Điểm mới trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản từ những năm 70 của thế kỉ XX đến này là gì
Từ năm 1960 đến năm 1973, nền kinh tế Nhật Bản có đặc điểm gì? Đặc điểm nổi bật của kinh tế Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 2000 là Tại sao năm 1951, Mĩ lại kí với Nhật Bản “Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật”? Ngoại giao văn hóa từ lâu được coi là “sức mạnh mềm” hay “quyền lực mềm”, giữ một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, là một trong những phương tiện góp phần bảo vệ an ninh, nâng cao hình ảnh, tăng cường ảnh hưởng chính trị của quốc gia đối với quốc tế.
Vậy thông qua ngoại giao văn hóa, thế giới có ấn tượng gì với Nhật Bản? Trong quá khứ Nhật Bản đã triển khai những hoạt động ngoại giao văn hóa như thế nào và đã để lại dấu ấn gì trong lòng cộng đồng quốc tế? Bài viết là những sưu tầm và tổng hợp về ngoại giao văn hóa Nhật Bản từ sau Chiến tranh Thế giới lần II. 1. Giai đoạn từ 1950 đến đầu những năm 1960 Sau Chiến tranh Thế giới lần II, là nước bại trận, Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái và khủng hoảng trầm trọng. Chính sách ngoại giao văn hóa Nhật Bản ở giai đoạn này là biến đổi hình ảnh một quốc gia quân sự thành một quốc gia yêu chuộng hoà bình và dân chủ. Bước đầu tiên thể hiện sự nỗ lực của Nhật Bản là việc nước Nhật tham gia tổ chức UNESCO vào năm 1951. Trong các hoạt động văn hóa ở nước ngoài, Chính phủ Nhật Bản nhấn mạnh đến văn hóa truyền thống như trà đạo và Ikebana (nghệ thuật cắm hoa). Đa số các tờ rơi, tài liệu quảng cáo về Nhật Bản trong thời gian này thường in hình ảnh của hoa anh đào và núi Phú Sĩ phủ tuyết trắng - đem lại một khoảng lặng bình yên, thanh thản cho người đối diện, để lại ấn tượng về một nước Nhật có thiên nhiên tươi đẹp, yêu chuộng hòa bình với cộng đồng quốc tế. Cũng trong giai đoạn này, Bộ Ngoại giao Nhật Bản bắt đầu phát lịch Ikebana cho người dân và các tổ chức ở các nước. Hoạt động này vẫn được tiếp tục cho đến ngày nay. Trong thời gian này, các hoạt động văn hóa ở nước ngoài thường tránh những gì liên quan tới samurai và tinh thần samurai (là một bộ phận của tầng lớp võ sĩ Nhật Bản), bởi nó có thể gợi đến hình ảnh một nước Nhật phát xít. Ảnh minh họa. Nguồn: japan.net.vn 2. Giai đoạn từ cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 Bắt đầu từ những năm 1960, đặc biệt là sau Thế vận hội Tokyo năm 1964, hoạt động ngoại giao văn hóa Nhật Bản đã chuyển từ việc nhấn mạnh hình ảnh của một Nhật Bản yêu chuộng hòa bình sang hình ảnh một đất nước có nền kinh tế tiên tiến. Trong giai đoạn này, nền kinh tế Nhật Bản đang từng bước hồi phục và phát triển, nhưng việc xuất khẩu sản phẩm của Nhật Bản gặp phải rất nhiều khó khăn như cáo buộc Hàng hóa Nhật Bản làm rối loạn thị trường; Nhật Bản bán phá giá và sản phẩm của Nhật Bản là những sản phẩm “giá rẻ”…, đặc biệt là phản ứng của Mỹ và các nước châu Âu. Để chống lại những chỉ trích này, chính sách ngoại giao văn hóa có nhiệm vụ quảng bá được hình ảnh một Nhật Bản mới mẻ có một nền kinh tế phát triển và có một nền công nghệ tiên tiến. Có thể nói, trong cuối những năm 1960 và 1970, Nhật Bản đã triển khai ngoại giao văn hóa tích cực hơn, có “phản ứng” hơn trong việc xua tan hình ảnh quốc gia quân sự trước chiến tranh và “phản ứng” đối với việc xóa đi hình ảnh "tiêu cực" của kinh tế Nhật Bản. Bên cạnh đó, bắt đầu từ giai đoạn này đã xuất hiện những nét mới trong ngoại giao văn hóa Nhật Bản, đó là mọi hoạt động ngoại giao của Nhật Bản đều như của một thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Xu hướng này được phản ánh trong việc Nhật Bản tăng cường các hoạt động văn hóa ở nước ngoài. Nhật Bản đã rất nỗ lực để xây dựng các văn phòng và các trung tâm văn hóa của ở các nước. Ví dụ như: việc thành lập các trung tâm văn hóa và thông tin trực thuộc các đại sứ quán; Thành lập Hiệp hội tiếng Nhật cho người nước ngoài vào năm 1962 và ký kết một loạt các thỏa thuận trao đổi văn hóa với các nước (với Nam Tư năm 1969 và với Trung Quốc năm 1979). Thời kỳ này, Nhật Bản cũng đẩy mạnh việc giới thiệu Kabuki và Noh - Hai môn nghệ thuật biểu diễn truyền thống ra cộng đồng thế giới. Vào năm 1972, Quỹ Giao lưu văn hóa quốc tế Nhật Bản được thành lập với nguồn vốn 20 tỷ yên (sau này tăng lên 50 tỷ yên), hoạt động chủ yếu của Quỹ là: (1) hỗ trợ cho giáo dục tiếng Nhật ở nước ngoài; (2) giao lưu văn hóa, bao gồm trao đổi giữa các nghệ sĩ và nhạc sĩ, (3) khuyến khích nghiên cứu Nhật Bản ở nước ngoài. Việc thành lập Quỹ Giao Lưu Văn hóa Nhật Bản là một minh chứng cho việc tăng cường hoạt động ngoại giao văn hóa của Chính phủ Nhật Bản. Ảnh minh họa. Nguồn: japan.net.vn 3. Giai đoạn từ năm 1980 đến những năm đầu thập niên 1990 Giai đoạn cuối những năm 1980 đến đầu 1990 là giai đoạn nền kinh tế Nhật Bản ở đỉnh cao của sự phát triển, vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế cũng nhờ đó mà tăng lên. Cộng đồng quốc tế kỳ vọng nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới đóng góp nhiều hơn trong vai trò là một đối tác chịu trách nhiệm với cộng đồng. Lần đầu tiên, chính sách ngoại giao văn hóa được nhìn nhận là một trong "ba trụ cột" của chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Nhật Bản đã là đất nước đứng đầu trong việc đóng góp cho các hoạt động gìn giữ hòa bình và các hoạt động tương tự; là quốc gia đứng thứ hai về hỗ trợ phát triển chính thức và viện trợ kinh tế. Ảnh minh họa. Nguồn: gag-japan.co.jp Thu Hiền lược dịch (Nguồn: Kazuoka Ogoura.I) |