Thị trường công cụ vốn là gì

Các công cụ trên thị trường vốn là các công cụ nợ và công cụ vốn với thời gian đáo hạn [kỳ hạn thanh toán] trên một năm hay vô hạn. Khác với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các công cụ trên thị trường  vốn có mức độ biến động giá mạnh hơn và tính thanh khoản thấp hơn so với các các công cụ trên thị trường tiền tệ, do vậy các công cụ này có mức độ rủi  ro do lớn và lợi tức thường cao hơn.

CỔ PHIẾU

Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với  thu nhập ròng và tài sản của công ty cổ phần. Cổ phiếu có thể được chia làm hai loại:

•  Cổ phiếu thông thường [Cổ phiếu phổ thông]: là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, cổ tức biến động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận của  công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trên thị trường, không  chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác như: môi  trường kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác tuân theo quy luật cung  cầu. Cụ thể hơn nữa, thị giá cổ phiếu thông thường phụ thuộc vào tăng  trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều ngược lại với biến động lãi suất trái phiếu Chính phủ, các công cụ vay nợ dài hạn lãi suất cố định và lãi  suất huy động tiền gửi của ngân hàng.

•  Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của  công ty. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty.

Như vậy, việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được cổ  tức, mà quan trọng hơn chính là chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường [lãi vốn]. Khi cổ phiếu của công ty được nhiều người mua, chứng tỏ thị trường  tin tưởng vào hiện tại và khả năng phát triển của công ty trong tương lai và  ngược lại.

Một nhà đầu tưchứng khoán không chỉ xác định thời điểm và mức giá  mua bán một loại chứng khoán, mà còn phải biết trung hoà rủi ro bằng cách đa dạng hoá thông qua việc xây dựng được danh mục chứng khoán có các mức độ rủi ro khác nhau hoặc chu kỳ giao động lệch nhau.

VAY THẾ CHẤP

Vay thế chấp là những món tiền cho các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để mua nhà, đất, hoặc những công trình kiến trúc thực khác, trong đó các công trình kiến trúc và đất được dùng làm vật thế chấp cho món vay. Hình thức này chiếm một phần lớn trong nguồn tài trợ của các công ty, thậm chí còn chiếm một tỷ trọng lớn tại các nước phát triển.

Thị trường vay thế chấp là thị trường nợ lớn nhất ở Mỹ, với tổng số dư cảu các món nợ thế chấp nhà ở [dùng để mua nhà ở] gấp hơn 3 lần tổng số dư của các món vay thế chấp thương mại và thế chấp nông trại. Những công ty tiết kiệm và cho vay và những ngân hàng tiết kiệm tương trợ đã là những người cho vay hàng đầu trong thị trường cho vay thế chấp nhà ở, tuy rằng các ngân hàng thương mại cũng đã bắt đầu đi vào thị trường này một các mạnh mẽ hơn.

Đa số những món cho vay thế chấp thương mại và nông trại do các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm thực hiện. Chính phủ liên bang đã đóng góp vai trò tích cực trong thị trường vay thế chấp thông qua 3 cơ quan:

  • Fannie Mae [Federal National Mortgage Association – FNMA]: Hiệp hội Thế chấp Quốc gia của Liên bang
  • Ginnie Mae [Government National Mortgage Association – GNMA]: Hiệp hội Thế chấp Quốc gia của Chính phủ
  • Freddie Mac [Federal Home Loan Mortgage Corporation – FHLMC]: Tập đoàn Thế chấp cho vay mua nhà Liên bang.

Những tổ chức này cung cấp vốn cho thị trường vay thế chấp bằng cách bán trái khoán và dùng tiền thu được để mua những món thế chấp.

TRÁI PHIẾU CÔNG TY.

Trái phiếu là giấy chứng nhận việc vay vốn của một chủ thể [người phát  hành] đối với một chủ thể khác [người cho vay ư người sở hữu trái phiếu].  Trái phiếu quy định trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi của tổ chức phát hành cho người sở hữu trái phiếu khi đến thời điểm đáo hạn. Trái phiếu công ty là loại trái khoán dài hạn, do các công ty phát hành  với lãi suất khá cao, giúp công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một  thời gian ngắn.

Trái phiếu công ty điển hình mang lại cho người giữ nó một khoản thanh toán lãi 2 lần mỗi năm và thanh toán hết mệnh giá khi trái phiếu đến kỳ hạn thanh toán. Một số trái phiếu công ty được gọi là trái phiếu có khả năng chuyển đổi, có đặc điểm phụ thêm là cho phép người giữ nó chuyển đổi nó thành một số cổ phần vào bất cứ lúc nào cho tới lúc đến kỳ hạn thanh toán. Đặc điểm này khiến các trái phiếu chuyển đổi trở nên hấp dẫn hơn đối với những người mua tương lai hơn là những trái phiếu không có khả năng chuyển đổi, và cho phép công ty giảm tiền lãi thanh toán vì các trái phiếu này có thể tăng thêm giá trị nếu giá trị cổ phiếu tăng lên một cách đầy đủ. Do tổng số dư của cả trái phiếu chuyển đổi và không chuyển đổi đối với một công ty xác định nào đó là nhỏ, chúng gần như không lỏng bằng các chứng khoán khác, ví dụ các trái phiếu chính phủ Mỹ.

Tuy rằng tầm cỡ của thị trường trái phiếu công ty nhỏ hơn nhiều so với thị trường cổ phiếu với tổng số dư của trái phiếu công ty ít hơn 1/4 số dư cầu cổ phiếu, nhưng tổng giá trị của những trái phiếu mới được phát hành mỗi năm lớn hơn nhiều so với tổng giá trị các cổ phiếu mới được phát hành. Như vậy, diễn biến của thị trường trái phiếu công ty có thể quan trọng hơn nhiều đối với các quyết định về tài chính của một công ty so với diễn biến của thị trường cổ phiếu. Những người mua quan trọng đối với các trái phiếu công ty là các hãng bảo hiểm sinh mạng, các quỹ trợ cấp và các hộ gia đình những người cầm giữ tài sản lớn khác.

NHỮNG MÓN VAY THƯƠNG MẠI NGÂN HÀNG CẤP VÀ VAY TIÊU DÙNG.

Đây là những món vay dành cho người tiêu dùng và những công ty kinh doanh và chủ yếu do ngân hàng cho vay, những trường hợp các món vay của người tiêu dùng, cũng còn do những công ty tài chính vay. Thường không có thị trường cấp hai cho những món vay này và do vậy chúng là kém lỏng nhất trong các công cụ thị trường vốn liệt kê.

Các công cụ trên thị trường vốn là các công cụ nợ và công cụ vốn với  thời gian đáo hạn [kỳ hạn thanh toán] trên một năm hay vô hạn.  Khác với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các công cụ trên thị trường  vốn có mức độ biến động giá mạnh hơn và tính thanh khoản thấp hơn so với  các các công cụ trên thị trường tiền tệ, do vậy các công cụ này có mức độ rủi  ro do lớn và lợi tức thường cao hơn.

Cổ phiếu

Cổ phiếu là giấy chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với  thu nhập ròng và tài sản của công ty cổ phần.  Cổ phiếu có thể được chia làm hai loại:

 •  Cổ phiếu thông thường[cổ phiếu phổ thông] là loại cổ phiếu có thu  nhập không cố định, cổ tức biến động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận của  công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trên thị trường, không  chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác như: môi  trường kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác tuân theo quy luật cung  cầu. Cụ thể hơn nữa, thị giá cổ phiếu thông thường phụ thuộc vào tăng  trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều ngược lại với biến động lãi  suất trái phiếu chính phủ, các công cụ vay nợ dài hạn lãi suất cố định và lãi  suất huy động tiền gửi của ngân hàng.

 •  Cổ phiếu ưu đai:là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố  định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của  công ty. Tuy nhiên, thị giá của cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi  suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty.

Như vậy, việc đầu tưvào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được cổ  tức, mà quan trọng hơn chính là chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường [lãi  vốn]. Khi cổ phiếu của công ty được nhiều người mua, chứng tỏ thị trường  tin tưởng vào hiện tại và khả năng phát triển của công ty trong tương lai và  ngược lại.

Một nhà đầu tưchứng khoán không chỉ xác định thời điểm và mức giá  mua bán một loại chứng khoán, mà còn phải biết trung hoà rủi ro bằng cách  đa dạng hoá thông qua việc xây dựng được danh mục chứng khoán có các  mức độ rủi ro khác nhau hoặc chu kỳ giao động lệch nhau.

Các khoản tín dụng cầm cố

Là các khoản vay cho vay đối với các cá nhân hoặc các công ty kinh  doanh vay để đầu tưvà những công trình kiến trúc, nhà, đất đai và dùng  chính các tài sản này làm vật thế chấp cho các món vay. Hình thức này  chiếm một phần lớn trong nguồn tài trợ của các công ty, thậm chí còn chiếm  một tỷ trọng lớn tại các nước phát triển.

 Các khoản tín dụng thương mại

Là các khoản cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại  hoặc các công ty tài chính cho người tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. Thông thường, các khoản tín dụng này không được giao  dịch, mua bán trên thị trường thứ cấp do đó chúng có tính thanh khoản thấp.

Trái phiếu công ty  

Trái phiếu là giấy chứng nhận việc vay vốn của một chủ thể [người phát  hành] đối với một chủ thể khác [người cho vay ư người sở hữu trái phiếu].  Trái phiếu quy định trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi của tổ chức phát hành  cho người sở hữu trái phiếu khi đến thời điểm đáo hạn.  Trái phiếu công ty là loại trái khoán dài hạn, do các công ty phát hành  với lãi suất khá cao, giúp công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một  thời gian ngắn.

Ngoài ra, trái phiếu công ty còn có khả năng chuyển đổi và  một số loại có thể chuyển thành cổ phiếu. Do vậy, trái phiếu công ty là một  công cụ được lưu hành rộng rãi trên thị trường vốn.  Các loại chứng khoán chính phủ:Là các công cụ vay nợ do Chính  phủ phát hành như: Trái phiếu Chính phủ; Tín phiếu kho bạc; Công trái quốc  gia…


Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • cong cu thi truong von
  • công cụ của thị trường vốn
  • các loai công cụ đc mua bán trên thị trươg vốn
  • công cụ vốn cổ phần được giao dịch trên thị trường nào
  • ,

    Video liên quan

    Chủ Đề