Sự khác biệt giữa pháp quyền và pháp trị

SO SÁNH KHÁI NIỆM PHÁP TRỊ VỚI PHÁP QUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.82 KB, 4 trang )

ĐÀO NGUYÊN PHƯƠNG THẢO.
LỚP HÌNH SỰ 32B.
MSSV: 3240169
BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN.
Đề tài: SO SÁNH KHÁI NIỆM PHÁP TRỊ VỚI PHÁP QUYỀN.
Có nhiều ý kiến xung quanh mối tương quan của hai khái niệm pháp quyền và pháp trị,
theo một số quan điểm thì chúng đồng nhất, số khác thì lại cho rằng đó là hai phạm trù
tách biệt. Vậy tiêu chí nào để đánh giá, xem xét sự khác biệt hay tương đồng của pháp
trị và pháp quyền? Thực chất giữa chúng có mối liên quan gì hay không? Từ góc độ của
một người mới tìm hiểu và tiếp cận lí luận về nhà nước pháp quyền trên cơ sở khảo cứu
các tài liệu của những học giả trong lĩnh vực này cộng thêm với vốn kiến thức khiêm
tốn vừa tiếp thu, tôi xin trình bày một số quan điểm cá nhân về pháp trị và pháp quyền
khi so sánh hai khái niệm trên.
Trước hết, cần hiểu khái niệm pháp quyền là gì. Pháp quyền được luận bàn là pháp
quyền thường được đặt trong khái niệm nhà nước pháp quyền. Theo TS Nguyễn Sĩ
Dũng, pháp quyền cũng như nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và vận
hành xã hội trên cơ sở của các quyền. Các quyền này được phân định và tổ chức sao
cho sự lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của người dân được bảo
vệ
1
. Còn PGS.TS Nguyễn Đăng Dung lại tóm lược: Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là
pháp luật về quyền. Pháp luật phân định và bảo vệ các quyền: quyền của các công dân
và quyền của nhà nước; quyền của các nhánh quyền lực nhà nước như lập pháp, hành
pháp và tư pháp
2
. Và tư tưởng về nhà nước pháp quyền ra đời nhằm chống lại sự
chuyên quyền, độc đoán, gắn liền với việc xác lập và pháp triển dân chủ. Động lực ra
đời của hệ tư tưởng này bắt nguồn từ những quan điểm của người xưa cho rằng: sự
công bằng, pháp luật là những thuộc tính vốn có từ ngàn xưa của trời đất. Bởi vậy, bạo
lực, lộng quyền, và hỗn loạn là cái tương phản lại quy luật trên cần xóa bỏ


3
. Hiện nay
vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về pháp quyền hay nhà nước pháp quyền.
Nhưng đứng ở góc độ cá nhân, tôi đồng tình với quan điểm của một số học giả cho
rằng: pháp quyền là sự thượng tôn pháp luật triệt để, là sự cai trị bởi luật, không có một
cá nhân hay tổ chức nào vượt lên trên pháp luật và nhà nước pháp quyền là mô hình nhà
nước được vận hành trên cơ sở pháp luật hạn chế, kiềm tỏa quyền lực nhà nước_ một
nhà nước hoàn toàn bị triệt tiêu khả năng tồn tại hiện tượng lạm quyền.
1 Nguyễn Sĩ Dũng, Thế sự và một góc nhìn, Nxb Trẻ, Tp.HCM, 2007, tr.46
2 Nguyễn Đăng Dung, Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb Đà Nẵng, ĐN, 2008, tr.18
3 Nguyễn Văn Thảo, Xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006,
tr.10
1
ĐÀO NGUYÊN PHƯƠNG THẢO.
LỚP HÌNH SỰ 32B.
MSSV: 3240169
Vậy thế nào là pháp trị? Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung thì pháp trị là thuyết cai trị
bằng pháp luật do Hàn Phi Tử khai sinh và nó đối lập với nhân trị (nhân trị chia thành
hai loại: loại độc tài (do một người cai trị) và tập đoàn trị (do một tập thể cai trị) )
4
.
Theo quan điểm cá nhân, tôi thiên về cách hiểu pháp trị là sự triệt để sử dụng pháp luật
như là công cụ hữu hiệu nhất phục vụ cho việc cai trị, và tất nhiên theo đó sẽ có chủ thể
đứng trên pháp luật để sử dụng thứ “công cụ tối ưu” đó, nói cách khác đó là cai trị bằng
luật. Tôi cũng không đồng ý với tác giả Nguyễn Đăng Dung trong việc diễn giải khái
niệm nhân trị để nhấn mạnh sự khác biệt với khái niệm pháp trị cũng như việc khẳng
định người khởi xướng thuyết pháp trị là Hàn Phi Tử vì thực tế thuyết này đã hình
thành và phát triển và nhiều giai đoạn bởi các triết gia như Quản Trọng, Thận Đáo,
Thân Bất Hại, Thương Ưởng… và Hàn Phi Tử là người hoàn thiện nó trong lịch sử tư
tưởng chính trị cổ đại Trung Quốc


5
.
Như vậy, pháp quyền và pháp trị là hai thứ khác nhau. Và để làm sang tỏ sự khác nhau
này, tôi xin đi sâu phân tích một số tiêu chí để phân biệt khái niệm pháp quyền và pháp
trị về cả lí luận lẫn thực tiễn. Cụ thể là:
Thứ nhất, về mục đích sử dụng pháp luật. Trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử cũng
như những triết gia khác, pháp luật được sử dụng nhằm củng cố quyền lực chuyên chế,
tăng cường sự chuyên quyền cho giai cấp thống trị, cho những “người nhà nước” (là
vua (King hay Queen) trong chế độ quân chủ và là kẻ đứng đầu nhánh hành pháp trong
các mô hình Nhà nước hiện đại). Các bộ luật tiêu biểu của lịch sử lập pháp cổ đại như
Hammurabi (Babylone), Bộ sưu tập luật La Mã có tên Corpus Iuris Civilis,.. hoặc thậm
chí đến bộ luật Hồng Đức ở thời kì phong kiến Việt Nam với các chế tài hà khắc cũng
không nằm ngoài mục đích này. Còn trong thuyết pháp quyền, pháp luật sử dụng nhằm
mục đích hạn chế quyền lực chuyên chế, nhằm hạn chế đến mức tối đa sự lạm quyền
của kẻ cầm quyền, nó là sự ràng buộc và là giới hạn của quyền lực. Có lẽ ứng dụng
quan trọng nhất của pháp quyền là nguyên tắc rằng chính quyền chỉ thực thi quyền hành
một cách hợp pháp theo các luật được soạn thảo ra và phát hành rộng rãi. Những luật đó
được thông qua và thực thi theo đúng các bước được gọi là thủ tục pháp lý. Nguyên tắc
này nhằm mục đích ngăn ngừa sự cai trị độc đoán dù cho đó là lãnh đạo chuyên quyền
hay quần chúng lãnh đạo. Chính vì vậy, pháp quyền chống lại cả chế độ độc tài lẫn tình
trạng vô chính phủ. Samuel Rutherford là một trong những tác giả đương đại đưa ra
nguyên tắc đó những nền tảng lý thuyết trong cuốn Lex, Rex (1644), và sau này là
Montesquieu trong cuốn Tinh thần Pháp luật xuất bản năm 1748. Ở Châu Âu đại lục và
tư tưởng pháp lý, pháp quyền thường, nhưng không phải luôn luôn, có liên hệ với
Rechtsstaat (Nhà nước pháp quyền - Đức). Theo tư tưởng những người Châu Mỹ
Anglo, pháp quyền có quan hệ mật thiết với tam quyền phân lập, tính chắc chắn của
pháp lý, nguyên tắc ước muốn hợp pháp và bình đẳng của mọi người trước pháp luật
6
.
4 Xem: Nguyễn Đăng Dung, Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb Đà Nẵng, ĐN, 2008, tr19


5 http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?p=129026
6 http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p_quy%E1%BB%81n
2
ĐÀO NGUYÊN PHƯƠNG THẢO.
LỚP HÌNH SỰ 32B.
MSSV: 3240169
Thứ hai, về vị trí_vai trò, sự tác động qua lại trong mối tương quan giữa pháp luật và
nhà nước. Trong nhà nước pháp trị, pháp luật chính là phương tiện để giai cấp thống trị
áp đặt tư tưởng, ý chí của mình lên toàn xã hội, là thứ dùng để cai trị và quản lí xã hội.
Lúc này tính giai cấp của pháp luật thể hiện rõ rệt nhất bởi vì nó là sản phẩm của riêng
giai cấp cầm quyền và chỉ đơn thuần là công cụ phục vụ cho việc duy trì và củng cố
quyền lực của kẻ tạo ra nó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân
phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước
có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của
Pháp gia đã được Tần Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công
trong việc thống nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc
liệt
7
. Còn trong tư tưởng về pháp quyền, nhìn chung theo nhiều quan điểm, pháp luật là
công cụ để chế ngự quyền lực, là thứ hạn chế và kiểm soát quyền lực, theo cách này thì
vô tình ta có thể ngầm hiểu có một chủ thể khác có khả năng sử dụng công cụ pháp luật
để kiểm soát quyền lực trong xã hội. Như vậy thì ranh giới của pháp quyền và pháp trị
trở nên mong manh vì vai trò xã hội của pháp luật nhìn chung cũng chỉ là một công cụ
để “kẻ” nào nắm giữ pháp luật thì có thể dùng nó để tịnh tiến quyền lực từ cực kia đến
cực nọ trong hệ quy chiếu nào đó mà thôi. Và, theo đó, ta không thể thấy được sự cân
bằng giữa 3 yếu tố: pháp luật-nhà nước-nhân dân để hoàn thiện hơn khái niệm nhà nước
pháp quyền. Vì thế, theo quan điểm cá nhân của tôi pháp luật trong trường hợp này nó
không chỉ dừng lại với vai trò là công cụ tiết chế quyền lực mà nó còn là một dạng
“chủ thể đặc biệt” cho mục đích hạn chế lạm quyền, kiểm soát quyền lực. Lúc này,
pháp luật phát huy tối đa tính xã hội khi không còn là sản phẩm ý chí của riêng cá nhân


hay giai tầng nào mà nó trở thành chuẩn mực chung cho mọi hoạt động vận hành nhà
nước, xã hội, xuất phát từ nhu cầu chung của mọi công dân trong nhà nước về dân
quyền, dân chủ; nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật và cùng với người dân trở thành
đối tượng tác động của pháp luật, đồng thời nhà nước cũng làm nhiệm vụ đảm bảo cho
pháp luật được vận hành triệt để trong xã hội; người dân vừa lấy pháp luật làm công cụ
kiểm soát quyền lực nhà nước, vừa chịu sự quản lí của nhà nước theo tinh thần của
pháp luật (chứ không phải theo ý chí của nhà nước như trong nhà nước pháp trị). Có
như vậy thì mới có thể xây dựng cách tiếp cận đồng nhất cho ba quan điểm về pháp
quyền đại diện cho ba hệ thống chính trị lớn nhất ở châu Âu: Rechtsstaat của Đức, Etat
de droit của Pháp, Rule of law của Anh.
Thứ ba, về nội dung và tính chất của pháp luật. Ngay từ thời trung cổ, đại diện tiêu biểu
của Pháp gia là Hàn Phi đã xác định: nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao
vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Với tác phẩm
Hàn Phi Tử, Hàn Phi đã chính thức khai sinh học thuyết pháp trị của phương Đông,
đồng thời đưa ra lời giải cho bài toán lịch sử hóc búa. Hàn Phi đã kết hợp các yếu tố
“thuật”, “thế”, “pháp” của Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng, hoàn thiện tư tưởng
pháp trị của các bậc tiền bối đã khai sinh ra nó là Quản Trọng và Tử Sản để xây dựng
thành học thuyết chính trị độc lập.Nội dung cốt lõi của học thuyết pháp trị là đề cao
pháp luật với tư cách là công cụ quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã
hội. “Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết
7 http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?p=129026
3
ĐÀO NGUYÊN PHƯƠNG THẢO.
LỚP HÌNH SỰ 32B.
MSSV: 3240169
lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được nữa”
8
. Như vậy, bản chất của pháp
luật trong nhà nước pháp trị là hà khắc và gần như chỉ thể hiện được tính giai cấp của
nó nhằm phục vụ tuyệt đối cho sự chuyên quyền. Còn trong mô hình nhà nước pháp


quyền mà các học giả xây dựng, tiêu biểu là mô hình nhà nước pháp quyền trên cơ sở
biện chứng của Heghen thì trước hết phải là một Nhà nước hợp lý, chỉ có thể được hình
thành trong xã hội hiện đại (khi đã có xã hội công dân). Luật pháp của Nhà nước pháp
quyền nghiễm nhiên được đề cao, không cẩn bất cứ một áp lực nào, vì nó là sản phẩm
của một Nhà nước hợp lý. Sự đề cao pháp luật chỉ là hệ quả chứ không phải là tiền đề
của Nhà nước pháp quyền
9
. Theo đó nội dung của pháp quyền là pháp luật tối thượng
với bản chất dân chủ và nhân quyền, pháp luật tối cao là pháp luật đảm bảo cho hết thảy
các quyền của mọi công dân. Tính xã hội của pháp luật trong nhà nước pháp quyền
cũng nhờ đó mà bộc lộc rõ rệt. Và cũng chính bởi lẽ này mà pháp luật trong nhà nước
pháp quyền đòi hỏi sự hoàn thiện gần như tuyệt đối của một đội ngũ xây dựng và bảo
vệ pháp luật với trình độ lập pháp cao.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy được những khác biệt cơ bản, thậm chí là trái
ngược của khái niệm pháp trị và pháp quyền. Tuy vậy, vẫn có thể nhận ra điểm chung
giữa chúng là sự đề cao pháp luật. Chính sự giống nhau này có thể đem lại rủi ro khi
tiến đến xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền là làm mô hình ban đầu thành một
biến thể nguy hiểm: nhà nước pháp trị, nếu không xác định rõ ngay từ đầu và kiên định
mục tiêu sử dụng pháp luật, những yêu cầu về vai trò, bản chất và nội dung của pháp
luật trong nhà nước pháp quyền.
8 http://www.sachhay.com/book/201008052062/han-phi-tu.aspx
9 http://doangia.vn/index.php?mod=article&cat=nghiencuuphapluat&article=258
4

PHÁP QUYỀN HAY PHÁP TRỊ

Posted on 12 Tháng Tám, 2017 by Civillawinfor

Sự khác biệt giữa pháp quyền và pháp trị
NGUYỄN SỸ DŨNG

Nếu chúng ta quan niệm pháp quyền là “rule of law” và pháp trị là “rule by law”, thì pháp quyền là sự cai trị của pháp luật và pháp trị là sự cai trị bằng pháp luật.

Pháp quyền là sáng tạo của người Anh, bắt nguồn từ Đại hiến chương “Magna Carta” năm 1215. Đây cũng là một trong những đóng góp lớn nhất của người Anh cho nhân loại. Bằng chứng là hầu như những nước theo pháp quyền đều là những nước giàu có, thịnh vượng.

Pháp trị là sáng tạo của người Trung Hoa. Nhà tư tưởng của pháp trị được cho là Hàn Phi (281-233 TCN). Và đây cũng là một đóng góp rất lớn người Trung Hoa cho nhân loại. Ban hành pháp luật để cai trị thì tạo ra được sự bình đẳng (ít nhất là giữa các thần dân), đồng thời tất cả mọi người đều có thể chủ động hành xử khi biết rõ pháp luật cho phép làm việc gì, còn việc gì thì không. Bằng chứng là trong thời kỳ cổ đại, Trung Hoa là một trong những quốc gia giàu có và phát triển vào bậc nhất trên thế giới.

Tuy nhiên, lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, pháp trị đã không đưa lại được một sự phát triển vượt bậc và bền lâu như pháp quyền. Bằng chứng là đất nước Trung Hoa đã tụt hậu rất xa so với các nước theo pháp quyền trong suốt nhiều thế kỷ. Chỉ đến ngày nay khi trong quá trình cải cách, nhiều yếu tố của pháp quyền (đặc biệt là Luật về quyền tài sản) được tiếp nhận, đất nước Trung Hoa mới lại vươn lên trở thành một trong những cường quốc hàng đầu của thế giới hiện đại.

Thế pháp quyền khác với pháp trị chỗ nào? Pháp trị là việc vua (hoặc giới cầm quyền) có quyền ban hành pháp luật để cai trị (hay nói bằng ngôn từ hiện đại là để quản lý). Mặc dù pháp luật được tuân thủ tuyệt đối, nhưng ban hành pháp luật như thế nào lại là quyền độc đoán của vua (hoặc của giới cầm quyền). Pháp quyền lại không hoàn toàn như vậy.

Trước hết, pháp quyền là việc pháp luật đứng trên tất cả, trên cả nhà nước (trên cả vua). Và quan trọng hơn nữa người dân cũng như nhà nước đều bình đẳng trước pháp luật. Đối với người Anh, vua có quyền của vua, quí tộc có quyền của quí tộc, thứ dân có quyền của thứ dân. Nếu vua hành xử trong khuôn khổ các quyền của mình, thì thậm chí người Pháp làm vua Anh cũng chẳng sao. (Thực tế, đã có thời kỳ người Pháp làm vua Anh). Thế nhưng, nếu vua xâm phạm đến quyền của quí tộc hoặc của thứ dân thì vua đã vi phạm pháp luật và sẽ bị xét xử bởi pháp luật một cách bình đẳng như thứ dân.

Thứ hai, pháp quyền công nhận nhiều quy phạm của pháp luật tự nhiên. “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. (Lời của Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ được Hồ Chủ tịch trích dẫn trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Các quyền mà tạo hóa ban cho con người (các quyền tự nhiên của con người) được coi là phần cấu thành của Luật Hiến pháp – đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất.

Thứ ba, việc ban hành pháp luật bị điều chỉnh rất chặt chẽ. Bất cứ luật gì mà nhà cầm quyền muốn có để dễ bề cai trị đều phải được cơ quan đại diện cho dân (quốc hội) thông qua. Pháp luật còn được đòi hỏi phải tiếp cận được công lý.

Thứ tư, các cơ quan nhà nước nắm giữ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được thiết kế theo nguyên tắc kiểm soát và cân bằng lẫn nhau để không một cơ quan nào có thể lạm quyền. Đặc biệt, một hệ thống tư pháp độc lập được xây dựng để không chỉ nhà nước mới có quyền truy tố người dân, mà người dân cũng có quyền khởi kiện nhà nước ra trước pháp luật. Hệ thống tư pháp này còn có thẩm quyền kiểm tra lại các văn bản lập pháp (judicial review) để chống lại lạm quyền và bảo vệ công lý.

Thứ năm, tòa án hiến pháp hoặc các thiết chế bảo hiến khác được thành lập và vận hành trên thực tế để bảo đảm việc tuân thủ hiến pháp và bảo vệ các quyền của con người khỏi sự xâm hại của quyền lực lập pháp, hành pháp cũng như tư pháp.

Việt Nam chúng ta đang theo đuổi pháp quyền hay pháp trị? Tất nhiên, cái chúng ta đang theo đuổi là pháp quyền. Hiến pháp năm 2013 đã chính thức ghi nhận Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền. Một loạt các nguyên tắc của pháp quyền như bảo vệ quyền con người, các cơ quan nhà nước kiểm soát lẫn nhau, tòa án phải bảo vệ công lý… được Hiến pháp ghi nhận và cũng từng được thực thi. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị thì vẫn còn rất đáng kể. Ví dụ, thói quen không quản được thì cấm vẫn còn rất thịnh hành hay các thiết chế bảo hiến vẫn còn rất yếu và kém hiệu quả. Có lẽ, để có được pháp quyền, chúng ta sẽ còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa.

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://tiasang.com.vn/-dien-dan/Phap-quyen-hay-phap-tri–10847

Share this:

  • Click to print (Opens in new window)
  • Click to email this to a friend (Opens in new window)
  • Click to share on Twitter (Opens in new window)
  • Click to share on Facebook (Opens in new window)
  • Click to share on Tumblr (Opens in new window)
  • Click to share on LinkedIn (Opens in new window)
  • Click to share on Pinterest (Opens in new window)
  • Click to share on WhatsApp (Opens in new window)
  • Click to share on Skype (Opens in new window)
  • More

  • Click to share on Reddit (Opens in new window)

Like this:

Like Loading...

Related

Filed under: Xã hội, nhà nước và pháp luật Việt Nam |

Pháp quyền hay Pháp trị

21/04/2006 22:17 -

Trong các văn bản chính thức, cái mà chúng ta đã lựa chọn là nhà nước pháp quyền. Còn một số học giả lại cho rằng nên lựa chọn mô hình nhà nước pháp trị. Vậy chúng ta nên xây dựng nhà nước pháp quyền hay nhà nước pháp trị?

Thực ra, nhà nước pháp quyền hay nhà nước pháp trị thì đều là những thứ do người nước ngoài nghĩ ra. Nhà nước pháp quyền có nguồn gốc tư tưởng từ Châu Âu. (Trong tiếng Pháp, đó là "Etat de droit"; trong tiếng Đức, đó là "Rechsstaat"). Nhà nước pháp trị có nguồn gốc tư tưởng từ Trung Quốc cổ đại. Ngoài ra, lại còn có khái niệm pháp trị (Rule of law) theo cách hiểu của người Anh-Mỹ. Khái niệm pháp trị theo cách hiểu của người Anh-Mỹ rất gần với khái niệm nhà nước pháp quyền của người Châu Âu. Thế nhưng, khái niệm nhà nước pháp trị (hay cũng được gọi tắt là pháp trị) theo cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại (tiêu biểu là của Hàn Phi Tử) thì lại hoàn toàn khác hẳn.

Khái niệm pháp trị trong cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại đối lập với khái niệm đức trị. Pháp trị là dùng pháp luật để cai trị (Rule by law), chứ không phải dùng đạo đức để cai trị (Rule by moral). Trong trường hợp này, pháp luật chỉ là công cụ của nhà nước, và nhà nước đứng trên pháp luật. Mà như vậy thì "may nhờ, rủi chịu", một nhà nước chuyên quyền, độc đoán có thể ban hành mọi thứ pháp luật, kể cả những thứ xâm phạm các quyền cơ bản của con người để cai trị.

Còn khái niệm pháp trị trong cách hiểu của người Anh-Mỹ thì đối lập với khái niệm nhân trị. Pháp trị là pháp luật cai trị (Rule of law), chứ không phải con người cai trị (Rule of person). Trong trường hợp này, không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả nhà nước.

Với tư cách là một phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, nhà nước pháp quyền là không mang tính chất giai cấp. Bất cứ giai cấp nào muốn phụng sự nhân dân, muốn các quyền của mình không bị một nhóm những kẻ cầm quyền thật sự tước bỏ thì đều cần tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình nhà nước pháp quyền. Xây dựng đất nước theo mô hình nhà nước pháp trị (theo cách hiểu của người Trung Quốc cổ đại) không thể đưa chúng ta đi được đâu xa, ngoài việc trở về với thời quá khứ.

Theo cách hiểu như trên, pháp trị là một trật tự pháp lý độc lập (với chính trị, tôn giáo...). Nó bao gồm ba ý nghĩa cơ bản. Pháp trị là công cụ để điều chỉnh nhà nước (điều chỉnh quyền lực); Pháp trị có nghĩa là tất cả mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật; Pháp trị có nghĩa là bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức.

Với tư cách là công cụ điều chỉnh quyền lực, pháp trị có hai chức năng: một là hạn chế sự độc đoán của nhà nước và hạn chế sự lạm quyền; hai là làm cho nhà nước hành xử hợp lý, làm cho chính sách của nhà nước được anh minh. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để hạn chế được sự độc đoán và sự lạm quyền của nhà nước?

Pháp trị trả lời câu hỏi này bằng cách đề ra những nguyên tắc cơ bản sau đây: Bảo đảm tính tối thượng của pháp luật. Pháp luật phải được đặt trên nhà nước và đảng phái; Nhà nước phải tuân thủ một hệ thống thủ tục được xác lập từ trước và được công bố công khai; Bảo đảm nguyên tắc người dân được làm mọi điều pháp luật không cấm, nhưng nhà nước chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép.

Mặc dù những nguyên tắc nói trên hạn chế khả năng hành xử tùy tiện của nhà nước, nhưng chúng lại làm cho việc hành xử của nhà nước được dẫn dắt nên thường hợp lý và anh minh.

Với ý nghĩa bình đẳng trước pháp luật, tất cả các công dân đều ngang quyền với nhà nước. Không thể có chuyện, mọi vi phạm của người dân đều bị trừng trị, còn mọi vi phạm của nhà nước (hoặc của các quan chức nhà nước) đều được cho qua. Không thể có chuyện, cấm người dân đi xe máy để những người đi ô tô có đường đi thông thoáng hơn. Ngoài ra, khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự (mua hàng của các công ty chẳng hạn), nhà nước chỉ là một bên của quan hệ hợp đồng bình đẳng như các bên khác.

Công lý về thủ tục và về hình thức là thứ tương đối trừu tượng. Đại loại, công lý thì có công lý về nội dung và công lý về hình thức. Ví dụ, người phạm tội ác phải bị trừng trị là công lý về nội dung; còn, mọi bị cáo đều có quyền đòi hỏi được xét xử bởi một phiên tòa mà các thẩm phán là hoàn toàn độc lập và với những thủ tục tranh tụng công khai là công lý về hình thức. Người Anh-Mỹ rất coi trọng công lý về hình thức vì họ cho rằng khi các thủ tục được tuân thủ nghiêm ngặt thì công lý nội dung bao giờ cũng đạt được.

Với tư cách là công cụ bảo đảm công lý về thủ tục và về hình thức, pháp trị đòi hỏi: Hệ thống pháp luật phải có đầy đủ các quy định công bằng về việc ban hành quyết định và về thủ tục (không thể thích thế nào thì quyết thế ấy); Các quy định về việc ban hành quyết định và về thủ tục phải được xác định từ trước và phải được công bố từ trước (không thể sửa luật chơi trong lúc đang chơi); Các quy định về việc ban hành quyết định và thủ tục phải được áp dụng một cách công khai, minh bạch (không thể áp dụng các quy định mà không dẫn chiếu được, không lý giải được); Các quy định về việc ban hành quyết định và thủ tục phải được áp dụng một cách nhất quán (không thể nay áp dụng thế này, mai áp dụng thế khác).

Khái niệm nhà nước pháp quyền của người Châu Âu rộng hơn khái niệm pháp trị của người Anh-Mỹ: về cơ bản nó bao gồm khái niệm pháp trị nói trên kết hợp với những tư tưởng và nguyên tắc của chủ nghĩa lập hiến tự do. Dưới đây là một vài tư tưởng và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa lập hiến nói trên:

Một là, quyền lực giữa nhà nước và các công dân được phân chia theo kế ước xã hội (nhà nước không đương nhiên có quyền). Bản kế ước đó chính là bản hiến pháp. Hiến pháp vì vậy phải do quốc hội lập hiến soạn thảo và phải được toàn dân phê chuẩn. Việc sửa đổi hiến pháp phải do toàn dân phúc quyết.

Hai là, quyền con người là những quyền hiến định. Các quyền này là không thể bị xâm phạm. Hơn thế nữa, trách nhiệm của nhà nước là phải bảo đảm các điều kiện để người dân có thể thực thi được các quyền của mình.

Ba là, quyền lực của nhà nước phải bị phân chia để trách lạm quyền và lộng quyền.

Bốn là, các quyền lực nhà nước phải được tổ chức theo quyền tắc kiểm tra và cân bằng lẫn nhau (check and balance). Điều này vừa giúp cho việc tránh lạm quyền, vừa làm cho việc thực thi quyền lực được minh bạch và hợp lý...

Với những thông tin được trình bày trên đây, thiết nghĩ, việc lựa chọn mô hình nhà nước pháp quyền là điều chúng ta nên khẳng định.

Nguyễn Sĩ Dũng

Tags:

Cả bộ máy công quyền lẫn công dân cùng "quy ước" chỉ tuân thủ và áp dụng các đạo luật và văn kiện lập pháp tương đương khác do quốc hội ban hành minh bạch, chứ không phải chờ sự hướng dẫn thi hành của những nghị định, thông tư do ngành hành pháp ban hành.

Nếu sự tồn tại của một chính phủ tuỳ thuộc vào sự tin tưởng trao phó quyền hạn từ dân chúng, mọi động thái hành xử quyền hành đều đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt từ phía đại biểu của dân trong quốc hội hay nghị viện, thì tự khắc một chính phủ đương quyền sẽ có nhu cầu tự thân và ý chí đủ mạnh để thiết lập nên một hệ thống đề kháng nội tại, nhằm tận diệt mọi mầm mống phát sinh những tệ đoan và thanh lọc nhanh chóng hàng ngũ quan chức của mình.

Nếu sự phân quyền không minh bạch, mà chỉ đơn thuần là phân công, phân nhiệm trong khi mọi quyền hành thực sự lại tập trung vào một định chế duy nhất thì đấy chỉ là sự phân quyền nửa vời. Điều này tất nhiên không thể được định danh là nhà nước pháp trị. Triết gia Montesquieu, cha đẻ của thuyết tam quyền phân lập, và những nhà tư tưởng hậu duệ của ông ngày xưa chắc không thể nào ngờ rằng sẽ có ngày học thuyết của mình lại được điều chỉnh thành "tam quyền phân nhiệm" như vậy!

2. Thượng tôn luật pháp

Trong một nhà nước pháp trị, tinh thần thượng tôn pháp luật là lẽ đương nhiên. Thượng tôn pháp luật được thể hiện ở chỗ cả bộ máy công quyền lẫn công dân cùng "quy ước" với nhau chỉ tuân thủ và áp dụng các đạo luật và văn kiện lập pháp tương đương khác do quốc hội hay nghị viện ban hành một cách minh bạch.

Tất nhiên khi hành xử quyền hành pháp, chính phủ và các cơ quan trực thuộc có thể soạn thảo những văn kiện lập quy để những viên chức trong bộ máy công quyền dễ dàng thực hiện công việc thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Nhưng, người dân không cần biết đến những văn kiện này, đặc biệt những loại có đóng dấu "mật". Họ chỉ phải tuân thủ những gì do chính cơ quan mà họ trực tiếp bầu nên soạn thảo và ban hành.

Nếu thực hiện nguyên tắc thượng tôn luật pháp thì khó có thể chấp nhận việc một văn kiện lập pháp, chẳng hạn Bộ luật Dân sự hay Luật Đất đai, tuy đã được ngành lập pháp ban hành nhưng còn phải chờ sự hướng dẫn thi hành của những văn kiện lập quy (nghị định, thông tư) của ngành hành pháp. Đó là chưa kể một thực tế vẫn thường diễn ra là các cơ quan công quyền, đặc biệt chính phủ và các bộ, khi ban hành văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thi hành một đạo luật của mình hoặc đặt ra các thủ tục mà luật không minh định nhằm hạn chế hoặc tước bỏ quyền lợi của người dân vốn đã được đạo luật ấy công nhận.

Trong một nhà nước pháp trị, cơ quan lập pháp và các thành viên của nó phải chủ động soạn thảo dự án luật chứ không chỉ thụ động ngồi chờ các bộ trình sẵn để tranh luận và biểu quyết. Chính những đại biểu dân cử sẽ chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên môn từ các chuyên gia trong lĩnh vực đối tượng của đạo luật. Thực thi quyền soạn thảo luật như vậy cũng sẽ giúp giảm thiểu tình trạng "nghị gật" trên diễn đàn quốc hội.

Thượng tôn luật pháp còn đòi hỏi mọi văn kiện lập pháp và lập quy đều phải tuân thủ hiến pháp. Công dân được quyền thách thức tính hợp hiến của luật và các văn bản dưới luật bằng việc khởi kiện trước tòa bảo hiến. Tòa bảo hiến – dù được tổ chức như một định chế riêng biệt hay là một bộ phận của tòa án tối cao - sẽ đảm đương công việc bảo vệ hiến pháp và có thể đưa ra phán quyết hủy bỏ các đạo luật, nghị định, thông tư hay quyết định vi hiến.

Tình trạng thông tư và nghị định của ngành hành pháp mâu thuẫn với các đạo luật của cơ quan lập pháp như hiện nay chắc chắn không thể tồn tại nếu có tòa bảo hiến. Quốc hội khi đó sẽ nghiêm túc hơn khi soạn thảo luật, cơ quan công quyền sẽ cẩn thận hơn khi điều hành quốc gia. Không ai có thể tiếp tục tại vị để đùa với dân khi mà hôm nay ban hành quyết định này, ngày mai lại sửa đổi, thậm chí hủy bỏ chính quyết định đó!