Cảnh vật trong truyện Hai đứa trẻ đã được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào
Cảnh vật trong truyện Hai đứa trẻ được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào
Trang trước
Trang sau
Câu hỏi: Cảnh vật trong truyện “Hai đứa trẻ” được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào? Show
Trả lời: Quảng cáo
Không gian trong tác phẩm là khung cảnh nơi một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám: vào buổi tan chợ, những tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một đã vang lên để gọi buổi chiều, nó hiện lên trong một không gian ở phố huyện… Đây là một không gian thực. Ngoài ra, trong truyện còn đề cập đến không gian hồi tưởng của chị em Liên – đó là không gian cuộc sống gia đình Liên và An còn ở Hà Nội; và không gian mở tưởng – nơi Hà Nội xa xăm, tấp nập, sáng rực, huyên náo và hạnh phúc. Thời gian là một biểu chiều tàn, có tiếng trống thu không, ếch nhái kêu ran ngoài đồng; ở chợ mọi người đang chuẩn bị ra về sau buổi buôn bán. Tiếp theo đó là bóng tối của màn đêm bao phủ “một đêm tối tịch mịch”. Cảnh vật lúc chiều tàn thật xác xơ, trên mặt đắt vương vãi những rác rải, lũ trẻ nhanh chóng nhặt nhạnh, bòn mót. Một không gian gợi cảm giác u buồn cho người đọc. Quảng cáo
Xem thêm các câu hỏi về các tác phẩm Ngữ văn lớp 11 chọn lọc, có đáp án chi tiết hay khác:
Trang trước
Trang sau
Cảnh vật trong truyện đã được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào?Cảnh vật trong truyện “Hai đứa trẻ” được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào?❮ Bài trước Bài sau ❯ Cảnh vật trong truyện “Hai đứa trẻ” được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào?Bạn đang xem: Cảnh vật trong truyện “Hai đứa trẻ” được miêu tả trong không gian và thời gian như thế nào? Tại myphamthucuc.vn Soạn bài Hai đứa trẻ1.Cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào?
Lời giải: I. Tác giả, tác phẩm 1. Tác giả - Thạch Lam là cây bút truyện ngắn xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 -1945. Nhà văn nỏi tiếng của nhóm Tự LựcVăn Đoàn - Ông là nhà văn đôn hậu và rất đỗi tinh tế. Ông thường viết những truyện không có cốt truyện hoặc cốt truyện đơn giản, mỗi truyện như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của nhà văn trước những biến thái của cảnh vật và lòng người. - Tác phẩm tiêu biểu: tập truyện Gió lạnh đầu mùa, Nắng trong vườn, Ngày mới, Theo giòng, Sợi tóc, Hà Nội băm sáu phố phường… - Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chương: "Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn". - Ở tư cách nhà văn, Thạch Lam đòi hỏi rất cao phẩm chất trung thực của người nghệ sĩ. Ông viết: "Sự thành thực chưa đủ cho nghệ thuật. Có thể, nhưng một nhà văn không thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá trị. Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhưng một nghệ sĩ không thành thực chỉ là một người thợ khéo tay thôi". 2. Tác phẩm a. Hoàn cảnh sáng tác: nhà văn đã có những ngày tháng sống tại phố huyện Cẩm Giàng, vốn là người nhạy cảm nhà văn nhận thấy đông cảm và thương xót với cuộc sống của người dân nơi đây và đã sáng tác nên truyện ngắn này b. Xuất xứ: truyện ngắn được in trong tập Nắng trong vườn (1938) c. Bố cục: 3 phần: – Phần 1: từ đầu đến “cười khanh khách”: cảnh phố huyện lúc chiều xuống – Phần 2: tiếp đến cảm giác mơ hồ không hiểu nổi: cảnh phố huyện về đêm – Phần 3: còn lại: cảnh chuyền tàu đêm đi qua phố huyện II. Hướng dẫn học bài Câu 1: cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào? Trả lời: - Cảnh nghèo đói, tù túng, quẩn quanh nơi phố huyện được miêu tả trong không gian và thời gian: - Không gian: nơi phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Đây là một không gian thực. Ngoài ra, trong truyện còn đề cập đến không gian hồi tưởng của chị em Liên – đó là không gian cuộc sống gia đình Liên và An còn ở Hà Nội; và không gian mở tưởng – nơi Hà Nội xa xăm, tấp nập, sáng rực, huyên náo và hạnh phúc. - Thời gian: kéo dài từ chiều đến tối, khi chuyến tàu đêm đi qua. Đó là một biểu chiều tàn, có tiếng trống thu không, ếch nhái kêu ran ngoài đồng; ở chợ mọi người đang chuẩn bị ra về sau buổi buôn bán. Tiếp theo đó là bóng tối của màn đêm bao phủ "một đêm tối tịch mịch". Câu 2: Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống và hình ảnh của những người dân sống nơi phố huyện ra sao? Trả lời: - Cuộc sống của phố huyện vào buổi chiều thật tẻ nhạt, lặp đi lặp lại. Đó là cuộc sống nghèo đói, buồn tẻ, quẩn quanh, bế tắc…Lúc này con người xuất hiện chỉ là điểm tô thêm cho cuộc sống ở nơi đây, những người còn lại duy nhất lúc này là những người đang bươn trải kiếm sống những người bán hàng về muộn, họ đang thu xếp hàng hóa và tranh thủ nói với nhau dăm ba câu chuyện để tiếp tục những câu truyện đang dở. - Con người: những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác Siêu, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên, chị em Liên. => Nhếc nhác, lam lũ, mỏi mòn, héo hắt. Mong đợi gì tươi sáng hơn cho cuộc sống hiện tại. Ví dụ: hình ảnh những đứa trẻ em nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom đi tìm tòi nhặt nhạnh, còn những hình ảnh của những người ngày cắm mặt với đất bán lưng cho trời. => Tác giả đã vẽ ra một bức tranh có cuộc sống và hình ảnh con người hiện lên thật sinh động đây là những con người đang phải bươn trải và lo cho cuộc sống của mình. Câu 3: Phân tích tâm trạng của hai chị em Liên và An trước khung cảnh và bức tranh đời sống nơi phố huyện: Trả lời: - Trước bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện, Liên cảm thấy “buồn man mác”, cảm nhận được cái "mùi ẩm mốc bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc "là" cái mùi riêng của đất, của quê hương này". Hòa hợp, gần gũi với thiên nhiên và dường như có cả sự giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên phố huyện "tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu". - Ttước bức tranh đời sống nơi phố huyện, tâm trạng Liên: “động lòng thương” với những kiếp người nhỏ nhoi, sống lay lắt trong bóng tối cơ cực, đói nghèo mà kì thực chính cuộc sống của chúng cũng buồn tẻ và vô vị như thế. Liên và An chắc cũng mơ màng nhận ra điều ấy, phải chăng chính vì thế mà đêm nào hai chị em cũng cố thức để đợi chuyến tàu muộn của đêm. Câu 4: Hình ảnh đoàn tàu trong truyện đã được miêu tả như thế nào? Vì sao chị em Liên và An cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện? Trả lời: - Đoàn tàu trong truyện là một hình ảnh đặc sắc, thể hiện một chút niềm tin, hy vọng tươi sáng cho cuộc sống của người dân nơi phố chợ. Đoàn tàu được miêu tả với những hình ảnh chân thật, khi tàu đi qua cảnh phố huyện như tươi sáng hơn, nhộn nhịp hơn. Hai đứa trẻ khắc khoải chờ đợi từng bước đi của thời gian, từng bước xích lại gần của chuyến tàu: tàu sắp đến, tàu vụt qua, tàu đi rồi chỉ còn chấm đèn ghi nhỏ xa mãi rồi khuất sau rặng tre. - Con tàu đến rồi lại đi nhanh để lại trong hai đứa trẻ nỗi buồn nhớ tiếc. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ. - Đặc biệt, hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này. Câu 5: Anh (chị) có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam? Trả lời: - Đây là một truyện ngắn miêu tả rất tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật (nhất là nhân vật Liên). - Giọng văn nhẹ nhàng, điềm tĩnh, khách quan; lời văn bình bị nhưng luôn ẩn hiện một tình cảm xót thương đối với những con người nghèo khổ, phải sống quanh quẩn, lam lũ, tối tăm. Giọng văn góp phần tích cực vào việc tạo nên một truyện ngắn giàu sắc thái trữ tình và đậm chất thơ. Câu 6: Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam muốn phát biểu tư tưởng gì? Trả lời - Qua truyện ngắn tác giả muốn để lại niềm xót thương với những cảnh đời nghèo khổ, quanh quẩn một cuộc sống cơ cực ở nơi phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám. Đồng thời, ông cũng biểu hiện niềm ao ước về một cuộc sống sẽ thay đổi cho nơi đây. III. Luyện tập Câu 1: Anh (chị) có ấn tượng sâu sắc nhất với nhân vật nào, chi tiết nghệ thuật nào trong truyện ngắn Hai đứa trẻ? Vì sao? Trả lời: Chi tiết nghệ thuật ấn tượng trong truyện ngắn Hai đứa trẻ: bóng tối và ánh sáng. Hai chi tiết đối lập, mang ý nghĩa biểu tượng cao. - Bóng tối đậm đặc, bao phủ mọi ngõ ngách: buổi chiều, trời nhá nhem tối, trời tối hẳn, đoàn tàu đi - Ý nghĩa: nhấn mạnh những gì tăm tối, tù túng, tẻ nhạt của phố huyện nghèo, con người phải sống trong quẩn quanh, bế tắc. Những con người bé nhỏ, tội nghiệp ấy là hình ảnh của nông dân ta trước cách mạng tháng Tám. - Ánh sáng ít ỏi, len lỏi vào bóng tối: bầu trời, đèn các nhà, sao, lửa, đom đóm… - Ý nghĩa: ước mơ, hi vọng của con người dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất Câu 2: Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Thạch Lam thể hiện qua truyện ngắn Hai đứa trẻ: Trả lời: - Những trang viết vừa đậm đà yếu tố hiện thực, vừa phảng phất chất lãng mạn, thơ ca. - Tiêu biểu cho loại truyện tâm tình của Thạch Lam (cái tình người chân chất, nhẹ nhàng, thấm sâu khắp truyện, tập trung tới thế giới nội tâm nhân vật, lối kể chuyện thủ thỉ như tâm sự với người đọc). Giải các bài tập Tuần 10 SGK Ngữ văn 11 •Hai đứa trẻ (Thạch Lam) •Ngữ cảnh Bài trước Bài sau Soạn bài Hai đứa trẻ (chi tiết)Video hướng dẫn giải Câu 1 Video hướng dẫn giải Câu 1 (trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như thế nào? Lời giải chi tiết: - Không gian trong tác phẩm là khung cảnh nơi một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám với những chi tiết thơ mộng, chứa chan tình cảm ("một buổi chiều êm ả như ru"). Đây là một không gian thực. Ngoài ra, trong truyện còn đề cập đến không gian hồi tưởng của chị em Liên – đó là không gian cuộc sống gia đình Liên và An còn ở Hà Nội; và không gian mở tưởng – nơi Hà Nội xa xăm, tấp nập, sáng rực, huyên náo và hạnh phúc. - Thời gian là một buổi chiều tàn, có "tiếng trống thu không", ếch nhái kêu ran ngoài đồng; ở chợ mọi người đang chuẩn bị ra về sau buổi buôn bán. Tiếp theo đó là bóng tối của màn đêm bao phủ "một đêm tối tịch mịch". - Cảnh vật xơ xác, vương vãi trên đất những thức rác rưởi, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn… lũ trẻ thì tranh nhau nhặt nhạnh, bòn mót. Câu 2 Video hướng dẫn giải Câu 2 (trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Thạch Lam miêu tả cuộc sống và hình ảnh những người dân phố huyện ra sao? Lời giải chi tiết: - Cuộc sống của phố huyện vào buổi chiều thật tẻ nhạt, khi chợ vãn lúc này chỉ còn rác và hình ảnh hai chị em Liên và An, những hình ảnh đèn thắp sáng nhỏ trong quán của Liên thấp thoáng hiện lên. - Lúc này con người xuất hiện chỉ là điểm tô thêm cho cuộc sống ở nơi đây, những người còn lại duy nhất lúc này là những người đang bươn trải kiếm sống những người bán hàng về muộn, họ đang thu xếp hàng hóa và tranh thủ nói với nhau dăm ba câu chuyện để tiếp tục những câu chuyện dang dở. + Chị Tí mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước dưới gốc bàng; dọn hàng từ chập tối cho đến đêm “chả kiếm được bao nhiêu?”. Thằng cu bé con chị Tí - xách điếu đóm và khiêng 2 cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra trông thật tội nghiệp. + Bà cụ Thi hơi điên, cười khanh khách, ngửa cổ rađằngsau, uống một hơi cạn sạch cút rượu, lảo đảo lần vào bóng tối. + Vợ chồng bác xẩm “tiếng đàn bầu bần bật”, thằng con bò ra đất… + Bác phở Siêu gánh hành đi trong đêm, tiếng đòn gánh kĩu kịt, bóng bác mênh mang,… Phở của bác là món quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được. =>Con người phố huyện âm thầm, lạnh lẽo. “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Cách viết nhẹ nhàng, đầy xót thương, thấm một nỗi buồn thấm thía. Đó là tình cảm nhân đạo của Thạch Lam. Câu 3 Video hướng dẫn giải Câu 3 (trang 101 SGK ngữ văn 11 tập 1) Phân tích tâm trạng Liên, An trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống phố huyện. Lời giải chi tiết: - Ngồi trước cửa hàng, chị em Liên cảm nhận về buổi chiều quê bằng những cảm giác rất riêng, vừa buồn, vừa gắn bó. + Có lẽ chính bởi thế mà Liên mới cảm thấy cái "mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng cúa ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc" là "cái mùi riêng của đất, của quê hương này". + Hoà hợp, gần gũi với thiên nhiên, hai đứa trẻ đã phát hiện ra bao biến thái tinh vi của nó: "An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao đế tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông". Tâm hồn của chúng dường như có sự giao cảm, giao hoà với cây cỏ quê hương: "Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoáng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu". - An và Liên lặng lẽ quan sát những gì đang diễn ra ở phố huyện với một cảm giác buồn mênh mang. Chúng xót xa, cảm thông chia sẻ với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối cơ cực, đói nghèo mà kì thực chính cuộc sống của chúng cũng buồn tẻ và vô vị như thế. Liên và An chắc cũng mơ màng nhận ra điều ấy, phải chăng chính vì thế mà đêm nào hai chị em cũng cố thức để đợi chuyến tàu muộn của đêm. Câu 4 Video hướng dẫn giải Câu 4 (trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Hình ảnh đoàn tàu trong truyện đã được miêu tả như thế nào? Vì sao chị em Liên và An cố thức để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện? Lời giải chi tiết: - Nhà văn đã miêu tả rất chi tiết hình ảnh đoàn tàu đêm đi qua phố huyện. Bắt đầu từ xa, khi xuất hiện ánh đèn ghi phía xa xa rồi đến âm thanh “tiếng còi” vọng lại… rồi con tàu vụt qua trong giây lát, chấm nhỏ của chiếc đèn xanh rồi đêm tối lại bao bọc xung quanh. Cách miêu tả này đã diễn tả được tâm trạng chờ đợi chuyến tàu của chị em Liên và những người dân nơi đây. Liên và An háo hức chờ đợi chuyến tàu để được sống lại những ngày quá khứ tươi đẹp và cũng là để thoát khỏi trong giây lát cuộc sống đơn điệu đến đáng sợ. Chuyến tàu là cứu cánh tinh thần cho những con người nơi đây. - Hai chị em cố gắng đợi tàu vì: + Đợi tàu là đợi ánh sáng con tàu từ Hà Nội về mang theo. + Con tàu gợi nhớ kỷ niệm tuổi thơ: ngày bố còn đi làm, mẹ nhiều tiền được hưởng những thức quà ngon lạ, được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. + Đợi tàu là đợi những mơ tưởng. Với Liên, trong ký ức và hiện tại “Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo". + Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Thế giới ấy khác hẳn đối với cuộc đời của Liên, của dân nghèo phố huyện, khắc hẳn vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Câu 5 Video hướng dẫn giải Câu 5 (trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Anh chị có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam? Lời giải chi tiết: - Đây là một truyện ngắn miêu tả rất tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật (nhất là nhân vật Liên). Cách miêu tả này góp phần quan trọng vào việc tạo nên không khí cho tác phẩm. - Giọng văn nhẹ nhàng, điềm tĩnh, khách quan; lời văn bình dị nhưng luôn ẩn hiện một tình cảm xót thương đối với những con người nghèo khổ, phải sống quanh quẩn, lam lũ, tối tăm. Giọng văn góp phần tích cực vào việc tạo nên một truyện ngắn giàu sắc thái trữ tình và đậm chất thơ. - Truyện ngắn giàu sắc thái trữ tình và đậm chất thơ Câu 6 Video hướng dẫn giải Câu 6 (trang 101 SGK ngữ văn 11 tập 1) Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam muốn phát biểu tư tưởng gì? Lời giải chi tiết: - Qua bức tranh hiện thực phố huyện nghèo nhà văn thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với con người vô danh. Cuộc sống nghèo không đáng sợ bằng cuộc sống đơn điệu và tẻ nhạt, không ước mơ. Những con người nghèo khó nơi phố huyện ấy dù nhọc nhằn đến đâu cũng vẫn ước mơ và hy vọng. Họ vẫn dọn hàng, vẫn chờ khách dù biết bán hàng chẳng được bao nhiêu. Và họ đợi chuyến tàu với biết bao nhiêu hy vọng. - Qua việc tả cảnh kiên trì hàng đêm chờ tàu qua rồi mới dọn hàng, mới đi ngủ của những con người ấy, nhà văn muốn thể hiện một tư tưởng nhân văn. Đó là khẳng định sự bất diệt của khát vọng, ước mơ. Cuộc sống dù nghèo khổ, tăm tối và bế tắc đến đâu cũng không thể dập tắt được hy vọng và khát vọng của con người. Tác phẩm đã thể hiện tình thương yêu vô bờ và sự trân trọng của nhà văn đối với những thân phận nhỏ bé trong xã hội Luyện tập Câu 1 (trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Anh chị có ấn tượng sâu sắc nhất với nhân vật nào vơi chi tiết nghệ thuật nào trong truyện Hai đứa trẻ? Vì sao Trả lời: Truyện có nhiều nhân vật và chi tiết gợi ấn tượng sâu sắc. Có thể chọn: - Một trong các nhân vật: chị Tí, Liên, An, bác Siêu, bà cụ Thi,... - Một trong các chi tiết: đoàn tàu, bóng tối và ánh sáng, âm thanh, hình ảnh Hà Nội xa xăm trong tưởng tượng của Liên,... Điều quan trọng là đưa ra được những lý giải hợp lý. Lý giải cần gắn với chủ đề tư tướng của truyện. Câu 2 (trang 101 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Hãy nêu những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Thạch Lam qua truyện Hai đứa trẻ. Trả lời: Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam, điều đó thể hiện ở: - Những trang viết vừa đậm đà yếu tố hiện thực vừa phảng phất chất lãng mạn, chất thơ. - Đặc biệt, truyện tiêu biểu cho loại truyện tâm tình của Thạch Lam (cái tình người chân chất nhẹ nhàng thấm sâu khắp thiên truyện; tập trung chú ý tới thế giới nội tâm của nhân vật,lối kể chuyện thú thỉ như tâm sự với người đọc). Bố cục Video hướng dẫn giải Bố cục: 3 phần - Phần 1(từ đầu đến “nhỏ dần về phía làng”): Cảnh phố huyện lúc chiều tàn - Phần 2(tiếp theo đến “có những cảm giác mơ hồ không hiểu): Cuộc sống phố huyện khi đêm đến - Phần 3(đoạn còn lại): Cảnh đoàn tàu chạy qua phố huyện ND chính Video hướng dẫn giải
Loigiaihay.com KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG CÁC TRUYỆN NGẮNBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.45 KB, 15 trang ) HAI ĐỨA TRẺ lặng nội tâm nhân vật, tạo nên những co giãn KHÔNG GIAN giữa hai chiều: KHÔNG GIAN thực( Cái gợi ký ức) vào KHÔNG GIAN chiều sâu tâm lý ( những giấc mơ: Giấc mơ thức và giấc mơ ngủ) tạo nên sự day dứt giữa hiện thực và tâm trạng con người. KHÔNG GIAN về một Hà Nội tráng lệ trong Hai đứa trẻ vẫn gợi lại những ẩn ức đứt quãng, chỉ còn là những hình ảnh mơ hồ chồng lớp hiện về trong tưởng tượng ( giấc mơ thức): Một “ Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” được gửi về phố huyện trên con tàu đêm, để rồi khi con tàu đi qua KHÔNG GIAN hiện thực trở lại với những cảm nhận mơ hồ nửa tỉnh nửa mê ( sự dai dẳng của Hà nội) trong hiện tại: “ An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ đầy bí mật, xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi về mặt đất, về quãng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng chị Tý”. Với việc xây dựng một KHÔNG GIAN như vậy là nhà văn đã đưa lại cho chúng ta những ký ức về một KHÔNG GIAN tươi sáng nơi Hà Thành đã ám ảnh, lùi sâu vào vô thức bọn trẻ, khiến đôi mắt buồn trũng muốn yên giấc nhưng vẫn không sao dập tắt cái khao khát được chứng kiến con tàu đêm của An. Bởi lẽ chỉ có chứng kiến con tàu đêm, với ánh sáng điện mới khỏa lấp những mong muốn đang trỗi dậy trong sâu thẳm tâm trí An và nó đòi hỏi phải được giải tỏa. Vì vậy mặc dù rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mơ nhưng An vẫn cố mở to đôi mắt trước khi chìm sâu vào vô thức của giấc mộng mà với dặn Liên: “ Tàu đến chị đánh thức em dạy nhé”. KHÔNG GIAN tâm tưởng trong truyện được Thạch Lam đặt cạnh KHÔNG GIAN thực tại, gợi cảm giác hoài cổ về một nơi trong dĩ vãng . Ngoài ra trong tác phẩm có một KHÔNG GIAN đặc biệt nữa xuất hiện nữa là KHÔNG GIAN bóng tối, KHÔNG GIAN bóng tối có một giá trị rất lớn trong việc tạo ấn tượng cho người đọc. Hình ảnh cuộc sống và con người cứ chìm dần, khuất hẳn trong bóng tối. Nó gợi sự xót xa và thương cảm của người đọc dành cho những con người, những cuộc đời, những KHÔNG GIAN như thế. Bóng tối càng dày đặc, cảnh sống của con người càng thê lương theo cấp số cộng của cảnh đó thì lòng nhân đạo của nhà văn nhìn từ cảnh và người ấy cũng theo cấp số nhân mà phát triển lên. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng ta cũng bắt gặp KHÔNG GIAN của ánh sáng. Bảy lần nhà văn nhắc đến ánh sáng của các ngọn đèn “ Các nhà đã lên đèn cả rồi, đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách.” Nhưng ở đây không phải là ánh sáng xua tan đi bóng tối, mà đó là ánh sáng lẻ loi, đơn độc. Ánh sáng xuất hiện với mục đích là để làm nền cho bóng tối, làm cho bóng tối xuất hiện càng dày đặc hơn, bao trùm cả đất trời. Điều này càng giúp cho người đọc hình dung, cảm nhận được số phận đáng thương của người dân trong phố nghèo khổ, bế tắc, không có tương lai., càng giúp ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn đối với cuộc sống bất hạnh của con người. * THỜI GIAN NGHỆ THUẬT: Thời gian trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là một cảnh chiều tàn nơi phố huyện nghèo trôi đi rất chậm chạp, báo hiệu cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của những con người nơi đây. Cấu trúc KHÔNG GIAN lồng vào thời gian, dùng KHÔNG GIAN để đo thời gian là một trong những thành công nghệ thuật đặc sắc của Thạch Lam, thể hiện tài năng của tác giả trong việc cảm nhận tinh tế từng bước chuyển của thời gian trong tác phẩm. Có thể dễ dàng nhận thấy nhịp điệu thời gian trong tác phẩm diễn ra khá chậm: tác giả đã sử dụng thời gian văn bản trải dài trong 10 trang giấy để nói về thời gian cốt truyện trong mấy tiếng đồng hồ ( khoảng 6, 7 giờ). Thời gian trong Hai đứa trẻ được đo và cảm nhận bằng rất nhiều phương tiện khác nhau cả âm thanh, hình ảnh, KHÔNG GIAN. Ngay câu mở đầu tác phẩm thời gian buổi chiều tàn đã được cảm nhận bằng âm thanh của tiếng trống thu không “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”. Vậy là thời gian được đánh dấu bởi âm thanh của tiếng trống thu không “gọi” buổi chiều về. Và bước chuyển từ buổi chiều tà đến lúc chập choạng tối được báo hiệu bằng âm thanh quen thuộc của tiếng côn trùng kêu nơi phố huyện nghèo “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng”, tiếng vo ve của muỗi trước thời khắc của ngày tàn. Thời khắc đó cũng được đo bằng những hình ảnh của “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, và được lồng vào KHÔNG GIAN “ phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời”. Thời gian từ lúc hoàng hôn đến lúc sẩm tối và đêm khuya được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm và được thể hiện nhiều nhất qua hình ảnh của ánh sáng và bóng tối. Thạch Lam đã khéo léo sử dụng hình ảnh ánh sáng phát ra từ những ánh đèn leo lét nơi phố huyện trong nhà bác phở Mĩ, đèn dây sáng xanh trong các hiệu khách, đèn từ gánh hàng của mẹ con chị Tí… làm phương tiện để thông báo thời gian. Đối lập với ánh sáng là hình ảnh đêm tối giăng khắp toàn bộ tác phẩm. Chính hình ảnh bóng tối cũng được coi là một công cụ hữu dụng được nhà văn sử dụng khéo léo trong việc thể hiện thời gian trong tác phẩm. Như vậy có thể nhận thấy rằng thời gian cốt truyện của Hai đứa trẻ chỉ diễn ra trong vòng mấy tiếng đồng hồ từ lúc chiều tà đến khoảng 9 giờ tối nhưng Thạch Lam đã rất có ý thức trong việc sử dụng rất nhiều các phương tiện khác nhau để thể hiện khoảng thời gian ngắn đó. Thời gian nơi phố huyện nghèo dường như ngưng đọng vì sự trôi đi hết sức chậm chạp của những âm thanh nơi vùng quê nghèo, âm thanh của tiếng trống thu không gọi buổi chiều về, âm thanh xao xác xa xôi của cảnh chợ tàn… tất cả những thứ đó khiến ta cảm nhận thời gian trong tác phẩm giống như một sinh thể già cỗi, đánh giấu sự tàn lụi, già nua. Khi mặt trời sắp tắt, đó là cái giờ khắc của ngày tàn. Khi chợ vãn, tức là lúc sự hoạt động của con người đã hết, cũng là khi đêm đã khuya. Ngay trong thế giới con người, âm thanh cũng ít ỏi chẳng kém gì. Khi chợ vãn thì những tiếng ồn ào cũng mất theo bước chân của con người. Lúc trời nhá nhem tối, tiếng ồn ào nơi chợ búa cũng mất. Người ta trao đổi với nhau, nhưng có lời ma không có tiếng. Có chăng là tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi, một bà già hơi điên. Cảnh đêm nơi phố huyện tái hiện chân thực bức tranh cuộc sống nghèo nàn, đơn điệu, tẻ nhạt của những con người nơi đây. Bên cạnh đó, khoảng thời gian của ngày tàn cũng được thể hiện rõ nét qua KHÔNG GIAN ngập tràn bóng tối. Trong cái KHÔNG GIAN chứa đầy bóng tối ấy, sự hiện diện của ánh sáng càng làm bóng tối sẫm đen hơn và cuộc sống con người càng trở lên đơn điệu, tẻ nhạt. ĐẶC ĐIỂM KHÔNG GIAN - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN “CHÍ PHÈO” CỦA NAM CAO TRÊN BÌNH DIỆN THI PHÁP HỌC * KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT: Là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định (…). KHÔNG GIAN nghệ thuật gắn với cảm thụ về KHÔNG GIAN nên mang tính chủ quan. Ngoài KHÔNG GIAN vật thể có KHÔNG GIAN tâm tưởng. Do vậy, nó có tính độc lập tương đối, không qui được vào KHÔNG GIAN địa lý. * THỜI GIAN NGHỆ THUẬT: Là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật. Cũng như KHÔNG GIAN nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Khác với thời gian khách quan, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt đến tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vô tận. Nó được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác…tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm. 1. Thời gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” – Nam Cao 1.1. Độ dài thời gian Thời gian trần thuật trong truyện “Chí Phèo” được gói gọn trong khoảng thời gian sáu ngày từ buổi chiều vừa đi vừa chửi “cũng như chiều nay hắn chửi” và “năm ngày chẵn” ở bên Thị Nở đến buổi sáng giết Bá Kiến rồi tự sát. Đây cũng chính là khoảng thời gian ý thức về tuổi tác, về nhân tính vốn âm ỉ bấy lâu trong con người Chí Phèo bỗng dưng trỗi dậy. Ước mơ ngày xưa hiện về. Và hơn bao giờ hết, lúc này Chí Phèo thèm lương thiện, khát khao được làm người lương thiện. Thế nhưng, khi ánh sáng lương tri còn sót lại vừa lóe lên thì chỉ trong thời gian ngắn ngủi đã bị dập tắt phũ phàng. Sức tố cáo của tác phẩm nhờ vậy trở nên thật mạnh mẽ. 1.2. Chiều hướng, trật tự thời gian 1.2.1. Thời gian đa chiều Một trong những sở trường của Nam Cao là lối kết cấu văn bản thoạt nhìn rất tự do, phóng túng nhưng kì thực hết sức chặt chẽ. Văn bản truyện “ Chí Phèo” được tổ chức theo nguyên tắc gián đoạn về thời gian. Chính sự gián đoạn này cho ta cảm giác về một lối kể tự nhiên, phóng túng rất hiện đại. Truyện “Chí Phèo” chủ yếu kể về những điều đang diễn ra (gắn với thì hiện tại). Cách mở đoạn thường gắn với sự định vị thời gian: “Thì năm nay lại nảy ra Chí Phèo…”, “Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi…”, “Hắn cứ chửi như chiều nay hắn chửi…”, “Bây giờ thì chúng ngủ bên nhau…”, “Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh…”. Toàn bộ cuộc đời Chí Phèo được kể trong câu chuyện này nhưng trong quá trình thuật lại câu chuyện, trình tự thời gian luôn luôn được thay đổi rất linh hoạt với sự đan xen giữa hiện tại, quá khứ, tương lai. Tuy nhiên, sự đảo lộn trật tự thời gian tuyến tính trong truyện “Chí Phèo” không hề phá vỡ tính liền mạch của câu chuyện. Ngược lại nó còn có tác dụng gia tăng tính tuần tự, tính nối kết chặt chẽ của các tình tiết nghệ thuật. Chẳng hạn đoạn mở truyện tả tiếng chửi của Chí Phèo được khép lại bằng câu: “A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi (…) Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết…”. Cả đoạn văn tiếp theo là thời gian quá khứ với câu chuyện “ anh thả ống lươn” đã nhặt được Chí Phèo như thế nào. Như vậy, rất tự nhiên, câu chuyện quá khứ – tuổi ấu thơ của Chí Phèo đã trả lời lập tức những câu hỏi vừa buông ra ngay cuối đoạn văn trước đó. Bất cứ giữa hai đoạn văn kể về những thời điểm khác nhau nào trong tác phẩm, ta cũng dễ dàng tìm ra mối liên hệ rất logic như trên. Từ quá khứ xa thuở ấu thơ, Nam Cao kể tiếp đến quá khứ gần của Chí “năm hai mươi tuổi – hắn làm canh điền cho ông lí Kiến” rồi Chí “phải đi tù”, “hắn đi biệt đến bảy, tám năm, rồi một hôm, hắn lại lù lù ở đâu lần về”. Câu chuyện quá khứ khép lại, nhà văn khéo léo đưa người đọc trở về với cuộc sống hiện tại của Chí. Nam Cao chú ý đặc biệt tới thời gian hiện tại, một cái thời gian hiện tại không bị chìm đi trong quá khứ, cũng không bị mờ đi vì ảo ảnh của tương lai mà hiện ra rõ ràng hơn, cụ thể hơn, sinh động hơn, sâu sắc hơn vì mang theo cả cái chiều dài và bề sâu thăm thẳm của quá khứ, hiện tại và tương lai cộng lại. Hiện tại như gợi lại những hình ảnh của quá khứ. Đoạn kết tác phẩm “Chí Phèo”, khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng, trong óc thị thoáng hiện ra cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại. Ở đây, hiện tại, quá khứ soi sáng cho nhau, tạo nên sự cộng hưởng về cảm xúc và ấn tượng cho người đọc. Theo dõi câu chuyện ta thấy, cuộc đời của Chí Phèo không được trình bày một cách rành mạch, cụ thể về mặt thời gian. Điều này tưởng như vô lý nhưng lại rất hợp lý vì bản thân Chí Phèo cũng không ý thức được rành mạch về tuổi tác của mình: “ Bởi vì ngay đến cái thẻ có biên tuổi hắn cũng không có…Hắn nhớ mang máng rằng có lần hắn hai mươi, rồi hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hăm nhăm không biết có đúng không? ” Nói về thời gian, Nam Cao đã cố tình làm sai trật tự niên biểu bằng cách dùng những từ “mang máng, hình như, hay là…” đều rất mơ hồ, khó xác định. Đây chính là dụng ý nghệ thuật của tác giả bởi suốt cuộc đời Chí là một cuộc vật lộn rối rắm cố tìm lối thoát. Chí Phèo như mắc vào một tấm lưới, càng cố giãy càng vướng như Nguyễn Du từng nói: “Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi” (Truyện Kiều). 1.2.2. Thời gian hồi tưởng – tâm tưởng Trong nhiều tác phẩm của mình Nam Cao đã sử dụng phạm trù “hồi tưởng” như là một yếu tố của thời gian nghệ thuật. Như ta đã biết, hồi tưởng thường xuất hiện trong quá trình sáng tạo tác phẩm theo quy luật tương phản hoặc theo nguyên tắc liên tưởng. Trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao, hồi tưởng hiện ra từ từ, không cố ý, ngỡ như vô tình thậm chí ngay cả khi nhà văn chủ tâm đi vào thế giới hồi tưởng của nhân vật. Nó tạo ra khả năng đối chiếu giữa quá khứ và hiện tại, có thể nhìn thấy những viễn cảnh, những chu tuyến của tương lai. Chí Phèo đối diện với cảnh sống hiện tại, cảnh vật ngày hôm nay như khêu gợi kỷ niệm của ngày qua. Mơ ước xưa hiện về: “ Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải.” Tất cả chỉ làm tăng thêm nỗi buồn chán, khổ đau, nước mắt. Thời gian như là người bạn đường của sự khổ đau. Có thể nói, trong nhiều sáng tác của Nam Cao, nhân vật vô hình chủ yếu là thời gian đã mất. Hầu như trong mỗi tác phẩm của ông đều tồn tại “nhân vật” vô hình này hoặc là hàm ý sự có mặt của nó. Với tư cách là nhà văn hiện thực, Nam Cao ý thức sâu sắc được tính không đảo ngược của thời gian. Nhiều nhân vật thuộc những tầng lớp xã hội khác nhau của ông đều nhìn thấy thời gian trôi đi một cách tàn nhẫn. Họ suy ngẫm về thời gian với sự xúc động, với niềm nuối tiếc, với tình cảm đắng cay của sự mất mát không gì bù đắp nỗi. Đối với Chí Phèo, thời gian không chỉ tàn phá nhân hình mà còn hủy hoại cả nhân tính và tâm hồn con người: “Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người: nó là mặt một con vật lạ”. Những cơn say vô tận, những việc “ ức hiếp, phá phách, đâm chém., mưu hại, người ta giao cho hắn làm” là chính cuộc đời hắn; cuộc đời mà “hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi”. Hắn đã mất ý thức về thời gian. Nhưng sau lần gặp Thị Nở, tình cảm tự nhiên và sự săn sóc tận tình của người đàn bà tội nghiệp này đã góp phần đánh thức ý thức về nhân phẩm và cùng với nó là ý thức về thời gian của Chí Phèo: “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời!”. 1.3. Nhịp điệu, sự vận động của thời gian Trong truyện “Chí Phèo”, nhịp điệu thời gian có khi chậm lại bởi những đoạn suy tư và hồi tưởng của Chí về thời quá khứ. Nhưng cũng có khi thời gian lại vận động rất nhanh. Từ hồi mới đi tù về “hồi ấy hắn mới đâu hăm bảy hay hăm tám…” vậy mà “bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?”. Thời gian trôi đi vun vút cũng để lại trên mặt Chí không biết bao nhiêu vết sẹo “nó vằn dọc, vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ, kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ là làm sao nổi?”. Trước bước đi quá nhanh của thời gian, Chí bàng hoàng, thảng thốt: “Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu…”. Như vậy, sự vận động của thời gian ở đây cho ta thấy được quá trình tha hóa về nhân tính lẫn nhân hình diến ra ở nhân vật Chí Phèo hết sức nhanh chóng. 2. KHÔNG GIAN nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” – Nam Cao 2.1. KHÔNG GIAN làng Vũ Đại Khác với nhiều truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, “Chí Phèo” có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra trên cả bề rộng KHÔNG GIAN (một làng quê). Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến nông thôn Việt Nam đương thời. Vị trí “ xa phủ, xa tỉnh” chính là điều kiện tốt để bọn cường hào hoành hành, thống trị, áp bức, đè nén nhân dân. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế “quần ngư tranh thực” như lời ông thầy địa lí nào đó nói “hồi năm nọ” nên bọn cường hào làng này chia thành năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà chính là do bọn chúng “chỉ là một đàn cá tranh mồi” , “mồi thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt thì tử tế với nhau nhưng trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ ”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung nhận xét: “ Không khí truyện “Chí Phèo” tuy không sôi sục náo động như trong “Tắt Đèn” nhưng là bầu không khí có tích địện trước lúc giông bão”. Có thể nói, không khí oi nồng, ngột ngạt đã bao trùm lên toàn bộ thiên truyện và bao trùm lên cả làng Vũ Đại. KHÔNG GIAN làng Vũ Đại đã thể hiện rõ giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. 2.2. KHÔNG GIAN túp lều ven sông Túp lều ven sông – tài sản duy nhất của Chí Phèo được miêu tả với KHÔNG GIAN: “ẩm thấp” và ánh sáng “ hơi lờ mờ”. “Ở đâu người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Túp lều ấy “Ở gần một con sông con, nước lặng và trong, khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo nhau thành làn”. Khu vườn nhà hắn có một lối đi nhỏ ra sông “trước kia, cả xóm vẫn dùng cái ngõ ấy để ra sông tắm giặt hay kín nước. Nhưng từ khi hắn đến người ta thôi dần, tìm một lối đi khác xa hơn”. Như vậy, KHÔNG GIAN sống của Chí Phèo đã hoàn toàn bị cô lập, bị tách ra hẳn KHÔNG GIAN sống của loài người. KHÔNG GIAN ấy thật đẹp, thật lãng mạn: “những đêm trăng (…) cái vườn phẳng ngổn ngang những bóng chuối đen đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi” nhưng cũng có gì đó lạnh lẽo, rợn ngợp bởi thiếu vắng hơi thở của sự sống con người. 2.3. KHÔNG GIAN đêm trăng KHÔNG GIAN đêm trăng nơi bờ sông gần nhà Chí Phèo được Nam Cao miêu tả thật hữu tình với: “Những tàu chuối đen nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lạy giãy lên đành đạch như là hứng tình”. “Trăng tỏa trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng”. Khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, tuyệt thơ mộng thường được dùng làm bối cảnh cho các mối tình lãng mạn. Vậy mà ở đây, Nam Cao đã để Chí Phèo gặp Thị Nở - người đàn bà “ngẩn ngơ, dở hơi, xấu xí” dưới thiên nhiên vô tư, trong trẻo đầy thi vị ấy. Phải chăng, đây chính là tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Nam Cao đã dành cho cuộc gặp gỡ của đôi trai gái “ khốn khổ” những trang văn thấm đẫm chất thơ. Thì ra, trong mắt ông, những con người bị cả xã hội loài người xa lánh, hắt hủi vẫn có thể đến được với nhau và cuộc gặp gỡ giữa họ vẫn đầy lãng mạn thi vị như bao lứa đôi khác. 3. Sự kết hợp giữa KHÔNG GIAN và thời gian nghệ thuật trong “Chí Phèo” KHÔNG GIAN và thời gian nghệ thuật trong truyện “Chí Phèo” nhiều khi lẫn vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Hình ảnh KHÔNG GIAN: “Cái lò gạch bỏ không” xuất hiện ở đầu truyện hoàn toàn trùng khít với thời gian Chí Phèo ra đời “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp”. Sự kết hợp, chuyển hóa này một lần nữa được lặp lại ở cuối truyện tạo nên kết cấu vòng tròn luẩn quẩn góp phần thể hiện rõ qui luật tàn bạo của xã hội phong kiến đương thời. Nếu xã hội ấy còn tồn tại những kẻ cường hào, thống trị kiểu Bá kiến và Lí Cường và chúng còn ra sức áp bức, bóc lột thậm tệ thì vẫn còn những người dân lành bị đẩy vào con đường lưu manh, tha hóa như Chí Phèo. C. KẾT LUẬN Là một nghệ sĩ bậc thầy, Nam Cao đã sử dụng linh hoạt các yếu tố thời gian và KHÔNG GIAN trong truyện ngắn “Chí Phèo”. KHÔNG GIAN và thời gian nghệ thuật ở đây luôn được mở ra nhiều chiều nhờ những hồi tưởng, ước mơ và suy tưởng của nhân vật. Câu chuyện về cuộc đời Chí Phèo từ thời hiện tại có thể quay về quá khứ hoặc hướng tới tương lai, thậm chí có khi xáo trộn cả KHÔNG GIAN với thời gian. Điều đó làm cho truyện “Chí Phèo” nói riêng và sáng tác của Nam Cao nói chung mới thoạt nhìn bề ngoài tưởng như rất phóng túng, tùy tiện nhưng thực ra lại rất chặt chẽ. Nó cho thấy sự buông bắt rất nhịp nhàng của tác giả. CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà tù - một "trại giam tối om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ" và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõ hơn số phận những con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa bóng tối mịt mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một "ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói nhưng không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở một nơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối. Trong thế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới riêng của mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ huyền bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút... Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là "đang băn khoăn ngồi bóp thái dương", với một ngoại hình mòn mỏi, cô đơn "tóc hoa râm, râu đã ngả màu"(3). Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ(4). Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tạo lập bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một không gian nền đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đến một thái độ ứng xử đẹp. Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợp vô cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, khinh thế ngạo vật bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách, vì quý trọng một tài năng, xót xa một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng lên từ hai phía đối lập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử, hai mặt của cuộc sống. Chính công việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là công cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một nỗi cô đơn không kẻ tỏ bày, không người tri âm tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông bên ngoài tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa của Nguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có cơ hội bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng tình huống cho phút giây bừng sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - ở sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, trong "cảnh cho chữ", “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn "phi cốt truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên phong cách riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và bóng tối được tác giả sử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong các chi tiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm. Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian nghệ thuật đặc trưng xuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan xen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời"(5). Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời điểm khác nhau: lúc hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối đến họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng" hàng ngày họ nếm trải. Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc đáo, gây nhiều ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ bao la như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ "siêu cảm giác" bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện tại Liên đang sống - "một vùng sáng rực và lấp lánh"(6). Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻkhi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ "khát thèm được chiếu sáng và được đổi thay"(7) của hai đứa trẻ và những người dân nơi đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng của tác phẩm vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa tượng trưng. Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật văn hóa của dân tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một nhân cách đẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng được kết thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản chất con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm nổi bật ba loại ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện - những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo lét, những hột sáng... tượng trưng cho số phận mòn mỏi của những con ngưòi nơi đây; b) Ánh sáng đô thị - vừa là quá khứ, vừa là tương lai, là miền mơ ước của hai đứa trẻ; c) Ánh sáng con tàu ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại (ánh sáng phố huyện) về quá khứ (ánh sáng đô thị), rồi hướng tới tương lai (ánh sáng đô thị). Từ đây ánh sáng, bóng tối không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu tượng, biểu tượng của ước mơ, của khát khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tối cũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ. Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn chương nó đã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây dựng tình huống truyện, được sử dụng như một tình tiết nghệ thuật đặc sắc. So sánh hai tác phẩm để thấy sự giống nhau và khác nhau trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà văn và giá trị nghệ thuật to lớn của tác phẩm. Từ đó có thể khắc họa rõ hơn diện mạo của tác giả, tác phẩm, xác lập một cách thức tiếp cận văn bản không phải chỉ từ chính nó mà bằng liên văn bản. Điều này không nằm ngoài mục đích khám phá các vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm văn chương khiến nó luôn mới mẻ, lấp lánh nhiều giá trị. a. Tính chất éo le của tình huống này: * Không gian và thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ: -Không gian là nhà tù, nơi chứa đựng những cái xấu xa, tăm tối, những cặn bã của xã hội. Hơn nữa nhà tù không phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ, nên cuộc gặp gỡ này là bất ngờ, éo le. -Thời gian: là những ngày cuối cùng của cuộc đời Huấn Cao trước khi ông phải ra pháp trường chịu án chém. => Không gian và thời gian như thế đã góp phần tạo nên kịch tính cho tình huống. CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT Nói tới cái nhìn nghệ thuật người ta thường nhấn mạnh quan niệm chủ thể sáng tạo đối với hiện thực mà anh ta phản ánh. Nó quyết định cách thức thể hiện của tác phẩm. Cái nhìn là cái nhìn của chủ thể sáng tạo, mang đậm dấu ấn cá nhân độc đáo của anh ta. Cùng một đối tượng thẩm mỹ nhưng mỗi người với cái nhìn riêng sẽ tạo nên hình tượng nghệ thuật mang quan niệm, giá trị thẩm mỹ riêng. Khác điểm nhìn nghiêng về phương thức, phương tiện khám phá chỉ vị trí, chỗ đứng mà tác giả (hoặc người trần thuật, nhân vật) nhìn, miêu tả sự vật, cái nhìn nghệ thuật là điều kiện tiên quyết tạo nên những khám phá mới mẻ ở đối tượng của nhà văn. Dù nhân vật giữ vị trí trung tâm nhưng mọi khía cạnh liên quan đến con người đều trở thành đối tượng nhận thức, phản chiếu cái nhìn nhà văn vào đó. Mối tình Kim Trọng Thúy Kiều cho thấy cái nhìn vượt chuẩn của Nguyễn Du về tình yêu. Cái nhìn ấy quy định các hình tượng được miêu tả trong tác phẩm. Tình yêu vượt chuẩn đòi hỏi nhân vật phải phá chuẩn: “Xắn tay mở khóa động đào/ Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai”, hay “Cửa ngoài vội rủ rèm the/ Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Không có cái nhìn phi chuẩn, Truyện Kiều khó vượt qua phong cách thời đại ghi dấu ấn cá thể với bạn đọc mọi thời đại. Mộng liên đường chủ nhân khi viết lời tựa đã tinh tế nhận ra nét đẹp mới lạ của Truyện Kiều nhờ sáng tạo Tố Như tử: “Truyện Thúy Kiều chép ở trong lục Phong tình, ta không cần bàn làm gì. Lục Phong tình cũng đã cũ rồi, Tố Như tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịnh ra quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh, thành ra cái lục Phong tình thì vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng Đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy” [3; tr.4]. Cái nhìn Nguyễn Du thấm đẫm chữ tình, tấm lòng thương tiếc người tài tình và số phận con người ở cõi trăm năm. Đạt đến cái nhìn thâm thúy như thế không phải chuyện dễ. Truyện Kiều trở thành bộ bách khoa thư về tâm trạng, tình cảm, số phận con người là vậy: “Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”[3; tr.5]. Chi tiết nghệ thuật là nơi cái nhìn nghệ thuật được cụ thể hóa. “Tác giả thể hiện trong văn mạch của tác phẩm, tuy tác giả vô hình nhưng ta luôn luôn thấy con mắt của tác giả đặt vào các chi tiết” [8; tr.66]. Việc lựa chọn, phân tích, nhấn mạnh chi tiết này, lướt qua chi tiết kia tức là nhà văn đã gián tiếp thể hiện quan niệm của mình. Nhìn chung, cái nhìn nghệ thuật là sản phẩm của mỗi người, là bình diện quan trọng làm nên phong cách nhà văn. Hình tượng tác giả vốn vô hình nên cái nhìn nghệ thuật cũng mờ ảo. Song, tác phẩm văn học, sáng tạo văn chương không thể thiếu cái nhìn nghệ thuật bởi “đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ, phong cách không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn” (Macxen Pruxt) [8; tr.109]. Sáng tạo văn chương nghệ thuật thực chất là sáng tạo cái nhìn nghệ thuật. Truyện ngắn về đề tài lịch sử (như Nguyễn Huy Thiệp) thực chất là sáng tạo cái nhìn đối với vấn đề quen thuộc tạo ấn tượng mới lạ trong cách tiếp nhận. Nghệ thuật luôn đi lên từ cái nhìn chân chính. Đúng như thế, nói đến nghệ thuật ta không thể không nhắc đến cuộc sống vì hai thứ ấy luôn gắn liền với nhau. Hai nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Minh Châu tuy viết hai tác phẩm ở hai giai đoạn khác nhau nhưng họ cùng hướng đến quan niệm về nghệ thuật.Quan niệm đó được thể hiện qua hình tượng hai nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa và Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Hai nhà văn đã xây dựng lên hai nhân vật có nhiều nét tương đồng một cách trùng hợp và tài tình. Cũng nhờ như thế mà hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người đều được họ tìm thấy và nâng tầm giá trị.Đầu tiên là Nguyễn Minh Châu, ông được xem là một trong những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, văn của ông giản dị mà sâu sắc, thấm thía nhiều dư vị về cuộc đời, thấm đẫm nghệ thuật,cái mà ông luôn xem là bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Cũng nhờ như thế mà nhân vật Phùng đã ra đờiqua chính ngòi bút của ông.Phùng là một nhiếp ảnh gia, theo lời đề nghị của trưởng phòng, ông phải chụp một bức ảnh để đăng cho bộ lịch cuối năm, sau nhiều ngày lao lực tìm kiếm, anh bắt gặp một hình ảnh chiếc thuyền đang từ từ ghé vào bờ trong một buổi sáng sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào.Quá thăng hoa trong cảm xúc khi khám phá ra được một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, anhnhanh chóng bấm máy liên thanh và có những bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật. Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu, một người đồng đội cũ nay là chánh án toà án huyện, với người phụ nữ khốn khổ kia, Phùng mới vỡ lẽ ra rằng, người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận đòn của chồng và không chịu giải phóng là vì tình yêu vô bờ bến đối với những đứa con. Phùng căy đắng nhận ra rằng, đằng sau cảnh đẹp như mơ kia là bao ngang trái, éo le của đời thường mà anh chưa hiểu hết. Trưởng phòng rất hài lòng về tấm ảnh. Mãi về sau, nó vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất và những gia đình sành nghệ thuật. Nhưng mỗi khi nhìn kỹ bức ảnh, cảm xúc của anh luôn lẫn lộn trào dâng.Tình huống được tạo nên từ ngòi bút của ông là sự tương phản giữa nghệ thuật và cuộc sống, nghệ thuật thì ở ngoài xa còn cuộc đời thì lại thật gần, nghệ thuật thì đẹp nhưng cuộc đời sao đầy rẫy bao ngang trái. Ông cho người đọc thấy được cái nhìn đa diện, nhiều chiều về cuộc sống, chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, về cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bàhàng chài, từ đó ông gợi mở những vấn đề mới vô cùng triết lý cho sáng tạo và nghệ thuật.Tiếp đến là Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử, ông có rất nhiều đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch, một trong những vở kịch để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài mà thông qua nhân vật Vũ Như Tô ta càng thấy được mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống.Vũ Như Tô được biết đến qua tác phẩm của ông là một kiến trúc sư thiên tài và đam mê nghệ thuật, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Nhưng ông là một nghệ sĩ có nhân cách và có lý tưởng nghệ thuật hết sức cao đẹp, không phải là người ham sống sợ chết hay chỉ vì chút công danh mà phải bán thân mình cho nghệ thuật. Lúc đầu, ông nhất định thà chết chứ không xây dựng Cửu Trùng Đài cho tên vua bạo ngược, nhưng khi nhận ra giá trị nghệ thuật để lại cho đời thì ông lại quên mất một thực tế là dân chúng đang đói khổ.Cửu Trùng Đài càng xây cao bao nhiêu thì mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của nhân dân ngày càng tăng lên bấy nhiêu. Vũ Như Tô càng quyết tâm xây dựng Cửu Trùng Đài thì các mâu thuẫn ngày càng theo đó mà khó giải quyết và Đan Thiềm càng khuyến khích Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài thì xung đột giữa người nông dân và con người nghệ thuật ngày càng tăng cao. Có thể nói đó là một khát vọng hết sức chân chính nhưng nó được đặt không đúng chỗ , không kịp thời, không tính đến giá trị cuộc sống thì nghiễm nhiên chính nó sẽ tự trở thành tai họa. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là phạm nhân và cũng vừa là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm mặc dù được giải quyết nhưng không được thõa đáng. Vũ Như Tô bị giết mặc dù trong thâm tâm ông không hề có ý định hại dân, khi chết ông vẫn chưa nhận ra được sai lầm của mình.Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ thuật cao siêu thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của nhân dân.Cả hai tác phẩm này đều xây dựng lên một nhân vật hết lòng đam mê nghệ thuật nhưng chỉ vì chưa thấy rõ sự đối lập mà dẫn đến những kết cục đáng buồn. Nghệ sĩ Phùng đã thấy được mặt trái của sự việc và đãkịp thời sửa sai nhưng Vũ Như Tô phải lấy cả cái giá của nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình. Tuy được viết vào hai bối cảnh xã hội khác nhau, văn hóa mà đối tượng tồn tại khác nhau và phongcách của hai nhà văn cũng hoàn toàn khác nhau, nhưng họ đều có một điểm chung đã lật ra lá bài của nghệ thuật. Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng thì chỉ đem lại bi kịch thảm khốc như của Vũ Như Tô hay cái nhìn phiến diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống nhưng không phải lúc nào nó cũng đẹp. Đằng sau của tấm huy chương rạng rỡ luôn gồ gề và nhiều khuyết điểm. Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống, nghệ thuật xa rời cuộc sống chỉ là nghệ thuật suông, không xứng đáng là nghệ thuật chân chính, đều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, hiểu nó trên nhiều phương diện. Nghệ sĩ chân chính cũng giống như nghệ thuật chân chínhvà nghệ thuật luôn phải vì nhân sinh không chỉ bó hẹp nghệ thuật vì nghệ thuật.Như Tố Hữu đã từng tâm sựNhân dân là bểVăn nghệ là thuyềnThuyền xô dóng dậySóng đẩy thuyền lênCả hai nhà văn đã cho ta nhận thức được cái đẹp của nghệ thuật như thế nào, con đường tìm kiếm, đi đến và chinh phục nghệ thuật sẽ ra sao. Tuy không đem lại kết cục như mong đợi nhưng hai nhà văn dường như đã bộc lộ hết vẻ tài tình qua những lời văn của mình. Ngôn ngữ điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn từ và hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, đó chính là cái tài mà không dễ ai có được. Và cũng nhờ nghệ thuật chân chính mà cái tài đó càng thêm sâu sắc hơn, thấm đẫm với chúng ta hơn.Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:• cuộc sống của cung nữ• so sanh nhan vat phung voi 1. SOẠN BÀI HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM, ngắn 1A. KIẾN THỨC CƠ BẢN I. Tác giả: 1. Cuộc đời - Thạch Lam (1910 – 1942), bút hiệu của Nguyễn Tường Vinh (về sau đổi thành Nguyễn Tường Lân) là nhà văn thuộc nhóm Tự lực văn đoàn. Ông sinh trưởng trong một gia đình công chức gốc quan lại ở Hà Nội. 2. Sự nghiệp - Tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1937), Sợi tóc (1942). 3. Phong cách - Ông luôn dành sự chú ý cho việc khai thác tâm trạng nhân vật. Do vậy, cốt truyện trong tác phẩm của ông thường lỏng lẻo. tình. 4. Quan niệm của Thạch Lam về văn chương. – Thạch Lam quan niệm “Có hai lối quan sát: một lối quan sát bề ngoài và một lối quan sát bề trong. Trông bề ngoài thì chỉ thấy được cái trạng thái sự vật của một cảnh tượng (...) Người ta có thể tập nghe cho tinh tường, tập trông cho chu đáo, nhưng không có con mắt của linh hồn thì không bao giờ soi thấu được cái bí mật của tâm lí”. II. Tác phẩm "Hai đứa trẻ" 1. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời 2. Các ý kiến đánh giá về tác phẩm 3. Cốt truyện 4. Sự tinh tế của Thạch Lam qua đoạn văn: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào... Liên ngồi yên lặng... Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. 5. Nhân vật a) Số lượng và nghề nghiệp: b) Đặc điểm của nhân vật trung tâm c) Vai trò và vị trí của đôi mắt và tâm hồn nhân vật . d) Thế giới nhân vật nữ 6. Nghệ thuật đảo ngược thời gian 7. Nghệ thuật đối thoại 8. Mùi vị 9. Ánh sáng b) Ánh sáng kí ức c) Ánh sáng con tàu d) Tương phản ánh sáng - bóng tối 10. Những đặc sắc nghệ thuật 11. Niềm tin của Thạch Lam vào một cuộc sống tốt đẹp 12. Khám phá mới của Thạch Lam so với các nhà văn hiện thực ---------------------HẾT BÀI 1-------------------- Thực hành thành ngữ, điển cố là bài học nổi bật trong Tuần 6 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 11, học sinh cầnSoạn bài Thực hành thành ngữ, điển cố, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK |