Tại sao người miền Bắc tiết kiệm
Lỗi Lua: sai protection date: ngày 27 tháng 5 năm 2020. Miền Bắc Việt Nam, Miền Trung Việt Nam và Nam Bộ là các vùng lịch sử, địa lý và văn hóa trong Việt Nam. Mỗi khu vực bao gồm các tiểu vùng, với sự khác biệt đáng kể về văn hóa giữa các tiểu vùng. Show
Bản đồ Nam Tiến của người Việt để xâm chiếm nước Chăm-pa và Khmer (Campuchia) Đại Việt,Chăm-pa và Đế quốc Khmer (Thế kỷ 12). Việt Nam trong suốt Nam Bắc Triều (1533-1592). Việt Nam ở thế kỷ 17 trong suốt Trịnh-Nguyễn phân tranh. Bản đồ phân chia của Đông Dương thuộc Pháp. Bắc và Nam Việt Nam (1955-1975). Bài chi tiết: Lịch sử Việt Nam
Đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam là quê hương truyền thống của các dân tộc Việt Nam (dân tộc Kinh), nơi có nhiều nền văn hóa thời đại đồ đồng như Phùng Nguyên và Đông Sơn có nguồn gốc hơn 4000 năm trước. Thông qua các cuộc di cư và chinh phục, người Việt dần dần lan rộng về phía nam trong một quá trình gọi là Nam Tiến ( Nam tiến ). Miền Trung Việt Nam, từ Quảng Bình đến Bình Thuận là quê hương của người Chăm, một nhóm dân tộc Malayo-Polynesia, những người đã thành lập Vương quốc Ấn hóa riêng biệt của họ trên vùng duyên hải miền Trung trước khi bị người Việt Nam chinh phục vào thế kỷ 15. Tiền thân của họ, những người ngày nay được gọi là văn hóa Sa Huỳnh, có từ năm 1000 TCN. Đồng bằng sông Cửu Long ở cực nam Việt Nam là một phần của Phù Nam, Chân Lạp sau đó là Đế quốc Angkor. Người Hoa và người Việt bắt đầu di cư hàng loạt đến vùng này trong khoảng thế kỷ 17 đến thế kỷ 18. Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam là một khái niệm linh hoạt, thay đổi liên tục trong suốt quá trình lịch sử. Trong chiến tranh Lê Mạc (15401592), Việt Nam được phân chia với nhà Mạc nắm giữ đồng bằng sông Hồng và nhà Lê kiểm soát miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Định trong khi Champa và người Khmer vẫn giữ các chính thể của họ xa hơn về phía nam. Trong Trịnh - Nguyễn phân tranh (16271672), đất nước bị phân chia giữa hai vị chúa cai trị với ranh giới là sông Gianh, phía bắc tỉnh Quảng Bình. Miền Bắc gọi là Đàng Ngoài (Cõi Ngoài) do Chúa Trịnh và chúa Nguyễn ở miền Nam, gọi là Đàng Trong (Nội địa) hay Quảng Nam quốc , với các vua Lê trên danh nghĩa vẫn giữ vai trò là nguyên thủ quốc gia. Hai bên cai trị miền riêng của họ độc lập với bên kia, và thường xuyên chiến đấu với nhau. Sự tách biệt áp đặt đã khuyến khích hai khu vực phát triển nền văn hóa của riêng họ. Sau Chiến tranh Tây Sơn (17711802) và thành lập triều Nguyễn, đất nước bắt đầu có hình dạng như hiện nay với trung tâm quyền lực nay chuyển thành Huế ở miền Trung Việt Nam. Trong Thuộc địa Pháp, người Pháp chia đất nước thành ba phần, trực tiếp cai trị Nam Kỳ trong khi thành lập các bảo hộ ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Do đó, Nam Kỳ chịu ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa Pháp hơn hai miền còn lại. Hà Nội, là thủ đô của Đông Dương thuộc Pháp, là nơi duy nhất ở miền Bắc Việt Nam có ảnh hưởng đáng kể của Pháp. Từ năm 1955 đến năm 1975, Việt Nam lại bị chia cắt thành hai quốc gia riêng biệt, bị chia cắt bởi Sông Bến Hải tại Tỉnh Quảng Trị tại Vĩ tuyến 17. Miền Bắc, được cai trị bởi một chính phủ cộng sản, hỗ trợ bởi Trung Quốc và Liên Xô, trong khi miền Nam có nền kinh tế thị trường tự do, chính phủ bán dân chủ, hệ tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, đồng minh với Hoa Kỳ, Australia, Đại Hàn Dân Quốc và Các quốc gia liên kết với phương Tây. Mặc dù quốc gia đã được thống nhất từ năm 1975, nhưng sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và những khác biệt khác giúp phân định hai khu vực với nhau, đôi khi cùng với những định kiến đi kèm. Thành phố lớn nhất ở miền Bắc là Hà Nội, thủ đô của quốc gia; và thủ phủ kinh tế và thành phố lớn nhất của đất nước ngày nay là Thành phố Hồ Chí Minh (trước đây gọi là Sài Gòn). Sự khác biệt văn hóaSửa đổiSự khác biệt về văn hóa giữa các vùng có thể được chia thành hai loại chính: Khác biệt văn hóa "hữu hình" như trang phục truyền thống, ẩm thực Việt Nam, v.v.; và những khác biệt văn hóa "phi vật thể" đối phó với những định kiến về hành vi, thái độ và những điều tương tự giữa người dân hai vùng này. Các cuộc thảo luận về sự khác biệt cố hữu giữa người miền Bắc và miền Nam bị cấm và có thể bị coi là "phản động" trên các phương tiện truyền thông do nhà nước quản lý [1] hoặc phá hoại đoàn kết dân tộc. Đặc điểm và khuôn mẫu được nhận thứcSửa đổiTrong khi quan hệ giữa người miền Bắc và người miền Nam nói chung là dân sự, sự tiếp xúc gia tăng do dòng người miền Bắc vào miền Nam kể từ khi Chiến tranh Việt Nam bắt đầu đã làm nảy sinh một số định kiến về người dân từ các vùng khác nhau:
Ẩm thựcSửa đổiBài chi tiết: ẩm thực Việt Nam
Ẩm thực là một trong những nét văn hóa khác biệt giữa các vùng miền. Miền Bắc Việt Nam là "cái nôi" của nền văn minh các dân tộc Việt Nam, mang nhiều món ăn đặc trưng của Việt Nam (như phở và bún chả cá ). Các món ăn được cho là phức tạp về thành phần nhưng lại đơn giản về hương vị. Ẩm thực miền Nam bị ảnh hưởng bởi các món ăn của người nhập cư miền Nam Trung Quốc và người Campuchia bản địa, do đó người miền Nam thích hương vị chua ngọt tương ứng trong nhiều món ăn. Ví dụ về các món ăn có vị chua bao gồm Canh chua và gỏi xoài xanh / gỏi đu đủ xanh. Người nấu ăn miền Nam cũng có xu hướng sử dụng nhiều loại nguyên liệu tươi hơn đáng kể trong khi ẩm thực miền Bắc chủ yếu dựa vào đồ bảo quản và đồ khô. Các món ăn miền Nam Việt Nam và Campuchia cũng có những điểm tương đồng đáng kể về nguyên liệu, cách nấu và món ăn, chẳng hạn như Hủ tiếu Nam Vang. Cách nấu ăn miền Trung Việt Nam khác với ẩm thực của cả miền Bắc và miền Nam, ở chỗ sử dụng nhiều món ăn kèm nhỏ và đòi hỏi sự chuẩn bị phức tạp hơn (chuẩn bị nguyên liệu, nấu ăn, phục vụ, v.v.). Ẩm thực cung đình Huế coi trọng việc trình bày món ăn hơn, ví dụ như Bánh bèo và Bánh bột lọc. Nó cũng đặc biệt ở độ cay khi so sánh với các đối tác của nó, ví dụ như ở Bún bò Huế. Các mặt hàng thực phẩm từ khu vực này cũng có xu hướng nhỏ hơn trong khẩu phần riêng lẻ. Các món ăn miền Trung Việt Nam cũng có một lượng lớn hải sản. Một số thực phẩm khác thường phổ biến ở một vùng này hơn ở vùng khác. Ví dụ: thịt chó ở miền Bắc phổ biến hơn nhiều ở miền Nam.[6] Ở miền Bắc cũng ăn thịt mèo của đất nước.[7][8] Tương tự, một số món hải sản và thịt thú săn, chẳng hạn như cá basa hoặc thịt động vật gặm nhấm nướng, tuy phổ biến ở các vùng khác của đất nước, không phổ biến ở miền Bắc. Miền Nam Việt Nam có nền văn hóa cà phê nổi tiếng trong khi trà là thức uống được ưa chuộng ở miền Bắc. Quần áoSửa đổiQuần áo truyền thống cũng thường được sử dụng để tượng trưng cho các vùng khác nhau. Trong trang phục của phụ nữ, thường Áo tứ thân gắn với miền Bắc, áo dài với miền Trung (do xuất hiện trong cung đình Việt Nam vào thế kỷ 18), và Áo bà ba ở miền Nam (mặc dù nhiều bộ quần áo này được mặc ở các vùng khác nhau). Tuy nhiên, áo dài hiện nay là trang phục được phụ nữ mặc rất phổ biến và rộng rãi trên toàn quốc. Sự khác biệt về ngôn ngữSửa đổiBản đồ phương ngữ Việt Nam. Tiếng Việt có nhiều trọng âm, ba phương ngữ chính là Bắc, Trung và Nam với sự khác biệt lớn về âm vị và từ vựng. Do sự nổi bật về văn hóa, giọng Hà Nội và Sài Gòn hầu như dễ hiểu đối với những người nói từ các vùng khác. Phương ngữ và giọng miền Trung, cụ thể là từ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên thường khó hiểu được đối với những người nói ngoài các vùng này. Sự khác biệt trong các trọng âm này nằm ở một số yếu tố khác nhau, bao gồm nhưng không giới hạn ở những điều sau:
Trong tiếng Trung, số âm giảm xuống còn 5 (giọng Quảng Bình, Quảng Trị và Huế) hoặc chỉ còn 4 (giọng Hà Tĩnh và Nghệ An). Một trong những đặc điểm khác biệt của tiếng 8 tỉnh, thành miền Trung, từ tiếng Thanh Hóa cho đến tiếng Đà Nẵng, tiếng Quảng Nam là việc sử dụng một bộ tiểu từ và đại từ khác nhau, khiến nó trở nên khác biệt với tiếng Bắc và tiếng Nam. Ví dụ: chi , mô , tê , răng và rứa (cái gì, ở đâu, cái đó, tại sao và như vậy) được dùng thay cho gì , đâu , kìa , sao và vậy trong tiếng Việt Chuẩn. Mặc dù những khác biệt này có vẻ hời hợt đối với những người không nói tiếng Việt, nhưng ngay cả sự khác biệt về âm vị học Các từ vựng của các vùng khác nhau cũng khác nhau. giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam khá nổi bật. Thuật ngữ thân tộc bị ảnh hưởng đặc biệt, vì mỗi thuật ngữ có một ý nghĩa khác nhau ở mỗi vùng. Ở miền Nam, con cả trong một gia đình được gọi bằng số thứ tự hai, trong khi ở miền Bắc "số hai" chỉ con cả. Từ vựng của các vùng khác nhau cũng khác nhau. Sự khác biệt về từ vựng có thể gây nhầm lẫn vì đôi khi cùng một từ có thể có nghĩa khác nhau trong mỗi phương ngữ. Ví dụ, từ thăng dùng để chỉ hai loại trái cây khác nhau: nó được dùng cho Prunus salicina (một loại mận) ở miền Bắc, trong khi ở miền Nam nó dùng để chỉ Syzygium samarangense (hồng táo). Tương tự, dĩa có nghĩa là "đĩa" trong tiếng Nam Việt và "dĩa" trong tiếng Bắc Việt; chè là một món tráng miệng ở miền Nam Việt Nam nhưng có nghĩa là "trà" ở miền Bắc Việt Nam, ốm có nghĩa là đau ở miền Bắc Việt Nam và gầy ở miền Nam Việt Nam. "bông" dùng để chỉ hoa trong tiếng Nam Việt nhưng có nghĩa là bông trong tiếng Bắc Việt, từ "xì" trong tiếng Nam Việt là một từ chửi trong tiếng Việt Bắc. Bản đồ khí hậu Việt Nam. Trong khi cả nước nằm trong vùng nhiệt đới, có sự khác biệt khá lớn về khí hậu giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Sự khác biệt về khí hậuSửa đổiMiền Bắc Việt Nam có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có đủ bốn mùa, với nhiệt độ mát hơn nhiều so với miền Nam (có khí hậu xavan nhiệt đới), cũng như mùa đông có thể khá lạnh, đôi khi có sương giá và thậm chí (hiếm khi) có tuyết rơi. Nhiệt độ thấp nhất đạt được ở Hà Nội là 2,7°C vào năm 1955.[1]:Nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận ở Hà Nội. Tuyết thậm chí có thể được tìm thấy ở phạm vi rộng ở vùng núi ở các vùng cực Bắc ở những nơi như Sa Pa và Lạng Sơn. Miền Nam Việt Nam, với nhiệt độ nóng hơn nhiều, chỉ có hai mùa chính: mùa khô và mùa mưa. Sự khác biệt văn hóa nhỏSửa đổi
Ghi chúSửa đổiBản mẫu:Danh sách giới thiệu Liên kết bên ngoàiSửa đổi
Xem thêmSửa đổi
Chuyên mục: Địa lý Việt Nam Chuyên mục: Văn hóa Việt Nam Tham khảoSửa đổi
|