Đánh giá suy hô hấp trên khí máu năm 2024
Suy hô hấp (SHH) là một tình trạng bệnh lý thường gặp, là một hội chứng có thể do nhiều bệnh lý tại cơ quan hô hấp hoặc tại các cơ quan khác gây ra. Suy hô cấp là tình trạng bệnh lý cấp cứu thường gặp nhất tại khoa Hồi sức cấp cứu là nguyên nhân gây tử vong chủ yếu của các bệnh nhân Hồi sức cấp cứu 1. Khái niệm về suy hô hấp Suy hô hấp (SHH) có thể là cấp tính hoặc mạn tính. Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân (BN) bị suy hô hấp cấp hoặc suy hô hấp mạn thường khác nhau hoàn toàn. Trong khi suy hô hấp cấp (SHHC) được đặc trưng bởi những rối loạn về nội môi (khí máu, kiềm toan...) đe dọa tính mạng thì suy hô hấp mạn thường kín đáo, có vẻ chịu được, thậm chí có thể không có biểu hiện lâm sàng. Cơ quan hô hấp bao gồm bơm hô hấp (trung tâm hô hấp, hệ thống dẫn truyền thần kinh, cơ hô hấp và khung xương thành ngực) giúp cho quá trình thông khí (đưa không khí đi vào và đi ra khỏi phế nang) và đơn vị hô hấp (phế nang, mao mạch phổi, đường dẫn khí) nơi trực tiếp xảy ra quá trình trao đổi khí. suy hô hấp cấp (SHHC) được định nghĩa là tình trạng cơ quan hô hấp đột nhiên không bảo đảm được chức năng trao đổi khí, gây ra thiếu oxy máu, có hoặc không có kèm theo tăng cacbonic (CO2) máu, được biểu hiện qua kết quả đo khí máu động mạch. 2. Phân loại suy hô hấp cấp Có nhiều cách phân loại suy hô hấp cấp (SHHC): theo nguyên nhân, theo bệnh sinh, theo lâm sàng... 2.1. Phân loại theo nguyên nhân - Suy hô hấp cấp do những nguyên nhân tại phổi (tại đơn vị hô hấp):
- Suy hô hấp cấp do các nguyên nhân ngoài phổi (tại bơm hô hấp):
Hệ thống chụp cắt lớp vi tính (CT) Bệnh viện Gia An 115 2.2. Phân loại suy hô hấp cấp theo bệnh sinh: Suy hô hấp cấp có thể phát sinh từ một bất thường tại bất kỳ yếu tố cấu thành nào của hệ thống hô hấp, hoặc có thể từ sự phối hợp của nhiều yếu tố đó. Suy hô hấp cấp có thể do nhiều cơ chế gây ra nhưng có thể một cơ chế chung cho nhiều bệnh có biến chứng suy hô hấp cấp. - Suy hô hấp cấp giảm oxy hóa máu:
- Suy hô hấp cấp tăng cacbonic máu:
+ Tăng nhu cầu về thông khí: sốt cao, nhiễm trùng máu, đa chấn thương, nuôi dưỡng quá tải carbohydrate, thiếu máu, toan chuyển hóa, COPD, hen phế quản, ARDS, thuyên tắc phổi, suy thận cấp, suy gan, cơn lo lắng quá mức...). + Giảm khả năng cung cấp thông khí cho bệnh nhân: mệt mỏi cơ hô hấp, teo nhẽo cơ, suy dinh dưỡng, rối loạn nước điện giải - toan kiềm, mổ vùng bụng cao, gẫy xương sườn, ùn tắc đờm, co thắt phế quản, tắc ngẽn đường hô hấp trên, tràn dịch - khí màng phổi, chướng hơi dạ dày, cổ chướng... 2.3. Phân loại suy hô hấp cấp theo lâm sàng: Trên lâm sàng, đặc biệt trong công tác Hồi Sức Cấp Cứu, suy hô hấp cấp thành hai loại: - Suy hô hấp cấp loại nặng:
- Suy hô hấp cấp loại nguy kịch:
+ Rối loạn nhịp thở nghiêm trọng: thở >40 l/p hoặc <10 l/p. + Rối loạn huyết động rõ: tụt HA. + Rối loạn ý thức rõ: vật vã hoặc lơ mơ thậm chí hôn mê.
3. Tiếp cận chẩn đoán bệnh nhân suy hô hấp cấp 3.1. Chẩn đoán lâm sàng suy hô hấp cấp: Chẩn đoán người bệnh bị suy hô hấp cấp trên thực tế bao giờ cũng căn cứ vào những biểu hiện lâm sàng gợi ý như: - Khó thở:
- Biểu hiện xanh tím:
- Ran ở phổi:
- Các biểu hiện toàn thân
3.2. Cận lâm sàng Một khi suy hô hấp cấp được nghĩ đến dựa trên bệnh cảnh lâm sàng, cần thiết phải làm xét nghiệm và phân tích kết qủa khí máu động mạch để xác định chẩn đoán, giúp phân biệt thể loại suy hô hấp cấp, đánh giá mức độ nặng, tác động ảnh hưởng đến chuyển hóa và quan trọng hơn là giúp hướng dẫn cách điều trị, xử trí suy hô hấp cấp. - Phân tích kết qủa khí máu động mạch:
+ Bình thường pH= 7,40 ± 0,05; PaCO2 = 40 ± 5 mmHg. + Khi người bệnh có lâm sàng cuả suy hô hấp cấp và có pH <7,35 và PaCO2 >45mmHg được coi là có suy hô hấp cấp mức độ nặng, thể tăng cacbonic gây nhiễm toan hô hấp mất bù. + Nếu pH <7,20 chứng tỏ người bệnh bị suy hô hấp cấp mức độ nguy kịch đe dọa tính mạng cần được can thiệp hết sức khẩn trương bằng thông khí cơ học.
+ Bình thường PaO2 = 60-90 mmHg. + Khi người bệnh có lâm sàng cuả suy hô hấp cấp và có PaO2 <55mmHg với PaO2/ FiO2 <300 được coi là bị suy hô hấp cấp có giảm oxy hóa máu nặng. + Nếu PaO2/FiO2 <200 thì có giảm oxy hóa máu nghiêm trọng. HCO3-: + Bình thường HCO3- = 24 ± 4 mmol/l. + Nếu người bệnh bị suy hô hấp cấp thể tăng cacbonic máu (pH <7,35 và PaCO2 >45mmHg) có HCO3 - >30 mmol/l được coi là suy hô hấp cấp trên nền mạn và thận đã có đáp ứng bù trừ bằng cách tăng tái hấp thu HCO3-. - Chụp X Quang phổi:
Hệ thống X-quang Bệnh viện Gia An 115 4. Nguyên tắc xử trí suy hô hấp cấp 4.1. Xác định mức độ trầm trọng của suy hô hấp cấp và quyết định trình tự xử trí. Xác định mức độ trầm trọng của suy hô hấp cấp dựa vào:
Để quyết định chọn lựa: dùng thuốc hoặc thông khí cơ học ngay?
4.2. Đảm bảo đường thở: - Là "chìa khóa", là công việc đầu tiên phải làm, phải xem xét cho tất cả các người bệnh cấp cứu, đặc biệt đối với suy hô hấp cấp ngay từ giây phút đầu tiên khi tiếp xúc. - Đặt người bệnh ở tư thế thuận lợi cho việc hồi sức và lưu thông đường thở:
- Khai thông khí đạo hay thiết lập đường thở cấp cứu:
4.3. Điều trị giảm oxy máu Nếu bắt đầu có giảm oxy hóa máu nhẹ đến vừa (PaO2 = 50-60 mmHg với khí phòng) thì chỉ cần sử dụng oxy liệu pháp qua thông khí tự nhiên với các dụng cụ thông thường: qua canun, catheter mũi, mask oxy thông thường giúp tăng nồng độ oxy trong khí hít vào (FiO2 = 24 - 40%). Đối với đợt cấp mất bù của suy hô hấp mạn thì mục tiêu là đảm bảo PaO2 ˃60mmHg hay SaO2 ˃90% tránh làm nặng thêm tình trạng toan hô hấp bằng cách bắt đầu từ lưu lượng thấp nhất rồi tăng dần có đánh giá, theo dõi khí máu trước khi quyết định tăng FiO2, nếu toàn trạng xấu dần hoặc pH <7,30 thì cần xem xét chỉ định thở máy. Khi có giảm oxy hóa máu nặng (PaO2/FiO2 <300), cần sử dụng mask không thở lại (FiO2 = 60 - 90 %), nếu không hiệu quả cần chỉ định oxy liệu pháp qua thông khí nhân tạo (thở máy) không xâm nhập (qua mask) hoặc xâm nhập (có đặt NKQ) cho phép vừa tăng nồng độ oxy trong khí thở vào vừa có thể dùng biện pháp đặc biệt là áp lực dương cuối kỳ thở ra (PEEP). Khi có giảm oxy hóa máu nghiêm trọng (PaO2/ FiO2 <200) cần thở máy xâm nhập với các phương thức đặc biệt như PEEP tối ưu, huy động phế nang, đảo ngược tỷ lệ I/E (IRV), chấp nhận tăng cacbonic… 4.4. Điều trị tăng cacbonic. Tăng cacbonic gây nhiễm toan hô hấp phải được điều trị nguyên nhân gây giảm cung cấp và tăng nhu cầu thông khí hoặc thông khí cơ học bằng máy tạm thời thay thế. Việc dùng bicacbonat (NaHCO3) để sửa chữa tình trạng nhiễm toan trong suy hô hấp cấp cũng cần hết sức thận trọng và không được khuyến cáo, vì NaHCO3 không có tác dụng điều chỉnh nhiễm toan lâu dài trong khi có thể gây nhiễm toan nội bào và đặc biệt có thể gây nặng thêm tình trạng thiếu oxy cho mô tế bào do làm tăng ái lực gắn kết của hemoglobin với oxy. 4.5. Điều trị nguyên nhân gây suy hô hấp cấp. Cần tiến hành điều trị nguyên nhân gây suy hô hấp cấp song song cùng với việc sửa chữa tình trạng giảm oxy máu, tăng cacbonic gây nhiễm toan hô hấp nếu có thể. Đối với suy hô hấp cấp do các bệnh tại phổi:
Đối với suy hô hấp cấp do nguyên nhân ngòai phổi:
Phòng khám Hô hấp - Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Gia An 115 Bệnh viện Gia An 115 là bệnh viện đa khoa tập trung vào các chuyên khoa sâu: Tim mạch, Hô hấp, Thần kinh, Ung bướu, Nội tiết, Tiêu hóa, Thận - Tiết niệu, Lọc máu - Thay huyết tương, Chấn thương chỉnh hình, Vật lý trị liệu - Phục hồi chức năng. Bệnh viện tọa lạc tại khu vực cửa ngõ miền Tây, là nơi ứng dụng các phương pháp chẩn đoán và điều trị hiện đại, mang đến cho cộng đồng một dịch vụ y tế chuẩn mực cao. Bệnh viện thực hiện nhiều kỹ thuật cao như can thiệp tim mạch và bệnh lý mạch máu não, điều trị ung thư với kỹ thuật tiên tiến, phẫu thuật nội soi, can thiệp xâm lấn tối thiểu bệnh lý Gan - Mật - Tụy, chấn thương chỉnh hình, siêu lọc máu… đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ để mang đến sự hài lòng cao nhất cho bệnh nhân và người thân. Bệnh viện đã thông tuyến Bảo hiểm y tế, tất cả thẻ BHYT không phân biệt nơi khám chữa bệnh ban đầu đều được hưởng đúng tuyến trong mọi trường hợp khám bệnh ngoại trú và điều trị nội trú. |