHỦ TRƯƠNG CỦA
ĐẢNG:
Để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-
xã hội, chúng ta đã có những bước cải
tiến nền kinh tế theo hướng thị trường,
mặc dù còn chưa toàn diện triệt để nhưng
đã mang lại những tác động tích cực. Có
được những điều này là nhờ sự hình
thành và hoàn thiện tư duy của Đảng ta
về kinh tế thị trường trong thời kỳ đổi
mới, bao gồm những chủ trương cơ bản
sau:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức
về nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa:
- Kinh tế thị trường là phương tiện xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường, vừa
chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh
tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố
đảm bảo tính định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế về sở
hữu:
- Tách biệt vai trò quản lý với vai trò
chủ sở hữu vốn của nhà nước; tách


chức năng chủ sở hữu vốn của nhà
nước với chức năng quản trị kinh
doanh của DNNN.
- Quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ
sở hữu và những người liên quan đối
với các loại tài sản; đồng thời quy
định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của họ
đối với xã hội.
- Bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách
khuyến khích, hỗ trợ phát triển sở hữu
tập thể.
- Tạo cơ chế khuyến khích phát triển
chế độ sở hữu cổ phần, sở hữu hỗn
hợp trở thành hình thức sở hữu chủ
yếu trong nền kinh tế.
- Ban hành các quy định pháp lý về
quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân nước ngoài tại Việt
Nam.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế về các
loại hình doanh nghiệp và các tổ chức
sản xuất kinh doanh:
- Thực hiện nhất quán chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần, tạo
môi trường cạnh tranh bình đẳng,
không phân biệt hình thức sở hữu.
- Đổi mới, phát triển hoạt động của các
doanh nghiệp nhà nước để phát huy
tính chủ đạo, thu hẹp các lĩnh vực độc
quyền nhà nước.


- Đổi mới, phát triển hợp tác xã, tổ hợp
tác theo cơ chế thị trường, theo
nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, bình
đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng
đồng.
- Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước để
các đơn vị sự nghiệp công lập phát
triển mạnh mẽ, có hiệu quả.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế phân
phối:
- Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính
sách về phân bổ nguồn lực, phân phối
và phân phối lại theo hướng đảm bảo
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội trong từng bước,
từng chính sách phát triển.
- Thực hiện phân bổ các nguồn lực xã
hội theo cơ chế thị trường và chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế của Nhà nước, đảm bảo hiệu
quả kinh tế - xã hội.
- Thực hiện chính sách phân phối và
phân phối lại phải đảm bảo hài hòa lợi
ích của nhà nước, của người lao động
và của doanh nghiệp, tạo động lực
cho người lao động.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế đảm
bảo đồng bộ các yếu tố thị trường:
- Hoàn thiện thể chế về giá, cạnh tranh
và kiểm soát độc quyền trong kinh


doanh; khung pháp lý cho việc ký kết
và thực hiện hợp đồng;
- Cơ chế giám sát, điều tiết thị trường
và xúc tiến thương mại, đầu tư và giải
quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế
thị trường và cam kết quốc tế.
Thứ sáu, phát triển các loại thị
trường:
Phát triển các loại thị trường là việc
đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa
và dịch vụ theo hướng hiện đại; tự do hóa
thương mại và đầu tư phù hợp cam kết

Mục lục

  • 1 Bối cảnh lịch sử
  • 2 Kinh tế
    • 2.1 Cơ chế quản lý kinh tế
    • 2.2 Các hình thức bao cấp
      • 2.2.1 Bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa
      • 2.2.2 Bao cấp qua chế độ tem phiếu
      • 2.2.3 Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách
    • 2.3 Vai trò của tiền tệ
    • 2.4 Nông nghiệp
      • 2.4.1 Giai đoạn 1976-1980
      • 2.4.2 Giai đoạn 1981-1985
    • 2.5 Công nghiệp
      • 2.5.1 Sau khi thống nhất
      • 2.5.2 Giai đoạn 1976-1980
      • 2.5.3 Giai đoạn 1981-1985
    • 2.6 Thương nghiệp
      • 2.6.1 Sau khi thống nhất
      • 2.6.2 Giai đoạn 1976-1980
      • 2.6.3 Giai đoạn 1981-1985
  • 3 Văn hóa, xã hội, giáo dục và y tế
    • 3.1 Văn hóa
    • 3.2 Xã hội
    • 3.3 Giáo dục
    • 3.4 Y tế
  • 4 Trì trệ và Đổi mới
    • 4.1 Trì trệ
    • 4.2 Đổi mới
  • 5 Chú thích
  • 6 Xem thêm
  • 7 Liên kết ngoài

Video liên quan

Chủ Đề