Việc xây dựng đập thủy điện trên các sông có ảnh hưởng gì đến môi trường tự nhiên

  • Tiêu điểm
  • Đối thoại

Thứ bảy, 07/11/2020 06:00 [GMT+7]

Phát triển thuỷ điện và bảo vệ môi trường: Bài học nhìn từ thế giới

Trong những năm gần đây, do nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu trở nên cấp bách, nhiều quốc gia đã hướng tới việc ưu tiên phát triển nguồn thủy điện, trong đó đã chú trọng thích đáng đến thủy điện nhỏ.

Tuy nhiên, việc phát triển thủy điện hiện nay đang phải đối với mặt với các vấn đề lớn về môi trường như mất đất, mất rừng, tái định cư…

Tiềm ẩn nguy cơ “ô nhiễm môi trường”

Năm 2016, các nhà nghiên cứu đã công bố rằng thực tế việc phát triển thuỷ điện phá hoại môi trường tồi tệ hơn nhiều so với những nhận định trước kia. Tạp chí The Guardian dẫn lời nhóm nghiên cứu cho biết, các con đập trong quá trình vận hành phát tán ra lượng khí mê-tan lớn hơn 25% so với các nghiên cứu trước kia chỉ ra - chiếm tới 1,3% lượng khí thải do con người sản sinh ra môi trường. Đây được xem là hệ quả trực tiếp của lượng nước tích trữ liền kề với con đập - vốn được dùng để đảm bảo áp suất sinh điện.

Các con đập trong quá trình vận hành phát tán ra một lượng khí mê-tan lớn gây ô nhiễm môi trường. [Ảnh minh họa: Internet]

Các hồ chứa này thường có thiết kế rộng và rất sâu, nước tĩnh, hàm chứa ít khí oxy, nhưng lại có rất nhiều các loại tảo và vi khuẩn trôi nổi dưới đáy. Khi rác từ nhà máy - bao gồm cả lá cây và cành khô - được đổ xuống các hồ, chúng sẽ trở thành thức ăn cho các loại vi khuẩn, sản sinh ra khí CO2 và mê-tan. Lượng khí này sẽ nhanh chóng phát tán vào không khí, gây ra ô nhiễm. Đó là chưa tính tới những tác động tới môi trường và thiên nhiên trong quá trình vận hành, thi công, xây dựng.

Theo đó, dù khí mê-tan không lan toả trong bầu khí quyển như CO2 nhưng nó lại có tác động tiêu cực hơn nhiều, góp phần thúc đẩy hiệu ứng nhà kính khiến Trái đất nóng dần lên với tỉ lệ gần gấp ba lần so với khí CO2. Nếu các nước tiếp tục tăng số lượng thuỷ điện trong thời gian tới, con số này sẽ còn tăng lên.

Kinh nghiệm phát triển thuỷ điện của các quốc gia trên thế giới

Theo báo cáo của Hiệp hội Thủy điện Thế giới [IHA] năm 2018, công suất đặt của các nhà máy thủy điện trên thế giới đã đạt 1.267 GW [chiếm 20% sản lượng điện của thế giới]. Dẫn đầu về mức tăng công suất thủy điện là khu vực Đông Á và Thái Bình Dương với mức tăng 9,8GW, tiếp theo là Nam Mỹ, Trung và Nam Á.

Dự án nhà máy thủy điện Bạch Hạc Than trên sông Kim Sa của Trung Quốc. [Ảnh: Internet]

Trung Quốc

Trung Quốc là nước phát triển nhanh về công nghệ xây dựng đập thủy điện, đặc biệt là đập thủy điện lớn. Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện một loạt giải pháp quản lý thủy điện như: sử dụng phương pháp quản lý tổng hợp Meta cho các dự án thủy điện lớn; áp dụng nguyên tắc tối ưu hóa phân bổ tài nguyên nước, lập kế hoạch trong tình huống thủy điện xả lũ... Việc thực hiện chủ trương “tự xây dựng, tự quản lý và tự sở hữu” đã thúc đẩy phát triển thủy điện nhỏ nhằm bổ sung sản lượng điện đáng kể cho hệ thống điện quốc gia.

Dự án nhà máy thủy điện Bạch Hạc Than trên sông Kim Sa ở tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam, Trung Quốc là một trong những công trình thủy điện lớn thế giới. Chủ tịch Tập đoàn Tam Hiệp Trung Quốc cho biết, dự án có ý nghĩa trong việc phát triển Vành đai kinh tế sông Dương Tử và việc điều chỉnh cơ cấu năng lượng Trung Quốc. Dự án sẽ tương đương gần 20 triệu tấn than tiêu chuẩn, cắt giảm phát thải 52 triệu tấn khí CO2/năm.

Na Uy

Na Uy là nước mà thủy điện chiếm hơn 97% tổng sản lượng điện sản xuất. Cơ sở hạ tầng thủy điện và đập trong cả nước có “tuổi đời” trung bình khoảng 46 năm. Hiện nay, Na Uy đang tiến hành nâng cấp cơ sở hạ tầng thủy điện và cải thiện các tác động đến môi trường. Các điều khoản trong giấy phép hoạt động của các công trình thủy điện của nước này sẽ được sửa đổi trước năm 2022, trong đó, bổ sung thêm các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn về đánh giá tác động môi trường.

Ngoài ra, do hậu quả của biến đổi khí hậu, quốc gia này hiện đang phải đối mặt với sự gia tăng dòng chảy trung bình tại các hệ thống sông. Trước tình hình đó, một số dự án tăng kích thước của các hồ chứa và tuabin để phù hợp với dòng chảy tăng lên đã được triển khai. Ngoài việc hiện đại hóa các tuabin hiện có, một số nhà máy của Na Uy cũng lắp đặt thêm tổ máy bổ sung, tăng tổng công suất lắp đặt của các nhà máy thủy điện.

Na Uy là nước mà thủy điện chiếm hơn 97% tổng sản lượng điện sản xuất. [Ảnh: Internet]

Ấn Độ

Ấn Độ cũng là quốc gia có tiềm năng thủy điện rất lớn với tổng công suất đặt khoảng 148.701 MW. Để khai thác hiệu quả tiềm năng này, Ấn Độ đã xây dựng thành công phiên bản phần mềm DHARMA với các nguyên tắc an toàn đập thủy điện, gồm: Xây dựng mối quan hệ hợp tác cùng phát triển giữa các bên liên quan [chủ sở hữu đập, nhà điều hành, tư vấn, nhà thầu và nhà cung cấp vật tư, thiết bị...]; đảm bảo thông tin về đập được thu thập đầy đủ với độ chính xác cao kèm theo những đánh giá định kỳ về độ an toàn đập quản lý dữ liệu hoàn chỉnh. Nhờ đó, Ấn Độ có thể tập trung khôi phục và cải tạo, nâng cấp khoảng 250 đập thủy điện trên toàn quốc.

Campuchia

Campuchia là nước có mạng lưới sông ngòi dày đặc và tiếp giáp với nhiều quốc gia. Các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Lào đã xây dựng nhiều nhà máy thủy điện trên các nhánh sông Mê Kông làm ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên của Campuchia.

Với điều kiện địa lý tự nhiên như vậy, Campuchia đã hợp tác với các nước xung quanh, cùng nghiên cứu và phát triển thủy điện bền vững. Campuchia đã hợp tác với Trung Quốc xây dựng Nhà máy Thủy điện Sesan II, hoạt động từ tháng 11 năm 2017 trên sông Sesan - một nhánh sông Mê Kông ở Đông Bắc Campuchia. Chính phủ Campuchia cũng hy vọng, các dự án thủy điện mới sẽ không chỉ giúp người dân tiếp cận với năng lượng rẻ hơn mà còn có khả năng thừa điện, có thể bán cho các nước xung quanh.

Ngày 20/3/2020, Bộ Mỏ và Năng lượng Campuchia xác nhận không có kế hoạch xây đập thủy điện trên sông Mê Kông trong 10 năm tới. Chính phủ Campuchia hiện đang xem xét chính sách phát triển năng lượng thông qua các giải pháp thay thế khác như nhiệt điện, khí đốt tự nhiên và năng lượng mặt trời.

Ông Victor Jona - Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng cho biết: “Trong giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2030, chúng tôi không có kế hoạch phát triển thủy điện trên dòng sông Mê Kông. Việc nghiên cứu phát triển thủy điện trên dòng sông này đòi hỏi phải nghiên cứu cẩn thận, đánh giá ảnh hưởng về môi trường, nên cần thời gian dài. Do vậy, trong 10 năm tới, chúng tôi không có kế hoạch phát triển thủy điện trên dòng sông Mê Kông”.

Quyết định trên được các nhà khoa học đánh giá giúp đảm bảo cho sự phát triển bền vững của hàng triệu cư dân sinh sống dọc sông Mê kông. Ngoài ra, nó cũng giúp bảo vệ sự đa dạng sinh học trên dòng sông này, đặc biệt là quần thể cá heo nước ngọt Irrawaddy.

Phát triển bền vững để bảo vệ môi trường

Trong những năm gần đây, do nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu trở nên cấp bách, nhiều quốc gia đã hướng tới việc ưu tiên phát triển nguồn thủy điện, trong đó đã chú trọng thích đáng đến nguồn thủy điện nhỏ, một nguồn năng lượng tái tạo quý giá.

Trên thực tế, thủy điện nhỏ với công nghệ đã ở mức độ hoàn thiện, có khả năng hoạt động linh hoạt, tin cậy và hiệu quả, góp phần thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ "Chống biến đổi khí hậu toàn cầu". Mặt khác, đối với các nước đang phát triển, thủy điện nhỏ còn có vai trò hết sức quan trọng trong việc xóa đói, giảm nghèo và gia tăng chỉ số tiếp cận điện năng... Mặc dù vậy, hiện tại vẫn còn nhiều rào cản cần được tiếp tục quan tâm tháo gỡ để khai thác hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo quý giá này.

Để bảo vệ môi trường và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, phát triển năng lượng tái tạo nói chung và sản xuất điện từ năng lượng tái tạo nói riêng là xu thế tất yếu hiện nay trên thế giới. Tuy nhiên, không thể xoá bỏ hoàn toàn các công trình thuỷ điện, do đó cần có các biện pháp dài hơi để phát triển thuỷ điện gắn với bảo vệ môi trường.

Diệu Nguyên

  • Thủ tướng đồng ý quan điểm của đại biểu Quốc hội, hạn chế thủy điện nhỏ
  • Thủy điện - 'Nỗi ám ảnh' của người dân vùng lũ
  • Đại biểu Dương Trung Quốc: Phải đóng phí môi trường trước khi xây thủy điện

Theo Tạp chí Kinh tế Môi trường

Bạn đang đọc bài viết Phát triển thuỷ điện và bảo vệ môi trường: Bài học nhìn từ thế giới. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0917 681 188 Hoặc email:

  • thủy điện vừa và nhỏ
  • bảo vệ môi trường
  • Trung Quốc
  • Na Uy
  • bài học phát triển thủy điện

Tác động môi trường của hồ chứa nước ngày càng được xem xét kỹ lưỡng khi nhu cầu toàn cầu đối với nước và năng lượng tăng lên, đồng thời số lượng và kích thước của hồ chứa sẽ tăng lên.

Đập thủy điện Hòa Bình chặn đường cá mè lên nguồn đẻ trứng.

Tác động sinh tháiSửa đổi

Tác động đến sinh thái diễn ra trên diện rộng, trong đó đập là một rào cản cho các động vật sông di cư, đặc biệt là các loài cá cần lên thượng nguồn để sinh sản, như cá hồi salmon và trout, cá mè, cá nheo,...[2]. Một số cộng đồng đã bắt đầu dùng sà lan để vận chuyển cá di cư ngược dòng.

Tại đông-nam châu Á thì cá mè cần lên vùng nước chảy xiết mới phát dục và sinh sản được. Ở sông Hồng bắc bộ Việt Nam khi trứng trôi đến vùng Hưng Yên - Hà Tây thì đã nở thành cá con 2-5mm. Trước năm 1990 nghề vớt cá bột [a] rất thịnh hành ở đây, cung cấp cá mè giống cho vùng đồng bằng. Khi các đập thủy điện phát triển thì cá mè đẻ trứng giảm, nghề này lụi tàn, và ngư dân không còn gặp những đàn cá mè lớn nữa.

Tại vùng hồ thì việc tích nước ban đầu tạo ra một vùng nước lớn nhiều dưỡng chất, là môi trường mới thuận lợi cho động vật thủy sinh phát triển. Trong vài ba năm đầu các loài tôm và cá nhỏ phát triển vì chưa có nhiều thiên địch. Sau đó đến lượt cá lớn và cá ăn thịt phát triển, đạt đến cân bằng tự nhiên sau một thời gian nhất định. Về nguyên tắc thủy vực vùng hồ là môi trường thuận lợi cho nuôi và đánh bắt thủy sản, tuy nhiên điều này không dành cho các loài cá sống trong môi trường nước chảy. Mặt khác nếu để ô nhiễm và thoái hóa chất lượng nước xảy ra thì nguồn lợi thủy sản cũng mất.

Đối với vùng hạ lưu sự thay đổi chế độ thủy văn, việc xả nước đáy có nhiệt độ thấp, và sự thiếu hụt dưỡng chất tác động xấu đến sinh thái. Đó là những điều kiện môi trường cho phát triển của các quần thể vi sinh vốn là mắt xích đầu tiên của chuỗi thức ăn. Từ đó dẫn đến mất cân bằng thành phần các loài thủy sinh có kích thước lớn hơn, đặc biệt là cá và động vật quý hiếm như cá heo sông.

Chế độ trầm tíchSửa đổi

Tại hồ chứa thì phù sa lắng đọng, gây ra giảm thể tích nước hồ [3] làm giảm sản lượng điện. Việc thực hiện xả đáy thường chỉ giải quyết được một phần nhỏ khối trầm tích ở vùng gần đập.

Trong trường hợp bồi lấp nhiều thì hồ có thể đạt đến già cỗi không sử dụng được nữa [4].

Xói lởSửa đổi

Sự giảm lượng phù sa đưa xuống hạ lưu dẫn đến mất cân bằng bồi tích, làm xói lở bờ sông. Sự thiếu hụt phù sa tác động đặc biệt lớn đến vùng châu thổ hạ lưu và vùng cửa sông nơi chịu tác động thường trực của sóng biển và thủy triều [5].

Những nghiên cứu ở đập Tam Hiệp Trung Quốc cho thấy thời gian để đạt đến một cân bằng mới của sự xói mòn và bồi lắng là cỡ 10 năm.

Nhiệt độ nướcSửa đổi

Tại hồ chứa có cột nước lớn thì sự thiếu vắng đối lưu hay xáo trộn dẫn đến phân tầng nước, tạo ra lớp nước đáy lạnh, nghèo oxy hòa tan. Ở vùng ôn đới, phân tích nhiệt độ từ 11 đập lớn ở Murray Darling Basin [Australia] cho thấy sự khác biệt giữa nhiệt độ nước mặt và nước đáy lên đến 16,7°C [6]. Nếu nước lạnh này được cấp ra dòng chảy của sông, nó có thể gây tác động xấu đến các hệ sinh thái hạ lưu bao gồm các quần thể cá. Trong trường hợp tồi tệ hơn [chẳng hạn như khi các hồ chứa đầy hoặc gần đầy, nước trữ lại có sự phân tầng mạnh và khối lượng nước lớn được xả qua các kênh xả đáy] nhiệt độ giảm có thể kéo dài đến 250–350km phía hạ lưu [7].

Khí nhà kínhSửa đổi

Tại hồ chứa có cột nước lớn và có hiện tượng phân tầng nước, thì các lớp dưới cùng nghèo oxy, dẫn đến phân hủy sinh khối là quá trình kỵ khí [8]. Nó tạo ra khí metan, một khí nhà kính gây biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu lý thuyết chỉ ra rằng hồ chứa thủy điện toàn cầu hàng năm có thể phát ra 104 triệu tấn khí mêtan [9]. Bảng dưới đây chỉ ra lượng mêtan sinh ra, tính bằng miligam trên một mét vuông mỗi ngày đối với các thực thể nước khác nhau [10].

Vị trí Carbon Dioxid Mêtan
Hồ tự nhiên 700 9
Hồ chứa ôn đới 1500 20
Hồ chứa nhiệt đới 3000 100

Tích lũy chất độc hạiSửa đổi

Các kim loại nặng như thủy ngân, vàng,... từ đá núi bị phong hóa, và cyanide dùng ở mỏ vàng trong lưu vực phía trên đập, được tích lũy trong hồ chứa, đầu độc môi trường nước.

Các khu công nghiệp xả thải ra lưu vực nếu có, cũng dẫn đến tích tụ độc hại. Tích tụ này nguy hiểm hơn ở phần hạ lưu, vì phải đợi mùa mưa mới làm loãng được.

Phá rừngSửa đổi

Việc tạo hồ dẫn đến rừng ở vùng lòng hồ bị phá trụi. Về tổng thể lượng nước giữ lại trong hồ và tác động điều hòa khí hậu cao hơn nhiều lần khi diện đó còn là rừng. Dẫu vậy tác động phá rừng là đáng kể khi tỷ suất lợi ích kinh tế mang lại trên diện tích là thấp, như hồ Thác Bà ở bắc Việt Nam.

Tác động phá rừng thứ cấp là hồ cung cấp thủy lộ tiện lợi cho lâm tặc. Họ chỉ cần đem vài cái săm ô-tô và cưa vào rừng cắt gỗ. Đưa ra đến hồ thì lắp phao săm ô-tô, đủ sức tải các súc gỗ vài tấn đến điểm xẻ hoặc điểm tập kết chuyển sang đường bộ.

Tưới tiêu trong nông nghiệpSửa đổi

Một phần quan trọng nước hồ được cấp cho nông nghiệp, đặc biệt là các hồ thuần túy phục vụ thủy lợi hay dân sinh.

Tuy nhiên khi cấp cho vùng lớn thì sự bốc hơi dẫn đến một lượng nước không khôi phục, không hoàn trả được cho hạ lưu. Ví dụ điển hình các đập để lấy nước trồng bông trên sông Amu Darya và Syr Darya đổ vào biển Aral ở Trung Á, đến nay đã làm mất 60% diện tích mặt nước và 80% lượng nước, biến biển thành bãi muối [11].

Các đập đổi dòng nướcSửa đổi

Theo quy tắc chung thì nước hồ được trả về dòng cũ sau khi khai thác năng lượng. Tuy nhiên một số công trình đã đổi dòng xả nước để có độ chênh cao lớn nhắm thu được công suất phát điện cao, dẫn đến giảm hoặc mất nước cấp cho hạ lưu.

Tại Việt Nam sau khi những công trình có đổi dòng nước như thủy điện Đa Nhim [1964], Đại Ninh [2008], A Lưới [2012],... được coi là "thành công", thì sự phát triển ồ ạt thủy điện dẫn đến ra đời thủy điện An Khê-Kanak [2011] đổi dòng sông lớn, gây thảm họa khô hạn cho sông Ba và đang là đề tài tranh cãi [12].

Tại Lào có các công trình thủy điện Theun Hinboun, Nam Theun 2, thực hiện đổi dòng nước từ Nam Theun sang Nam Hinboun và Se Bangfai. Các tranh cãi thấp hơn và chủ yếu là từ nước ngoài do Tổ chức Sông ngòi Quốc tế đưa ra, trong đó tác động chính là gây ngập lụt hoặc sình lầy ở vùng nhận nước [13]. Nước Lào hiện có mật độ dân số thấp [trung bình cỡ 22 người/km2], chưa phải chịu sức ép dân số và sinh thái.

Tác động tới con ngườiSửa đổi

Tái định cưSửa đổi

Việc tạo vùng hồ nước và các công trình dẫn đến tái định cư những cư dân trong vùng đó. Khi tái định cư đã có xảy ra xung đột quyền lợi, đặc biệt là vùng tái định cư không đảm bảo điều kiện và tập quán sống của người dân.

Tại Việt Nam thì tái định cư là đề tài dài những bất cập. Tại thủy điện Hòa Bình những năm 1980 tái định cư đơn thuần là chỉ trỏ vùng đất để chính quyền cơ sở động viên dân chuyển đến, với một chút hỗ trợ di chuyển. Từ những vướng mắc ở thủy điện Trị An mới hình thành quy tắc ứng xử rằng "tái định cư phải đảm bảo bằng điều kiện sống cũ trở lên". Dẫu vậy dường như thành truyền thống của thủy điện là "làm nhà" cho bà con ở rồi để đấy. Nó dẫn đến tình trạng bà con không có đất đai để canh tác, nên lâm vào cảnh đói nghèo. Một số đã tìm cách trở lại lòng hồ để sống tạm bợ [14].

Dịch bệnhSửa đổi

Trong điều kiện địa hình và thủy văn cụ thể, có thể hình thành vùng sình lầy là nơi thuận lợi cho muỗi sinh trưởng và cá không vào được để tiêu diệt, từ đó phát sinh dịch bệnh. Thường thì đó là vùng thung lũng có độ cao ngang với độ cao mực nước trung bình, dễ hình thành ban đầu mảng cỏ hay bèo trôi nổi sau đó cỏ bám được vào đáy [15].

Vỡ đậpSửa đổi

Sự cố vỡ đập là thảm họa chết người đã từng xảy ra.

Ngày 12/3/1928, đập St. Francis là đập trong hệ thống cấp nước cho Los Angeles, California, đã hư hại gây lũ cướp đi 431 sinh mạng [16].

Năm 1975 đập Bản Kiều trên sông Nhữ ở Trú Mã Điếm tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, đã bị mưa của cơn bão Nina gây vỡ liên hoàn các đập khiến 171.000 người chết và 11 triệu người mất nhà cửa.[17].

Tranh chấp nguồn nướcSửa đổi

Tranh chấp nguồn nước có thể xảy ra trên hệ thống sông quốc tế, như sông Jordan ở Trung Đông, sông ở vùng Lưỡng Hà, sông Mê Kông,... Các nước nắm giữ hồ đập thượng nguồn có thể, do quyền lợi riêng trong vận hành hoặc do ý đồ chính trị, không trả nước vào dòng chảy theo theo quy tắc vận hành bình thường, dẫn đến thiếu hụt nước hay lụt lội ở vùng hạ lưu [18]. Đây là vấn đề đang được quốc tế nỗ lực ngăn chặn.

Mức độ tác động thực tế của can thiệp nguồn nước tùy thuộc lưu lượng nước vốn có ở vùng đập so với ở hạ lưu, và cần được xác định có cơ sở rõ ràng trước khi bước vào cuộc đôi co quốc tế về nước.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Cá mè có tập tính hẹn nhau khoảng tháng 7-8 khi có lũ lớn lên thượng nguồn cùng đẻ để tăng khả năng sống sót, do trứng nổi trên mặt nước để khi nở thì ăn phù du. Khi trôi đến cầu Long Biên thì thành cá con cỡ 5 mm. Các bè vớt có dạng đặc biệt thu gom chúng ở tầng mặt, phía đầu là lưới chắn rác, và không phải để vớt cá khác như bài "Mùa cá bột sông Hồng" nói.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ A comparative survey of dam-induced resettlement in 50 cases by Thayer Scudder and John Gray [1]
  2. ^ Mann, Charles C; Mark L. Plummer [tháng 8 năm 2000]. “Can Science Rescue Salmon?”. Science, New Series. 289 [5480]: 716–719. doi:10.1126/science.289.5480.716.
  3. ^ Silenced Rivers: The Ecology and Politics of Large Dams, by Patrick McCully, Zed Books, London, 1996. ISBN 1-85649-902-2
  4. ^ Reservoir Sedimentation Handbook; Morris, Gregory & Fan, Jiahua; McGraw-Hill Publishers; 1998.
  5. ^ Sedimentation Engineering; American Society of Civil Engineers Committee; American Society of Civil Engineers Headquarters; 1975.
  6. ^ Review of cold water pollution in the Murray–Darling Basin and the impacts on fish communities. Wiley Onlinelibrary, 22/01/2014.
  7. ^ “Review of cold water pollution in the Murray–Darling Basin and the impacts on fish communities”. Truy cập 30 tháng 6 năm 2016.
  8. ^ Climate Change and Dams: An Analysis of the Linkages Between the UNFCCC Legal Regime and Dams.
  9. ^ Methane Emissions from Large Dams as Renewable Energy Resources: A Developing Nation Perspective, Springer Published ngày 2 tháng 3 năm 2007.
  10. ^ Reservoir Surfaces as Sources of Greenhouse Gases to the Atmosphere: A Global Estimate.. American Institute of Biological Sciences, BioOne. BioScience, September 2000, Vol. 50 No. 9, p. 766.
  11. ^ Ed Ring [ngày 27 tháng 9 năm 2004]. “Release the Rivers: Let the Volga & Ob Refill the Aral Sea”. Ecoworld. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2008.
  12. ^ “Vì sao công trình thủy điện An Khê- Kanak được xem là 'sai lầm thế kỷ'?”. congan. Truy cập 12 tháng 4 năm 2016.
  13. ^ Theun-Hinboun Dam and Expansion Project. International Rivers Online. Truy cập 01/06/2016.
  14. ^ Một góc buồn Bản Vẽ... Lưu trữ 2016-03-07 tại Wayback Machine Văn hóa Nghệ An, 18/5/2012.Truy cập 28/02/2016.
  15. ^ William R. Jobin, 1999. Dams and Disease: Ecological Design and Health Impacts of Large Dams, Canals, and Irrigation Systems, Taylor & Francis, ISBN 0-419-22360-6 [2]
  16. ^ Stansell, Ann [tháng 2 năm 2014]. “Roster of St. Francis Dam Victims”. Santa Clarita Valley Historical Society.
  17. ^ Osnos, Evan. "Faust, China, and Nuclear Power". The New Yorker, ngày 12 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2011, mirrored at Web archive.
  18. ^ Nguyễn Thọ Nhân. Tranh chấp tài nguyên nước ở Trung Đông. Tia Sang Online, 06/05/2011. Truy cập 01/06/2016.

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Website của Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam.
  • Website của International Rivers
  • Rivers No More: The Environmental Effects of Large Dams at International Rivers [an excerpt for Rivers No More: The Environmental Effects of Large Dams]
  • World Commission on Dams

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề