Văn mẫu 12 PDF

Xem mẫu

  1. Tuyển tập các bài văn mẫu ''cực hay''.  Tác phẩm : Vợ nhặt Đề bài :Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng,   người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân). Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim ­ một nhà văn hiện thực có  thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ”  ấy.Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại  (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ  Nhặt ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá  mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào  cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ.  Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim  Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ. Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn  cùng và bi thảm.Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ  đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết  mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại.Họ vẫn muốn sống, sống  cho ra con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về tương lai của những  con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài  tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công  ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn đã tái  hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hải ,thê lương. Trong đó ngổn ngang  những kẻ sống người chết, những bón ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi  gắm trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những  tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số  phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng  đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện. Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh ** Tràng.  Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như  trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm  sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ  ích kỉ hơn là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim  Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh ** Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.  Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như  những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng  ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng  xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người  vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác vạm  vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình  cao đẹp. “Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong  khi anh không biết cuọc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng  1
  2. cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương  vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng  yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm  của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ  đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy khong hề mở cho ta thấy tình cảm của một con  người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên,  Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình  cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia  đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình.  Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người chồng  thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó “ôm ấp, mơn  man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”.Tình yêu , hạnh phúc ấy  khiến “trong một lúc Tràng dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả  những tháng ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp  logíc. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hâu, chất phác và giàu tình yêu  thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác  lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người  chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã  bừng bừng thèm múôn một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến  lạ lùng”, “hắn thấymình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn  dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự  chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn  ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đsoi và  lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ  thay đổi. Hắn tin thế. Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người . Đêm tố íây rồi sẽ qua đi để đón  chờ ánh sáng cuộc sống tự dong đang ở phía trước sức mạn của thời đại. Một lần nữa, Kim Lân  không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt làm thay đổi  cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nèn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối  của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lọn đến cô vợ hiền thục, đảm đang  là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương  yêu. Thị tuy theo khôgn Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào cảu  Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân  phong kếin đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên tủoi, không quê  quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”, điệu bộ trông thật thảm ahị nhưng chính con người  ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia  đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung  chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít song  đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh ** Tràng ngày  xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây  dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào  cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước  2
  3. vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc , vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng  và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng : tình cảm, ước vọng ở  cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ  bút pháp m iêu tả tâm lý nhân vật. BÀ cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu  đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tức vào trong tác  phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta tấhy rõ hơn ánh sáng cảu tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng  thế, các nhà văn múôn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế  căng thẳng. Ở đso dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật  mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. BÀ cụ Tứ là một điển hình.  Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức ngươờ mẹ nghèo vốn thương con ấy.  Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiệ cua rmột người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và  có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ,  hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm  vui nỗi buồn cứ hoà lâẫ vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô  con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp  bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động,  bà cụ đã nói , chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi , chúng máy đã phải  duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”. Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực  thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là một vật cản  lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương  con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia  cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang giang tay đón nhận đứa  con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt.  Chính ở ngươờ mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy  mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng  những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi  gà, rồi vịêc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm ahị. Bà  đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối  thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn * cổ và đắng chát ấy lại  là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui  vẻ giới thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm  gia đình ngày đói ở cúôi thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay  đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình  thường mà đáng quý. Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về  nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm  chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách  mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật :Tràng, vợ Tràng và bà  cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điếm áng mà Kim Lân từng  trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý nhân vật, khả năng dựng  truyện và dẫn truyện của Kim Lân ­ một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào  cũng có giá trị là vì lẽ đó. 3
  4. “Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức  mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp  Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài  nạn đsoi nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu  nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất. Đề bài :  Một trong những sáng tác nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt là đã xây   dựng đựơc tình huống truyện đặc sắc và hấp dẫn. Hãy phân tích truyện Vợ nhặt để chứng minh ý   kiến trên. BÀI LÀM Đọc Vợ nhặt của Kim Lân tôi lại nhớ đến “Một đám cưới nghèo” của Nam Cao với những bóng  đen lầm lũi đi trong màn sương chiều nhập nhoạng. Cái đói, cái nghèo ấy sao đầy kinh hoàng và  u ám đến thế. Chính cái đói, cái nghèo đó tạo nên cho Vợ nhặt một tình huống hết sức độc đáo  và hấp dẫn. Và vì thế, Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn vào loại hay nhất trong văn học Việt  Nam hiện đại Ngay từ tựa đề của tác phẩm cũng gợi lên sự chua xót, mai mỉa, một nỗi đau không thể nói thành  lời. “Nhặt vợ”, một hành động nghe sao đơn giản và dễ dàng đến như vậy? Điều đó hoàn toàn trái  ngược với quan niệm của dân gian: Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà Trong ba việc ấy thật là khó thay Vậy mà ở đây Tràng đã nhặt được vợ hẳn hoi, trong cơn đói khủng khiếp mà có lẽ “đến năm 2000  con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe để rùng mình” đang hoành hành. Cái lạ thường, kì dị  của hành động đã tạo nên một tình huống vô cùng độc đáo mang ý nghĩa chi phối toàn bộ tác  phẩm. Đã từ lâu, dân làng cái xóm ngụ cư này đã quá quen với hình ảnh vập vạp, thô kệch của Tràng  với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng nở trên môi, Tràng nghèo túng, xấu xí hơn cả những  con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm làng thì làm gì có thể lấy được vợ? Thế nhưng hôm nay, bên  cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn bà rón rén và e thẹn. Điều đó  gợi nên sự kinh ngạc cho cả xóm. Sự tò mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và  người đàn bà trên con đường xao xác, heo hút. Mọi người cứ xì xầm bàn tán “Ai đấy nhỉ ! Hay là  người nhà bà cụ Tứ mới lên?” “Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên  thăm đâu?” thỉnh thoảng lại “rung rúc” vang lên tiếng cười đầy ghê rợn như tiếng cú báo hiệu tai  ương và chết chóc vọng mãi theo đôi uyên ương về cuối xóm. Mặc cho những lời bàn tán, Tràng  vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo sù sì có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng  ma thay cho khách” và tiếng quạ gào lên thê thiết từng hồi thay cho pháo cưới. Câu chuyện chìm  trong nặng nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Cái đói đã luồn những làn gió chết  chóc mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau qua được cái thời này  không” Tình huống Tràng có vợ gây ra ấn tượng rất mạnh. Cả xóm ngạc nhiên đã đành, mà ngay cả bà  cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người  đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng  con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn  4
  5. mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra. Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn “ngỡ ngàng”. “Ngồi ngay  giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?”. Mọi  chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở  thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị...Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng  một câu nói suông. Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau. Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay lo,  buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của những nhân vật trong câu chuyện chứa đầy  những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng  lại tủi vì sự trớ trên của số phận : có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình?  Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai của con mình, “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi  sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ tận đáy lòng của bà mẹ “chất chứa nỗi  hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác  mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một  người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm làm lễ gia tiên. Trong lời  nghẹn ngoài tâm sự của bà có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn  phận của một người mẹ đối với con. Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục từ khi thị quyết định theo hắn về nhà. Tình huống nhặt  vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý làm bạn  với hắn. Thị theo hắn dường như để giải quyết nhu cầu ăn. Những chuyện tưởng như rất thô lậu  và trơ trẽn nhưng dưới ngọi bút tài tình của Kim Lân, nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp ló tình  thương. Tràng hoàn toàn mờ mịt về tương lai của mình “thóc gạo này đến thân mình còn chả biết  có nuôi nổi không lại còn đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra tay cưu mang người đàn bà nghèo khổ. Đói  kém đã đẩy đưa người phụ nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm hạnh phúc của một người có  được mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương lai dung dị nhưng đầy cảm động. Chính vì thế,  hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc mà mình vừa có được. Lòng hắn chợt loé  lên một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân hận , tiếc rẻ, vẩn vơ, khó hiểu. Không cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm Vợ nhặt mang đến  một giá trị nhân bản vô cùng to lớn. Bằng tình huống đầy bi hài, nó xoáy vào tố cáo chế độ thực  dân phát xít, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái đói kinh hoàng. Cái đói mang đến sự chết chóc,  tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó làm những giá trị con người bị hạ xuống mức thấp  nhất. Con người dường như mất hẳn tính người, chỉ còn sống theo bản năng để được ăn, được  sống...Cơn đói khát làm cho ngừoi đàn bà quên cả sĩ diện, được mời ăn “hai con mắt trũng hoáy  của thị sáng lên” tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc  liền chẳng chuyện trò gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải quay  mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no của Nam Cao. Con  người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói lởn vởn trong tâm trí. Giận thị nhưng ta vẫn xót  xa trước dáng hình tiều tụy của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp đi,  trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói, với bóng đen kinh hoàng  của nó bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng lên cuộc sống bình thường của mỗi con người. Còn gì thê  thảm bằng đám “rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hôn có tiếng ai hờ khóc tỉ  tê “có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Thân phận bọt  bèo của những con người như Tràng, những cám cảnh bần cùng ấy tự thân nó đã có sức tố cáo  5
  6. mạnh mẽ cái tội ác của thực dân phát xít.... Thế nhưng, chính trong cái cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân hậu lại sáng ngời lên mà tiêu  biểu trong tác phẩm là bà cụ Tứ. Trong lòng người mẹ nghèo ấy lúc nào cũng mang sẵn tình  thương con vô bờ bến “vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp của đứa con mình”. Trong cái nhìn đăm  đăm vào người đàn bà đang “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” có sự xót thương, thông  cảm sẻ chia. Tình thương con dù bao la đến mấy cũng có thể chỉ làm bà “rủ xuống hai dòng nước  mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó không đủ để chảy thành  dòng “rủ” xuống như chết non một cách tức tưởi. Không còn nước mắt nhưng bà vẫn nhận lấy  nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa. Bằng ngòi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận cùng màn đêm tối  tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló đâu đó khiến chúng ta hướng về và  vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những bà mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn  khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi sáng hơn. “Bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng  sau này”. Trong tâm trí bà đã có sẵn một viễn cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng  nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui lây  niềm vui của gia đình hoà thuận, đầm ấm, niềm vui của Tràng được thấy xung quanh mình hôm  nay có gì vừa thay đổi mới mẻ, khác thường. Niềm vui bất chợt của gia đình làm ta cười sung  sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta múôn tha thứ tất cả, kể cả sự trơ tráo  của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh Tràng. Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý nghĩ của tình huống  lại mang một giá trị nhân bản,tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn. Chính vì thế, tác phẩm  mang đầy tình yêu thương nồng ấm như một ngọn lửa nhỏ lấp loé mãi trong cuộc đời. Và tác  phẩm đã cho ta phát hiện thêm một bản chất tuyệt vời nhân hậu., tuyệt vời đức hi sinh của những  người nông dân Việt Nam. Dù đứng trước sự mất còn của mạng sống ( hiểu theo nghĩa đen trần  trụi nhất) vẫn cưu mạng, vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để sống với hi vọng, với tương lai. Lá  cờ đỏ sao vàng của Việt Minh dẫn đoàn người đói khát đi phá kho thóc của Nhật đâu chỉ là mộng  tưởng. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa nhân đạo sẽ làm sáng lên những con  người bình dị nhưng có phẩm chất nhân đạo như cụ Tứ, như Tràng và cô “vợ nhặt” tội  nghiệp....Họ sẽ viết tiếp truyện thống về phẩm giá con người Việt Nam trong tương lai tác phẩm : Vợ chồng APHỦ 1) Hình tượng nhân vật Mị­ Về đoạn văn mở đầu, giới thiệu nhân vật Mị:  Ngay từ những dòng đâu tiên, người đọc đã buộc phải chú ý tới hình ảnh người con gái "ngồi quay  sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa" và "Lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa,  dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt,mặt buồn rười rượi"  Cách vào truyện gây ấn tượng nhờ tác giả đã tạo ra những đối nghịch: + Một cô gái lẻ loi, âm thầm gần như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá tầu ngựa trong  khung cảnh đông đúc, tấp nập của gia đình thống lí Pá Tra. + Cô gái ấy là con dâu của một gia đình quyền thế, giàu có "nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc  phiện nhất làng" nhưng sao lúc nào cũng "cúi mặt" nhẫn nhục và "mặt buồn rười rượi"  Đây là thủ pháp nhằm tạo tình huống: có vấn đề trong lối kể chuyện truyền thống giúp tác giả mở  6
  7. lối dẫn người đọc cùng tham gia hành trình tìm hiểu những bí ấn của số phận nhân vật.  ­ Phần tiếp theo của đoạn trích kể về số phận éo le và những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật Mị.  Chú ý vào hai nét chính: Cô Mị với cuộc đời cực nhục, khổ đau và cô Mi với sức sống tiềm tàng  dẫn tới sứ Phản kháng mãnh liệt, táo bạo. + Vì món nợ truyền kiếp khiến Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Khái niệm  con dâu gạt nợ : Con dâu gạt nợ thì bề ngoài là con dâu nhưng thực chất bên trong là con nợ.  Điều cực nhục và khổ đau của số phận nhân vật mà đó là: một con nợ thông thường dù khốn khổ  vẫn còn hi vọng một ngày nào đó thoát khỏi thân phận con nợ khi đã thanh toán đầy đủ cho chủ  nợ. Phương thức thanh toán có thể bằng tiền, bằng vật chất, bằng số ngày công làm việc cho chủ  nợ.., Oái ăm chỗ, Mị là con nợ nhưng Mị cũng lại là con dâu. Là con dâu, linh hồn Mị đã bị đem  trình ma nhà thống lí rồi, Mị không thể chạy đâu cho thoát! Mị sẽ phải kéo lê cái thân phận khốn  khổ của mình cho đến bao giờ? cho đến tàn đời! Thực ra, cái nguy cơ bị biến thành một thứ con nợ chung thân Mị đã linh cảm từ trước. Cô đã nghĩ  cách cứu mình (thực chất là cứu tình yêu của mình) và trả món nợ của gia đình bằng cách đề  nghị cha để cô "đi làm nương"; cô đã van xin cha: "đừng bán con cho nhà giàu". Nhưng sự thông  minh của một cô gái mới lớn không thắng được hoàn cảnh và mưu chước thâm độc của cha con  thống lí. Mị bị tròng hai thứ dây trói là làm con nợ (bắt buộc) và làm con dâu (ép buộc) vì cha con  thống lí Pá Tra đã muốn như thế. Phải sống với kẻ mà mình không yêu là nỗi khổ và nỗi đau của Mị. Có đến mấy tháng trời, đêm  nào Mị cũng khóc. Rồi không thể chịu đựng hơn được nữa, Mị tính chuyện ăn là ngón để tìm sự  giải thoát: Người con gái hiếu thảo ấy, trước khi chết về lạy cha mà cũng để xin cha cho mình  được chết. Mấy lời thống thiết của người cha già chịu nhiều khổ não trong đời đã khiến Mị không  thể nghĩ cho nỗi buồn của riêng bản thân Mị. Cô quay trớ lại nhà thống lí. Từ đấy, Mị chấp nhận cảnh ngộ sống "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Âm thầm như một  cái bóng là cách sống mà Mị lựa chọn, cho dù, đó là một sự lựa chọn chống lại bản tính yêu đời  của cô gái một thời xinh đẹp và tài hoa. Tác giả cắt nghĩa: "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi"  để minh giải tình trạng bị đày đoạ đến mức bị tê liệt về tinh thần và dẫn tời tiếng thở dài buông  xuôi phó mặc cho hoàn cảnh của nhân vật: "Bây giờ thì Mì tưởng mình cũng là con trâu, mình  cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa  chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi".  Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà nhân vật phải chấp nhận và chịu  đựng.  Nhưng sự ê chề của kiếp sống chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu nỗi khổ đau về tinh thần triền  miên. Căn buồng của người phụ nữ Mông thông thường là nơi họ được hướng chút hạnh phúc ít ỏi  của thân phận làm người, từ làm con, đến làm dâu rồi làng mẹ. Căn buồng của Mị ở nhà thống lí  chỉ là một thứ ngục thất giam cầm một tù nhân: "Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa  sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương  hay là nắng". Người con gái làm dâu gạt nợ ấy bị đày đoạ bởi lao động khổ sai ở nhà thống lí, lẽ cố nhiên là rất  cực nhục, nhưng một sự câu lưu vĩnh viễn về tinh thần mới thực sự đáng sợ. Nó sẽ! làm cho cô  sống mà như đã chết hay nói chính xác hơn là nó buộc cô phải chấp nhận tồn tại với trạng thái  gần như đã chết trong lúc đang sống. Cô có thể thoắt ra khỏi tình thế tuyệt vọng ấy không, khi cô  đã mất tri giác về cuộc sống? 7
  8. +Vẻ đẹp trong tính cách nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng dẫn tới sức phản kháng mãnh liệt,  táo bạo: mùa đông năm ấy gió và rét dữ đội nhưng mùa xuân vẫn cứ đến, và con người, dù khổ  nghèo cơ cực đến mấy vẫn lại theo quy luật của tự nhiên mà rủ nhau đi chơi trong niềm vui sống  có phần hoang dã và tự do của người Mông. Hãy thử phân tích phần ca từ của tiếng sáo: Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta chưa có con trai con gái Ta đi tìm người yêu. Ngôn từ giản dị, mộc mạc vậy mà hàm chứa cái lẽ sống phóng khoáng, tự do của con người. Lẽ  phải đơn sơ ấy, qua tiếng sáo, đã vọng vào tâm hồn cô gái có một thời từng thổi sáo rất hay. ­ diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đềm uống rượn đón xuân về, khi nghe tiếng sáo gọi bạn, khi  niềm khao khát sống trở lại, khi bị A Sử trói đứng, khi chứng kiến tình cảnh của A Phủ cho tới khi  cầm đao cắt đây trói cứu người bạn cùng cảnh ngộ và quyết định bỏ trốn khỏi Hồng Ngài... Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách của người  con gái ấy. Tuy nhiên, cần chú ý việc nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác  động vào nhân vật, được miêu tả rất tự nhiên như: khung cành mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình,  bữa rượu cúng ma đón năm mới... Tất cả đã hoá thành những lực tác động âm thầm đánh thức  nỗi căm ghét bất công và tàn bạo cùng ý thức phản kháng lại cường quyền, đánh thức cả niềm  khao khát một cuộc sống tự do, hoang dã và hồn nhiên vẫn được bảo lưu đâu đó tróng dòng máu  truyền lại từ lối sống của tổ tiên du mục xa xưa, làm sống dậy cái sức sống ẩn tàng trong cơ thể  trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị.  ­ Hành động của nhân vật Mị xuất phát từ những thôi thúc của nội tâm : + Mị lén lấy hũ rượn, cứ uống ực từng bát trong một trạng thái thật khác thường. Rượu làm cơ thể  và đầu óc Mị say, nhưng tâm hồn cô thì từ phút ấy, đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín, mụ mị  vì sự dày đoạ. Cái cách uống ừng ực như thế, khiến người ta nghĩ: như thể cô đang uống đắng  cay của cái phần đời đã qua, như thể cô đang uống cái khao khát của phần đời chưa tới. + Lòng Mị đã phơi phới trở lại và cái ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực "Nếu có nắm lá ngón trong  tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buôn nhớ lại nữa". Nghịch lí trên cho thấy: khi  niềm khao khát sống hồi sinh, tự nó bỗng trở thành một mãnh lực không ngờ, xung dột gay gắt,  quyết một mất một còn với cái trạng thái vô nghĩa lí của thực tại. Sở trường phân tích tâm lí cho  phép ngòi bút tác giả lách sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét  riêng của tính cách.  + Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho căn buồng sáng lên, Mị mặc áo váy mới để chuẩn bị đi chơi Mị  với những kí ức tươi dẹp thời thanh xuân quên cả cảnh mãnh đang bị trói,...  + Mị vẫn ra ngồi sưởi lửa bên cạnh A Phủ, bất chấp việc bị A Sử đạp ngã xuống đất.  + Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hỏng Ngài  Tất cả những sự phân tích, lí giải về bình diện thứ hai trong tính cách nhân vật cần giúp HS  hướng tới một nhận định: Khi sức sống tiềm tàng trong tâm hồn nhân vật được hồi sinh, nó sẽ là  ngọn lửa không thể dập tắt. Nó tất yếu chuyển hoá thành hành động phản kháng táo bạo ở những  nạn nhân của giai cấp thống trị, chính họ sẽ đứng lên chống lại cường quyền áp bức, chống lai  mọi sự chà đạp, lăng nhục, vật hoá con người (déshumaniser) để cứu lấy cuộc đời mình. 8
  9. 2) Hình tượng nhân vật A Phủ Nhân vật A Phủ cũng là một đóng góp mới của tác giả về phương  diện xây dựng nhân vật. ­ A Phủ với số phận đặc biệt: Chú bé A Phủ từ tuổi thơ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người  thân thích trên đời vì cả làng A Phủ không mấy ai qua được trận dịch. A Phủ sống sót không phải  nhờ sự ngẫu nhiên mà vì chú là một mầm sống khoẻ, đã vượt qua được sự sàng lọc nghiệt ngã  của tự nhiên. Bời thế, không ngạc nhiên khi có người bắt A Phù đem xuống bán đổi lấy thóc của  người Thái. Tuy mới mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không thích ở dưới cánh đồng thấp, trốn  thoát lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành chàng trai Mông khoẻ  mạnh chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo.  Con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con  trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu". Người ta ao ước đùa thế thôi, chứ A Phủ vẫn rất  nghèo. A Phủ không có cha, không có mẹ, không có ruộng, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm  mướn, phép làng và tục lệ cười xin ngặt đến nỗi A Phủ không thể nào lấy nổi vợ. ­ A Phủ với cá tính đặc biệt: Cá tính gan góc của A Phủ vốn đã bộc lộ từ năm lên mười, cá tính ấy  lại được chính cuộc sống hoang dã của núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê nhiều cực nhọc,  vất vả hun đúc để A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo.  Trận đòn mà Phủ đành cho A Sử được miêu tả thật sống động: "­ Lũ phá đám ta đềm qua đây rồi. ­ A Phủ đâu ?A Phủ đánh chết nó đi! Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng  nào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹo dập đầu xuống, xé  vai áo, đánh tới tấp" Một đoạn văn ngắn với hàng loạt các động từ cùng lối miêu tả các động tác nhanh, gấp: chạy vụt  ra, ném, lăng, xộc tới, nắm cái uổng cổ, kéo dập đầu xuống, xé lai áo, đánh tới tấp... cho thấy sức  mạnh và tính cách con người A Phủ qua hành động.  Ở vùng núi cao, bọn chúa đất như thống lí Pá Tra là một thứ trời con, con trai thống lí là con trời,  không ai dám đụng tới. Nhưng A Phủ không sợ. Với A Phủ, A Sử chỉ là đứa phá đám cuộc chơi,  cần phải đánh. Thế thôi.  A Phủ đã phải trả một cái giá rất đắt cho hành động táo tợn ấy. Nhưng là người đơn giản, A Phủ  không quan tâm. Khi đã phải sống thân phạn của kẻ làm công trừ nợ, A Phủ vẫn là một chàng trai  của tự do, dù phải quanh năm một thân một mình "đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót,  bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa..." nhưng cũng là quanh năm A Phủ "bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài  rừng" làm phăng phăng mọi thứ, không khác với những năm tháng trước kia. Khi rừng đôi, vì mải  bẫy nhím, để hổ bắt mất bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn đó về. A Phủ nói chuyện đi  "lấy con hổ về" một cách thản nhiên và coi đó là một chuyện rất dễ dàng. A Phủ cãi lại thống lí  cũng rất điềm nhiên: A Phủ không biết sợ các uy của bất cứ ai. Con hổ hay thống lí Pá Tra cũng  thế thôi. Kể cả khi lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây, rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết  thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm các việc ấy một cạch thản nhiên, không nói. Là  người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết...  Có thể nói, nhân vật A Phủ đã được khắc hoạ thành công. Sở trường quan sát nhạy bén và khả  9
  10. năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố đã giúp nhà văn, chỉ với mấy  nét đơn sơ mà tạo dựng được một hình tượng đặc sắc. Đề bài :Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ   ________________________________________ Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều  tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô  Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống,  cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm  hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình  cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A  Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là  biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy  thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị  trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm  bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Đó là nét tâm lý của một con người cam  chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy  là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải  ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy  quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ.  Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ  không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định  ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi".  Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và  mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.  Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong  muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa  xuân.  Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau,  cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm  thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được  về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị  vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm  hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý  nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như  một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái  tim mình. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô  Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống  10
  11. tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh  ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo  của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng  Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp  lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá  rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi".  Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc  làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến.  Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của  người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy  đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng  vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt  của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã  làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh  ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi  xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ,  mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng  khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà  này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ  trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say  sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ  không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến  những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình: “Ta  là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây  thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết  đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất  nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để  mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người  chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng  của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống,  tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng  nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không  đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của  Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà  ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận  của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng…  Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A  Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị  trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm  một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng  chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang  11
  12. trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ  chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ.  Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn  lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A  Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây  thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa  đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân ­ hệ quả của  việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy  xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài ­ một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít,  còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến  Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến… Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng.  Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với  việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp  đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã  rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một  trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại  trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài  cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để  chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta  hiểu được nhiều điều trong cuộc sống. Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô  Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc  dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ]. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với  giải nhất truyện ngắn ­ giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 ­ 1955. Và “Vợ  chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá  trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho  phong cách Tô Hoài. Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người  phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ  hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn  bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”. __________________ Đề bài :Mùa xuân ở thiên nhiên và trong lòng Mị Hình tượng 2 bức tranh mùa xuân trong truyện vợ chồng A Phủ  Là một cây bút văn xuôi đương đại khá thành công, Tố Hữu là nhà văn có một lượng tác phẩm  khá đồ sộ và phong phú trong các nhà văn hiện đại. Với một khả năng phân tích diễn biến tâm  trạng nhân vật một cách tài hoa, khéo léo, độc đáo, Tố Hữu đã đem lại cho văn học Việt Nam  những nhân vật truyện ngắn đa sắc, đa hình. Trong đó, ta không thể kể đến hình tượng một cô  12
  13. gái người Mèo là Mị trong “Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài với hình ảnh hai hình ảnh mùa xuân  đặc sắc.  Tô Hoài (1920) là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào với trên 160 đầu sách qua hơn 60 năm  cầm bút với rất nhiều thể loại khác nhau. Truyện “Vợ Chồng A Phủ” là một truyện ngắn đặc sắc  được trích từ tập Truyện Tây Bắc cùng với 2 truyện ngắn khác là Cứu đất cứu Mường và Chuyện  Mường giơn. Đó là một câu chuyện kể về cuộc đời gian lao, khổ cực của 2 con người lao động  miền núi A Phủ và Mị qua 2 quãng đời – tương ứng với 2 phần truyện ­ ở Hồng Ngài và ở Phiềng  Sa.  Mị là một cô con dâu gạt nợ sống ở nhà thống lí Pá Tra để trả món nợ truyền đời – truyền kiếp là  20 đồng bạc trắng mà bố mẹ Mị vay bố Pá Tra để đến với nhau. Quãng đời của MỊ ở Hồng Ngài  thật sự là một chuỗi ngày đen tối nhất của một người đàn bà ở giữa chốn đia ngục trần gian. Tuy  là mang tiếng con dâu của vua xứ Mèo mà lại phải làm việc quần quật, thời gian sống lại tính  bằng những công việc liên tiếp “mùa nào việc nấ”. Cố thật sự đã bị cướp đoạt quyền sống, quyền  được hạnh phúc. Lẽ nhiên, khi bị dồn vào đường cùng, con người tất yếu sẽ tìm đến cái chết.  Nhưng vì là một cô con gái có hiếu, Mị đã ném đi nắm lá ngón, cùng với ý định tự tử để trả món  nợ hạnh phúc cho cha mẹ. Chính vì thế “sống lâu trong cái khổ, quen với cái khổ, Mị nghĩ mình là  thân trâu thân ngựa”. Mị đã tự giam lỏng cả thể xác, tinh thần của mình vào cái chốn địa ngục  trần gian với cái phòng tối chỉ có một ô cửa số mà lúc nào nhìn ra cũng “mờ mờ trăng trắng”  không rõ là ngày hay là đêm. Và sự chịu đựng nhẫn nhục ấy đã dẫn Mị rơi vào bi kịch đánh mất  sức sống bản năng hay là “tê liệt tinh thần phản kháng”.  Tưởng đâu đấy sẽ là một dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn bà Mèo ấy, nhưng đằng sau  cái đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp thoáng đâu đó những tia lửa nhỏ của khát vọng sống.  Và chỉ cần một cơn gió tác động, nó sẽ bừng lên thành lửa ngọn – ngọn lửa của sự khát khao  mãnh liệt được sống – chứ không chấp nhận tồn tại với thân phận nô lệ như vậy. Và cũng vì thế,  người ta khó có thể nào quên cái mùa xuân muộn năm ấy ở Hồng Ngài. Khi những dấu hiệu của  Tết đang đến gần: ngọn khói, tấm váy hoa xòe được đem phơi, lũ trẽ ầm ĩ chơi quay trong sân,  tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng đến trước ngõ mỗi nhà… thì tất cả mọi người dân đã sẵn sàng  cho một cái Tết thật sôi nổi, đầm ấm.  Cái không khí mùa xuân sặc sỡ đa thanh đa sắc ấy đã phần nào tác động đến tâm hồn giá lạnh  nơi Mị. Cùng với men rượu ngà ngà của buổi cúng ma của nhà Thống Lý, Mị như lịm đi bên mâm  rượu thầm nhớ về ngày xưa – cái ngày Mị còn nghe văng vẳng tiếng sáo gọi bạn tình, ngày mà Mị  còn được tự do với tình yêu của mình. Càng nghĩ về ngày xưa, Mị lại càng thấm thía được nỗi đau  thân phận nô lệ nhục nhã, tủi hổ như đang len lỏi vào từng suy nghĩ của mình. Càng nghĩ, càng  tủi, Mị lại muốn tìm một sự giải thoát nơi chén rượu ấy với từng bát “ực” như một sự phản kháng  của riêng mình. Và như nhận thức được bản thân, Mị lại tìm đến căn buồng tối ấy – như một sự  tìm kiếm đến một không gian riêng. Mị nhận ra cái cuộc hôn nhân không tình yêu đó đã đày đọa  đời Mị biết bao lâu. Cái cảm giác muốn được chết đã quay lại nơi Mị cùng với sự thấp thoáng của  tiếng sao văng vẳng đâu đây: “Anh ném pao, em không bắt – Em không yêu, quả pao rơi rồi”.  Ngày xưa, Mị cũng là một cô gái trẻ, tràn đầy sức sống, cũng là con người tài hoa với việc thổi kèn  lá, kèn môi rất giỏi. Vì thế, ta không ngạc nhiên gì khi tiếng sáo văng vẳng nơi xa kia, cùng với hơi  rượu nồng nàn đã khơi dậy nơi Mị những bổi hổi, bồi hồi về những ngày trước kia. Mị cảm thấy  phơi phới, cảm thấy mình còn trẻ lắm, còn rất trẻ và muốn đi chơi,cũng muốn hòa nhập bản thân  mình vào lễ hội tưng bừng ấy. Nghĩ là làm, Mị đến góc nhà, “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm  13
  14. vào đĩa đèn cho sáng”. Hành động nhỏ ấy nhưng đã cho ta thấy được biết bao nhiêu điều: Mị đã  dần nhận thức được không gian mình đang sống, đang cần một chút ánh sáng – dù chỉ heo hắt –  để soi sáng con đường, soi sáng cả cuộc sống tối tăm mù mịt của mình nơi địa ngục trần gian ấy.  Ngay sau đó là những hành động liên tiếp nhau: “mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cáo váy hoa vắt ở  trong vách”. Mị làm tất cả một cách nhanh chóng, không mở một lời như một sự quyết liệt, bình  thản, khi mà trong đầu cô chỉ còn “rập rờn tiếng sao”. Bây giờ, Mị chỉ còn biết đi theo một con  đường­ nơi có tiếng gọi của sự sống, của tình yêu đang vẫy gọi ngoài kia.  Vậy mà ý định giải thoát ấy đã không thành khi có sự xuất hiện của A Sử. Nó biết rằng Mị muốn  đi chơi khi phát hiện ra những hành động ấy. Với một bản tính ác độc, độc đoán, vô tình, vô  nghĩa, nó đã thẳng tay trói cô lại, lại còn quấn mái tóc lên cái cột làm MỊ không cúi, không  nghiêng được nữa. Thế nhưng, nó đâu biết rằng, nó chỉ có thể trói được thể xác của người đàn bà  kia mà không hề biết rằng Mị vẫn đang mơ màng, hướng tới cái sự sống ngoài kia: Mị như không  biết mình đang bị trói, vẫn đưa mình theo tiếng sáo, theo những cuộc chơi, đám chơi. Và cứ như  thế ­ một mình – trói buộc nơi cái cột đó với hơi rượu tỏa – tiếng sáo – tiếng chó sủa xa xa…  Thành công của Tố Hữu chính là việc khắc họa nội tâm nhân vật của yếu bằng tâm trạng. Chỉ  bằng một sự khai thác tinh tế nơi sự thay đổi cảnh sắc mùa xuân đất trời, mùa xuân nơi bản làng,  người đọc như thấy được nó đã tác động như thế nào đến tâm hồn nguội lạnh của người đàn bà  kia. Cả trong đêm ấy, hành động của Mị được tác giả miêu tả rất ít, ngắn gọn, những nó đã thật  sự gây hứng thú cho người đọc khi dõi theo từng cử chỉ, từng kí ức, từng việc làm của Mị trong  đêm mùa xuân ấy. Có thể nói, Tô Hoài đã đặt cả tấm lòng của mình vào nơi Mị mới có thể gây  cho người đọc một sự đồng cảm sâu sắc đến vậy.  Với sự trỗi dậy – dù chỉ trong khoảnh khắc – của khát khao sống, ta nhận ra rằng cô Mị “lùi lũi  như con rùa nuôi nơi xó cửa”, đã không còn nữa; mà thay vào đó là một cô gái luôn âm ỉ trong  mình một ngọn lửa được sống – chứ không phải tồn tại như một cái xác không hồn như trước kia.  Qua đó, ta cũng thấy được giá trị hiện thực được tác giả tô đậm như một bản tố khổ về một hình  ảnh chốn địa ngục trần gian đã đày đọa một người con gái đang tuổi thanh xuân vào thân phận  nô lệ chờ ngày chết. Hay đó cũng là một sự khám phá và khẳng định về sức sống mãnh liệt của  người dân miền núi hết sức quyết liệt và mạnh mẽ để tìm ra cho mình một con đường sống. Và dù  cái ý định giải thoát ấy có bị dập tắt đi chăng nữa, thì nó chăng đã trở thành một ngọn sóng ngầm  luôn thường trực trong tâm hồn người đàn bà ấy, sẵn sàng tuôn trào ra, mãnh liệt hơn lúc nào hết! __________________ Phân tích: Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Trong số các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm là người rất thành công với giọng thơ  trữ tình chính luận thể hiện rõ những tâm tư của thế hệ trẻ đô thị miền Nam. Trường ca “Mặt  đường khát vọng” (1971) là tiếng vọng tâm tình của một hồn thơ hòa cùng mach cảm xúc của dân  ̣ tộc đứng trước dòng thác lũ thời đại, trong đó chương V “Đất nước” đã gói ghém trọn vẹn tâm tình  của thế hệ chống Mỹ: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi 14
  15. Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…” Giọng thơ thủ thỉ đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân ­ Đất Nước, tiếp nối mạch  suy tưởng của thi ca giai đoạn trước. Đất Nước là một chủ đề xuyên suốt bao trùm lên các tác phẩm trong giai đoạn kháng chiến chống  Mỹ cứu nước. Các nhà thơ nhà văn bằng tình cảm công dân đã có nhiều phát hiện mới mẻ độc  đáo về Tổ quốc, nhân dân. Tổ quốc thường được soi chiếu từ bình diện lịch sử chống ngoại xâm,  được khái quát bằng những hình tượng kỳ vĩ, khai thác triệt để chất sử thi hoành tráng. Trong  dòng chủ lưu ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lựa cách thể hiện riêng của mình, bằng trải nghiệm  tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã  hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận ­ trữ tình.  Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức  tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất  của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca,  huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện  của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi: Tóc mẹ thì búi sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng Đất Nước có từ ngày đó… Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá truyền thống, mang theo hơi  thở tâm tình của ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” thấm thía tình nghĩa thủy  chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục với quá trình trưởng thành của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến  trường đến khoảnh khắc rung động đầu đời. Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao  ngọt ngào kỷ niệm: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm 15
  16. Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm... Đan xen với khoảnh khắc thời gian không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ký ức cộng đồng, với sự  tổng hoà những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Vẻ đẹp quê hương đất  nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về Cha  Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt : Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng... Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt, là nguồn sức mạnh  và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc đã được nhà thơ lý giải qua những hình tượng thơ giàu tính  thẩm mỹ và hàm chứa mối quan hệ Đất Nước – con người Nhân Dân không thể tách rời. Thời gian  lịch sử, không gian văn hoá hoà quyện trong mạch thơ đầy ân tình đã phác hoạ rõ nét dần tượng  đài Đất Nước. Không chỉ tiếp cận hình tượng trong huyền sử, trong hiện thực đời sống, trong mối  quan hệ cá nhân ­ cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực  tiếp của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống  Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm : Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Ý thơ thật giản dị, không hề gượng ép tình cảm, khi từ mối quan hệ riêng tư để hướng về với quan  hệ cộng đồng, dân tộc. Tứ thơ độc đáo chính là từ sự mở rộng từ thế giới của “anh và em hôm  16
  17. nay” đến với “mọi người”. Vẻ đẹp Đất Nước được phát hiện thêm với những vẻ đẹp “hài hoà nồng  thắm” và “vẹn tròn to lớn”. Đó cũng là sự kết hợp hài hoà của lý trí và tình cảm con người thời đại  chống Mỹ. Hơn thế nữa, những câu thơ này còn cắt nghĩa cho vẻ đẹp tình yêu của thế hệ trẻ  chống Mỹ không hề mất đi vẻ lãng mạn, khi khoảnh khắc cầm tay hiện tại đã nghĩ về thế hệ  tương lai, về một ngày thanh bình và sự phát triển của Đất Nước với “tháng ngày mơ mộng”.  Không dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ Đất Nước với tâm hồn của từng con  người. giọng thơ tâm tình thấm thía: Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời. Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một người lăn lộn  trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để  phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi  mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của  những con người sẵn sàng dâng bầu máu của tuổi thanh xuân, biết sống có trách nhiệm với thời  đại và đầy khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước. Phần mở đầu của chương Đất Nước được cấu tứ trên cơ sở gắn bó giữa các vẻ đẹp riêng biệt, độc  đáo và giàu sức biểu cảm để làm nên vẻ đẹp chung tổng hoà thành hình tượng Đất Nước kỳ vĩ và  giàu sức thuyết phục với bạn đọc. Nhà thơ đã trữ tình hoá vấn đề mang tính chính luận, nhằm trả  lời những câu hỏi lớn mà dân tộc đang phải tìm lời đáp trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng độc lập tự  do, cuộc chiến đấu của lương tri chống lại thế lực bạo tàn. Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục toả sáng, giúp  thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của  dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần khơi dậy lòng tự hào và ý  thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người trong khát vọng đưaĐất Nướcđi xa đến những  tháng ngày mơ mộng. phân tích nhân vật T'nú để làm rõ hình tượng người anh hùng cách mạng  phân tích nhân vật T'nú để làm rõ hình tượng người anh hùng cách mạng __Cuộc sống thành một vòng luân hôì với thói quen được lặp đi lặp lại, và với cánh rừng xà nu  này, tiếng đaị bác, mảnh đạn văng, khói thuốc súng sọc vào mũi, những tiếng kêu thé trong đau  đớn, những tiếng gầm trong oán hận hay sự im lặng sau tất cả, giờ đã trở nên quen thuộc. Con  người rôì sẽ dần thích nghi, mà lẹ hơn đó là thiên nhiên. Rừng xà nu thay da đổi thịt nhanh hơn  bao giờ hết, không phải vì chu kì thiên nhiên thay đổi mà là kia, tiếng máy bay gầm rú, những  17
  18. nòng pháo đỏ hỏn ngun ngút khói; đó mới chính là nguyên nhân cho sắc xanh mới mỗi ngày của  khu rừng này. Và quyện lấy nhau, con người hòa cuộc đời mình vào những mảng xanh đó, dân  làng Xô man đã ở đây, nhúng máu thịt mình vào đất đen mun của rừng. __T'nú xa làng đã lâu. Hãy nói lâu theo nghĩa của tinh thần, hãy nói lâu theo tình cảm của đứa  con xa vòng tay cha mẹ, hãy nói lâu theo nổi đau chia lìa mãi của lứa đôi và hãy nói lâu theo  thang bậc đau đớn nhất của người sống với một nửa cuộc đời bị tàn phá. Thời gian trôi, con người  vốn mượn nó để phũ lên quá khứ, che đâỵ khi quá khứ bi thương, hay tăng thêm phần phấn khích  cho quá khứ oai hùng, thì ở đây nơi T'nu, ta gặp lại tất cả. __Rôì cách mạng tìm đến anh, hay anh tìm đến cách mạng ? Cánh tay câù cứu vùng vâỹ ra hay  cánh tay cưú cánh chụp lâý ? Hay đó là duyên nợ đau đớn cho cả hai cá thể âý tìm thấy nhau ?  Chiến tranh là nợ để duyên kia kết thành. Hãy nhìn vào bản thân rôì nhìn vào T'nu, có ai muốn  mình trở thành anh hùng ? Chúng ta đau, chúng ta khổ, chúng ta chết, nhưng đó là bản thân  chúng ta, chúng ta chịu được. Nhưng người yêu thương, xóm làng đó, từng mái nhà, bậc thang,  từng tiếng chày, tiếng suối; quen thuộc đến nằm lòng, để rôì bặt im lặng, biến mất đi trong ngỡ  ngàng; những điều âý ai chịu được ? __Phải vùng dâỵ thôi, làm cách mạng, chúng ta làm cách mạng. Và hôm nay anh về, thăm làng,  chỉ một đêm thôi, nhưng hơi ấm của khói của lòng người, hay sự nức nở của quá khứ hiện về làm  cay cay cả mắt, cay cay cả sóng mũi. Dân làng vẫn như thế, như người mẹ luôn choàng lấy đưá  con cho dù nó lấm lem, cho dù nó thay đổi. Đêm cũng chính là lúc chúng ta gần nhau. Trời lạnh  mà, ông trời cũng khéo cho con người biết củi, biết chụm lửa, để ngôì quay quầng. Đông đủ cả,  những thế hệ, nhiều con người : cụ Mếch, T'nu, Dít, Heng; họ ngôì đây, bên nhau. __Hãy nói lên sự khác nhau ? Không. Hãy nói lên sự tương đồng ? Nhiêù. Cùng một tình yêu,  cùng một dòng máu; hãy bỏ qua khác biệt tuổi tác và giới tính, hãy nghĩ đến cái chung; họ thấm  nhuần cách mạng và một khi đã là đồng chí, chúng ta đã là một. Cụ Mếch sừng sững giữa đêm,  như hồn thiêng núi rừng, cụ dạy bảo những mầm non kia, vạch rõ con đường cho những ai chập  chững và nới rộng niềm tin cho những ai đang bước trên con đường đó.  __Hãy nhìn họ từ xa, xa thêm nưã để rôì thấy họ chỉ như một vòng tròng quanh lửa đỏ, họ là một,  một vòng tròn đầy đặng như niềm tin tuyệt đôí không lung chuyển của cả một thế hệ cho cách  mạng. Cách mạng là lửa, sưởi ấm lòng con trẻ qua những khoảng đen của lịch sử. __Giọng cụ Mếch vẫn vang lên, rung động quá khứ, cộng hưởng cả vào hiện tại và tương lai. Thế  nào là anh hùng cách mạng ? Hãy nhìn vào họ, từng ánh mắt như bị hút sâu vào dòng tư tưởng  của cụ Mếch, hãy nhìn kĩ họ, từng độ tuổi, từng màu tóc có khác nhưng tất cả họ xứng là là anh  hùng cả. Một đưá trẻ vót chông miệt mài hay băng suối băng rừng với đôi chân nhỏ thì khác gì vơí  người trưởng thành xông pha nơi trận mạc ? Cụ Hồ từng nói : người lớn làm việc lớn, nguơì nhỏ là  việc nhỏ. Vị tất thảy là bảo vệ cho cái mình yêu thương, bảo vệ cho niềm tin, hạnh phúc và bất cứ  lúc nào cần thiết, họ phó mặt tính mạng, điều đó chẳng phải cao quí lắm sao ? 18
  19. __T'nu đi "lực lượng", rôì sẽ có nhiều bước chân theo bước chân mở đường đó. Họ đi vì họ học từ  quá khứ, không để quá muộn để rôì tận mắt nhìn vợ con mình chết, không để quá muộn để bị  đàn áp đến đường cùng. Họ đi vì họ biết nhìn về tương lai, sau đường chân trời xa tít tắp của các  tán xà nu đủ sắc xanh âý, mặt trời vẫn mọc lên một màu đỏ chót. Họ thấy đó như máu trong tim  vẫn đều đặng dồn khắp cơ thể, họ thâý đó như niềm tin bất diệt vào con đường họ chọn. Chỉ có  cách mạng, như một thực thể sống, cùng sống cùng chết với vận mệnh quốc gia. Ngã xuống hay  đứng lên, bước tiếp hay mãi yên nghỉ, tất cả họ đêù là anh hùng. Lịch sử nhớ họ, sẽ có rất nhiêù  sẽ hi sinh, nhưng một nước Việt tự do độc lập sẽ là minh chứng hùng hồn cho sự hi sinh to lớn đó,  hãy nhớ đến họ, để rôì mỗi khi nhắc đến chúng ta chỉ đơn giản gọi : những anh hùng. Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ông đã  có rất nhiều những tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con người  kiên cường bất khuất nơi núi rừng Tây Nguyên.Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng  tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn “Rùng xà nu”, tác phẩm là câu chuyện về dân làng  Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ.Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô  Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú.Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể  của cụ Mết ­ già làng ­ bên bếp lửa nhà ưng trong một đêm anh được phép về thăm làng sau ba  năm đi bộ đội. Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình ảnh một Tnú trước  và sau khi đúng lên cầm vũ khí.Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan  góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ.Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu  cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm.Cậu thật sáng dạ khi  biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết. Nguời đọc cảm thấy một cái gì thật  đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú.Cậu bé này dám “cầm đá tự  đập vào đầu máu chảy ròng ròng khi học cái chữ không thuộc” bằng Mai.Và đặc biệt sự gan dạ  dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở  đây này”.Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ, Tnú vẫn không khai báo,  vẫn gan dạ kiên cường.Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi  được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Đây là nét hơn hẳn mà nhân vật A Phủ  trong “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài chưa có. Khi thoát ngục Kon tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện qua  nhiều thử thách.Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống  và ham ánh sáng.Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa  anh đã đi ba ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài  giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi theo cách mạng, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc  với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời.Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn  ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng  phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi  của kẻ thù, nhưng cả hai đều không sống được.Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy  cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh.Không những không cứu  được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt….không  mọc lại được”.Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc  của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. 19
  20. Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao.Hình ảnh  Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên.Khi  đốt cháy hai bàn tay của Tnú, kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng  chiến đấu của người dân Xô Man.Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô  lệ thấp hèn dưới nòng súng tàn bạo của chúng.Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man không cam  chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt.Họ đã biết vượt lên đau thương để  vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình .Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy  trên mười đầu ngón tay tẩm dầu xà nu.Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở  trong lòng­ ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù.Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang  vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn  làng.Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp  lửa nhà ưng.Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi  động : “Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng  Xôman âo ào rung động và lửa cháy khắp rừng”.Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng  Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả một cộng đồng, dân tộc.Dường như trong đêm ấy  đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên”. Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay của anh.  Đôi bàn tay bị đốt cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắ của dân làng Xôman,  nó còn soi sáng cuộc đời anh.Anh đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo kháng  chiến đi tìm những thằng Dục khác.Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân  làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao  găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục.Tao giết  mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi”.Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh  đôi bàn tay Tnú­ đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận. Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát rẫy.  Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không thuộc.Và đôi bàn tay ấy dám chỉ  vào bụng mình mà nói với quân giặc “Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành với cách  mạng.Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi  bàn tay ấy xé tấm dồ làm địu cho đứa con thơ dại, bàn tay bíu chặt gốc cây vả khi chứng kiến vợ  con bị giặc đáng đập bằng roi sắt, hai cánh tay rộng lớn ôm choàng lấy vợ con che chở, yêu  thương…Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại  được…..cho nên Tnú muốn dung đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù.Bao uất hận căm hờn đã dồn  lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất , cho sức sống mãnh liệt của  Tnú và người dân làng Xôman.Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu  diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng  chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây  không có cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời. Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con người  mang đậm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên.Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung  Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ  buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi  rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó  khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.Có thể nói qua thiên  20

nguon tai.lieu . vn