Đánh giá nghiên cứu dịch tễ học năm 2024
Chiều 7/6, tại Sở Khoa học và Công nghệ, Hội đồng khoa học cấp tỉnh tổ chức xét duyệt thuyết minh đề tài khoa học “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến bệnh ung thư vú ở phụ nữ tại Hà Tĩnh” do Thầy thuốc Nhân dân, bác sỹ Nguyễn Viết Đồng – Phó Giám đốc Sở Y tế, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh chủ nhiệm đề tài cùng nhóm nghiên cứu Bệnh viện đa khoa tỉnh. Bác sĩ Lê Ngọc Châu, Chủ tịch hội đồng khoa học chuyên ngành cấp tỉnh, Giám đốc Sở Y tế chủ trì; tham dự còn có ông Đỗ Khoa Văn, đại diện cơ quan quản lý đề tài, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ và các thành viên trong Hội đồng Khoa học nghiệm thu đề tài. Show Đề tài nghiên cứu với mục tiêu xác định đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến bệnh ung thư vú ở phụ nữ và đề xuất các giải pháp để phòng ngừa, kiểm soát bệnh ung thư vú ở phụ nữ Hà Tĩnh. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, Ung thư là sự tăng trưởng không được kiểm soát và sự xâm lấn lan rộng của tế bào. Ung thư là bệnh ác tính của tế bào, khi bị kích kích bởi các tác nhân gây ung thư thì tế bào tăng sinh một cách vô hạn, không tuân theo các cơ chế kiểm soát về phát triển của cơ thể. Để chẩn đoán ung thư vú thì có 3 phương pháp chính là khám lâm sàng, phân tích tế bào học và chụp X.quang tuyến vú. Bệnh ung thư vú có thể điều trị khỏi nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm. Theo đề cương thuyết minh, nhóm nghiên cứu sẽ thực hiện tại 262 xã, phường, thị trấn trên địa bàn toàn tỉnh, với 1.261.288 người và 365.042 hộ dân; đối tượng nghiên cứu là phụ nữ từ 35 đến 75 tuổi, đang sinh sống và làm việc tại Hà Tĩnh hoặc ít nhất là 06 tháng tính đến thời điểm điều tra, thời gian nghiên cứu thực hiện từ tháng 6 năm 2017 đến tháng 12 năm 2018, được chia theo 2 giai đoạn nghiên cứu gồm: giai đoạn nghiên cứu cắt ngang để mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng ở phụ nữ mắc ung thư vú tại Hà Tĩnh và giai đoạn nghiên cứu dịch tễ học phân tích, nghiên cứu bệnh chứng để đánh giá các yếu tố liên quan. Các ủy viên phản biện, ủy viên hội đồng khoa học chuyên ngành cấp tỉnh phát biểu tại hội nghịTại hội nghị, các đồng chí trong ủy viên phản biện, ủy viên hội đồng khoa học chuyên ngành cấp tỉnh và các đại biểu tham dự đánh giá cao sự chuẩn bị công phu của nhóm nghiên cứu, đề cương rất rõ ràng chi tiết, bám sát nội dung nghiên cứu, nội dung nghiên cứu có tính thống nhất, phong phú, có giá trị và ý nghĩa khoa học thiết thực, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, góp phần vào việc thực hiện tốt công tác loại trừ bệnh ung thư và các bệnh không lây nhiễm trên địa bàn hiện nay. Bác sỹ Lê Ngọc Châu - TUV - Giám đốc Sở Y tế, Chủ tịch HĐKH chuyên ngành cấp tỉnh phát biểu kết luận hội nghịPhát biểu kết luận hội nghị, Bác sỹ Lê Ngọc Châu – TUV – Giám đốc Sở Y tế, Chủ tịch Hội đồng khoa học chuyên ngành cấp tỉnh đánh giá cao công tác chuẩn bị cũng như tính cấp bách, cần thiết của nghiên cứu đối với bệnh ung thư vú của Phụ nữ tại Hà Tĩnh hiện nay, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn được đối tượng để nghiên cứu phù hợp, chọn lọc được phương pháp nghiên cứu có tính thực tiễn. Đồng thời đề nghị nhóm nghiên cứu cần bổ sung một số nội dung chưa rõ mà các ủy viên hội đồng nêu ra tại hội nghị; xem xét lại thời gian thực hiện nghiên cứu để đảm bảo được yêu cầu, đồng thời hoàn chỉnh sớm đề cương nghiên cứu trình Sở KHCN phê duyệt. Đồng chí Đỗ Khoa Văn, Giám đốc Sở KHCN: Nghiên cứu có tính chất rất cấp thiết, mong rằng sau nghiên cứu sẽ trở thành cẩm nang để tuyên truyền về phòng chống bệnh ung thư cho phụ nữKết quả đề cương nghiên cứu đạt 638 điểm, điểm trung bình chung 91.1 điểm; đạt yêu cầu đề ra và cho phép triển khai thực hiện nghiên cứu. Các nghiên cứu quan sát mà mục đích chủ yếu là xác lập một mối liên quan (sự kết hợp) giữa một “yếu tố nguy cơ” (tác nhân bệnh căn) và một kết cuộc (bệnh) được gọi là phân tích. Với loại nghiên cứu này, kiểm định giả thuyết là công cụ chủ yếu của suy diễn. Các tiếp cận cơ bản trong nghiên cứu phân tích là phát triển một giả thuyết chuyên biệt, có thể kiểm định được và thiết kế nghiên cứu để kiểm soát bất cứ biến số bên ngoài nào có thể tiềm tàng gây nhiễu mối liên quan quan sát giữa yếu tố được nghiên cứu và bệnh. Cách tiếp cận thay đổi tùy vào chiến lược cụ thể được sử dụng. Nghiên cứu bệnh-chứngChiến lược phân tích đơn giản và phổ biến nhất trong dịch tễ học liên quan đến nghiên cứu bệnh-chứng. Nghiên cứu này được thiết kế chủ yếu để xác lập nguyên nhân bệnh qua điều tra mối liên quan giữa phơi nhiễm với một yếu tố nguy cơ và sự xuất hiện bệnh. Thiết kế là khá đơn giản ngoại trừ việc tìm ngược (hồi cứu) dựa trên tiền sử phơi nhiễm của ca bệnh và chứng. Với nghiên cứu này, ta điều tra một sự kết hợp bằng cách đối chiếu phơi nhiễm của một loạt ca mắc một bệnh nhất định với phơi nhiễm của nhóm chứng được lựa chọn cẩn thận không mắc bệnh kể trên (Hình [fig:case-control]). Dữ kiện được phân tích để xác định liệu phơi nhiễm có khác biệt giữa ca bệnh và ca chứng. Yếu tố nguy cơ là một điều gì đó đã xảy ra hoặc bắt đầu từ trong quá khứ, giả định là trước khi khởi bệnh, v.d. hút thuốc lá, hay một nhiễm trùng hoặc điều trị trước đây. Thông tin về phơi nhiễm được thu thập bằng cách lấy tiền sử và từ các hồ sơ. Đôi khi yếu tố hoặc thuộc tính nghi ngờ là một yếu tố cố định, như nhóm máu, yếu tố này có thể được xác định qua lâm sàng hay xét nghiệm. Tần suất các thuộc tính hay yếu tố nguy cơ ở nhóm bệnh cao hơn ở nhóm chứng cho thấy có mối liên quan với bệnh - một sự kết hợp có thể có ý nghĩa về bệnh căn. Nói cách khác, nếu tỷ lệ có tiền sử phơi nhiễm hoặc có hồ sơ hay dấu hiệu phơi nhiễm trong quá khứ ở nhóm bệnh cao hơn trong nhóm chứng, yếu tố hay thuộc tính đó có thể nghi là một yếu tố nguyên nhân. Lựa chọn ca bệnhNhững yếu tố gì cấu thành một ca bệnh trong nghiên cứu cần được định nghĩa rõ ràng về mặt cận lâm sàng và các đặc tính cụ thể khác của bệnh như ngày chẩn đoán, khu vực địa lý, v.v. Các ca bệnh không khớp với những tiêu chí này cần được loại khỏi nghiên cứu. Thiết kế này đặc biệt hiệu quả đối với các bệnh hiếm, vì tất cả các ca bệnh khớp với tiêu chí nghiên cứu trong một bối cảnh nhất định trong một thời khoảng cụ thể đều thường được đưa vào. Điều này cho phép một số lượng ca bệnh hợp lý được đưa vào nghiên cứu mà không phải chờ xuất hiện ca bệnh mới, điều mà có thể tốn rất nhiều thời gian. Vì lí do thuận tiện cũng như tính đầy đủ của các hồ sơ ca bệnh, các ca bệnh được xác định trong nghiên cứu bệnh-chứng thường từ những ca trong bệnh viện, những phòng khám tư hoặc từ sổ ghi bệnh. Các ca mới chẩn đoán trong một thời khoảng cụ thể (ca mới mắc) là tốt hơn so với các ca hiện mắc, do lựa chọn như vậy có thể loại trừ khả năng là các bệnh nhân mắc bệnh mạn tính đã phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ đang điều tra sau khi khởi bệnh. Cần lựa chọn ca bệnh sao cho kết quả nghiên cứu là tin cậy và giá trị. Vì vậy, những hướng dẫn sau cần được tuân theo khi lựa chọn ca bệnh trong nghiên cứu bệnh-chứng:
Lựa chọn ca chứngĐiều then chốt là lập một hoặc nhiều nhóm chứng gồm những người không mắc bệnh lý đang quan tâm để ghi nhận được ước lượng tần số của thuộc tính hay yếu tố nguy cơ để so sánh với tần số này ở nhóm bệnh. Đây là khía cạnh quan trọng nhất của nghiên cứu, do các sai lệch trong lựa chọn nhóm chứng có thể làm mất giá trị của kết quả nghiên cứu và sai lệch trong chọn nhóm chứng thường là mối bận tâm lớn nhất khi phân tích dữ kiện từ các nghiên cứu bệnh-chứng.
Tác động của việc lựa chọn nhóm chứng không tốt lên kết luận của nghiên cứu bệnh-chứng thường được minh họa bởi nghiên cứu của Pearl năm 1929. Pearl so sánh 816 ca có khối u ác tính được xác định trong 7500 ca giải phẫu tử thi tại bệnh viện Johns Hopkins ở Baltimore, Maryland, Mỹ với 816 ca không ác tính được bắt cặp lúc tử vong theo tuổi, giới, chủng tộc và ngày mất. Sang thương lao được phát hiện trong 6.6% ca bệnh và trong 16.3% ca chứng, điều này dẫn đến kết luận là có sự đối kháng giữa lao và ung thư. Phát hiện này không thể chứng minh được trong các thử nghiệm ở động vật. Một giải thích cho phát hiện của Pearl là nhóm chứng của ông đã vô tình bao gồm nhiều người tử vong do lao, vì bệnh nhân lao được giải phẫu tử thi thường hơn so với những bệnh nhân có nguyên nhân tử vong khác và do đó không đại diện cho dân số tử vong. Thu thập dữ kiện phơi nhiễm và các nhân tố khácDữ kiện thường thu thập qua phỏng vấn, bộ câu hỏi hoặc kiểm tra hồ sơ. Các xét nghiệm và khám lâm sàng đôi khi cũng được thực hiện nhưng thường là không thể, nhất là nếu “ca bệnh” gồm cả những ca trong quá khứ và có thể có một số đã tử vong. Những lưu ý sau cần được xem xét khi quyết định chiến lược thu thập dữ kiện
Nghiên cứu bệnh-chứng đa nhân tốDạng nghiên cứu bệnh-chứng phổ biến mỗi lần chỉ tập trung vào một nhân tố hoặc thuộc tính chính. Tuy vậy, ta có thể điều tra nhiều yếu tố phơi nhiễm trong cùng một nghiên cứu. V.d. trong một nghiên cứu ở ba bang tại Mỹ với 13 triệu dân, tất cả bà mẹ của các trẻ bệnh bạch cầu từ 1-4 tuổi (chẩn đoán trong khoảng 1959-67) được phỏng vấn. Một mẫu gồm 13 000 phụ nữ khác được chọn làm nhóm chứng. Bốn yếu tố được xem xét gồm hai yếu tố trước thai kỳ (phơi nhiễm với phóng xạ trước thai kỳ và tiền sử xẩy thai) và hai yếu tố sau mang thai (xạ trị tử cung và nhiễm khuẩn trong thai kỳ). Phân tích cho thấy mỗi yếu tố đều có liên quan với bệnh bạch cầu cho con (Gibson et al.,1968). Phân tích thêm về sự kết hợp của các yếu tố cho thấy ước lượng nguy cơ tương đối khi không có bốn yếu tố là 1.0, như trình bày trong Bảng [tab:multifactorial]. Có thể thấy rõ là ảnh hưởng là lớn nhất ở những phụ nữ có cả bốn yếu tố nguy cơ, và có hiện tượng hiệp lực hoăc tương tác giữa các yếu tố. .8@rccc Số yếu tố trước mang thai & & 0 & 1 & 2 0 & 1 & 1.1 & 1.8 1 & 1.2 & 1.6 & 2.7 2 & 1.9 & 3.1 & 4.6 [tab:multifactorial] Ưu điểm của nghiên cứu bệnh-chứngSau đây là một số v.d. về ưu điểm của nghiên cứu bệnh-chứng:
Nâng cao tính giá trị của nghiên cứu bệnh-chứngCác cách để có thể gia tăng tính giá trị cỉa nghiên cứu gồm bảo đảm rằng
Hạn chế và sai lệch của nghiên cứu bệnh-chứngDưới đây là một số vấn đề liên quan với nghiên cứu bệnh-chứng:
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứuChiến lược phổ biến của nghiên cứu đoàn hệ là bắt đầu với một dân số tham chiếu (hoặc một mẫu chọn đại diện từ đó), một số có những đặc tính nhất định có liên quan tới nghiên cứu (nhóm phơi nhiễm), với những người không có đặc tính đó (nhóm không phơi nhiễm). Cả hai nhóm cần không có bệnh lý hoặc không có bệnh lý đang nghiên cứu tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu. Hai nhóm sẽ được theo dõi trong một thời khoảng nhất định để tìm ra nguy cơ phát triển bệnh lý quan tâm của mỗi nhóm. Thiết kế này được minh họa trong Hình [fig:cohortdesign]. Các đặc điểm thiết kế
Trong một nghiên cứu đoàn hệ, thông thường một nghiên cứu cắt ngang ban đầu được thực hiện để loại những người có kết cuộc đang quan tâm (có bệnh) và để phát hiện được đoàn hệ mà không có bệnh. Đo lường tần suấtHai phương pháp thường dùng trong các nghiên cứu đoàn hệ để đo lường số mới mắc bệnh lý đang điều tra
Các số đo ảnh hưởng cơ bản được sử dụng trong các nghiên cứu đoàn hệ là nguy cơ tương đối (RR), nguy cơ quy trách (AR), nguy cơ quy trách dân số (PAR), phần trăm nguy cơ quy trách (ARP%), và phân số bệnh căn (EF). Những số đo này sẽ được trình bày chi tiết trong Chương 7. Ưu điểm của nghiên cứu đoàn hệDưới đây là một số ưu điểm của nghiên cứu đoàn hệ so với nghiên cứu bệnh-chứng:
Hạn chế của nghiên cứu đoàn hệDưới đây là một số hạn chế của nghiên cứu đoàn hệ
Cần nhấn mạnh là dù nghiên cứu đoàn hệ rất gần với thử nghiệm ngẫu nhiên (thực nghiệm) về mặt năng lực dịch tễ học, nó vẫn có thể có vấn đề về tính giá trị. Cần thực hiện cẩn thận để đảm bảo rằng nghiên cứu thỏa mãn các đòi hỏi khác của nghiên cứu dịch tễ học, nhất là về mặt chọn mẫu thích hợp, xây dựng nhóm so sánh, xử lý vấn đề mất dữ kiện, ứng dụng các phương pháp thống kê thích hợp và các điều kiện tiên quyết khác cho một thiết kế nghiên cứu đúng đắn. Nghiên cứu đoàn hệ lịch sử (hồi cứu)Trong nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, người nghiên cứu hoặc những người thay thế thường sẽ hiện diện từ đầu cho đến khi kết thúc thời khoảng quan sát. Tuy nhiên, có thể bảo toàn những ưu điểm của nghiên cứu đoàn hệ mà không cần sự hiện diện liên tục của nghiên cứu nghiên cứu , hay phải đợi một thời gian dài để thu thập dữ kiện cần thiết, thông qua việc sử dụng nghiên cứu đoàn hệ lịch sử hay còn gọi là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu. Thiết kế nghiên cứu này được minh họa trong Hình 2.3. Nghiên cứu đoàn hệ lịch sử dựa trên sự sẵn có của dữ kiện hoặc các hồ sơ cho phép dựng lại phơi nhiễm của đoàn hệ với một yếu tố nguy cơ nghi ngờ và theo dõi bệnh trạng và tử vong theo thời gian. Nói cách khác, dù không hiện diện khi phơi nhiễm được xác định lần đầu tiên, người nghiên cứu có thể dựng lại dân số phơi nhiễm và không phơi nhiễm từ các hồ sơ và sau đó tiếp tục như đang hiện diện xuyên suốt quá trình nghiên cứu. Đoàn hệ xây dựng từ lịch sử có chung rất nhiều ưu điểm với đoàn hệ tiến cứu. Nếu tất cả các yêu cầu đều được đáp ứng, một đoàn hệ lịch sử có thể chịu ít hạn chế hơn về mặt thời gian và chi phí. Tuy vậy nghiên cứu đoàn hệ lịch sử có những hạn chế sau đây:
Nghiên cứu đoàn hệ tiên lượngNghiên cứu đoàn hệ tiên lượng là một dạng đặc biệt của nghiên cứu đoàn hệ được sử dụng để xác định các nhân tố có thể ảnh hưởng đến tiên lượng sau khi có chẩn đoán hay điều trị. Nghiên cứu theo dõi này có những đặc trưng sau:
Nghiên cứu cắt ngang phân tíchTrong nghiên cứu cắt ngang phân tích, người nghiên cứu đo lường đồng thời phơi nhiễm và bệnh trong một mẫu đại diện từ dân số. Bằng cách chọn một mẫu đại diện, kết quả thu được có thể khái quát hóa từ mẫu ra toàn bộ dân số. Nghiên cứu cắt ngang đo lường sự kết hợp giữa biến số phơi nhiễm và bệnh hiện tại (hiện mắc), không như nghiên cứu đoàn hệ đo lường tỷ suất mắc bệnh (mới mắc). Các bệnh hiếm, hoặc bệnh lý có thời gian ngắn hay các bệnh tử vong cao thường sẽ không được phát hiện với nghiên cứu cắt ngang tại một thời điểm. Do đó, nghiên cứu cắt ngang phù hợp hơn cho đo lường mối liên quan giữa các đặc tính tương đối cố định ở cá nhân và các bệnh mạn tính hoặc những bệnh lý ổn định. Thiết kếNghiên cứu cắt ngang được minh họa trong Hình [fig:crosssectionaldesign]. Thường sẽ bắt đầu với một dân số tham chiếu, từ đó chọn ra một mẫu ngẫu nhiên. Dữ kiện về yếu tố nguy cơ hoặc các đặc tính và bệnh lý được thu thập tại cùng một thời điểm. Ưu điểm của nghiên cứu cắt ngangSau đây là một số ưu điểm của nghiên cứu cắt ngang:
Hạn chế của nghiên cứu cắt ngang
Nghiên cứu sinh tháiTrong các nghiên cứu sinh thái, đơn vị nghiên cứu là một tập thể, một vùng địa lý, một cụm nhà, một thị trấn, một quốc gia, v.v. Nghiên cứu này có thể có các dạng sau:
Một số dạng cụ thể của nghiên cứu sinh thái được trình bày dưới đây. Phân tích gộp các số liệu quốc giaNhững nghiên cứu này gồm phân tích gộp về sự tương quan giữa nhân tố nghiên cứu và một bệnh (hoặc tỷ suất tử vong do một nguyên nhân cụ thể) xảy ra trong một vùng địa lý. Số liệu này không cho thông tin về trạng thái phơi nhiễm của một cá nhân đau bệnh hay tử vong do một nguyên nhân cụ thể. Mà thay vào đó, mức độ trải nghiệm trong đơn vị địa lý hoặc quốc gia được lấy làm một số đo đại diện cho tất cả cá nhân trong đơn vị hoặc quốc gia đó, v.d. như:
Nghiên cứu sinh thái theo thời gianMột biến thể của nghiên cứu sinh thái là thêm một chiều thời gian bằng cách đánh giá, vẫn trên cơ sở gộp, xem việc đưa một nhân tố vào một vùng địa lý có liên quan với sự gia tăng bệnh trạng tử vong hay liệu việc can thiệp trong một vùng địa lý có làm giảm bệnh trạng tử vong. Một ví dụ điển hình là nghiên cứu giấy chứng tử của phụ nữ Mỹ trong độ tuổi sinh sản giữa 1961 và 1966 (Markush and Siegel, 1969) để tìm ra có phải tử vong do nghẽn mạch ở phụ nữ gia tăng sau khi thuốc uống tránh thai được đưa ra trong giai đoạn 1960-61. Hạn chế và sai lệch trong nghiên cứu sinh tháiDù những nghiên cứu như thế này được quan tâm vì là là nguồn của các giả thuyết và là bước đầu hay phương pháp để đánh giá sự kết hợp nhanh chóng, kết quả của nghiên cứu này không thể sử dụng để đưa ra suy diễn nhân quả. Thiếu sót nghiêm trọng nhất là nguy cơ bị sai lầm sinh thái, là khi các đặc tính của đơn vị địa lý bị quy không đúng cho cá nhân. Cũng có thể có các nguồn gây nhiễu khác do có rất nhiều yếu tố nguy cơ có xu hướng tập trung vào một khu vực địa lý nhất định. Do vậy, ô nhiễm không khí, công nghiệp nặng, lão hóa và dân số đông có tương quan với các thành phố. Một người tử vong do bệnh tim có thể có rất ít hoặc không có liên quan gì với sự hiện diện của công nghiệp nặng. |