Khái niệm bất bình đẳng là gì

  • Bất bình đẳng giới là gì?
  • Ví dụ về bất bình đẳng giới
  • Nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng giới

Trong thời gian gần đây tình trạng bình đẳng giới ở nước ta đã có nhiều tiến bộ nhưng bất bình đẳng giới vẫn còn khá phổ biến ở một số lĩnh vực trong đời sống xã hội, trong đó có vấn đề định kiến giới đối với phụ nữ và trẻ em gái gây ra tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.

Vậy bất bình đẳng giới là gì? Ví dụ về bất bình đẳng giới? Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng giới? Khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung bài viết để có thêm thông tin hữu ích.

Bất bình đẳng giới là gì?

Bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt đối với nam và nữ về cơ hội, sự tham gia, tiếp cận, kiểm soát và thụ hưởng các nguồn lực.

Sự phân biệt đối xử giữa nam giới và phụ nữ, tư tưởng trọng nam khinh nữ có thể xem như yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Vì thế mà hiện nay bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước dành sự ưu tiên đặc biệt. Luật Bình đẳng giới đề ra mục tiêu tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực nhưng trên thực tế vẫn tồn tại sự bất bình đẳng.

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.

Ví dụ về bất bình đẳng giới

Ví dụ 1: Gia đình ông B ở nông thôn, mặc dù vợ chồng ông đã sinh được 5 người con nhưng ông vẫn muốn vợ ông sinh thêm con nữa, với lý do 5 người con trước chỉ là con gái, và ông nhất định ép vợ phải sinh con thêm đến khi nào được con trai thì thôi, bởi chỉ khi có con trai ông mới có người “ chống gậy” sau này.

Như vậy tại các gia đình vẫn còn tồn tại những quan niệm bất bình đẳng đối với phụ nữ ngay trong chính gia đình bởi các chuẩn mực giới theo truyền thống văn hoá trước kia vẫn ăn sâu trong nhiều gia đình, dòng họ, nhất là một số gia đình có nhiều thế hệ chung sống. Không ít người, kể cả những nam giới có trình độ vẫn coi việc chính của phụ nữ là sinh con, đẻ cái, tề gia, nội trợ. Nhiều gia đình vẫn mang nặng tư tưởng phải có con trai nối dõi tông đường, con trai là người thừa kế tài sản, có người “chống gậy” nên phải tìm cách sinh con trai bằng mọi giá.

Ví dụ 2: Nhà ông C khá khó khăn, ông có 2 người con sinh đôi, 2 chị em năm nay đều hết lớp 12, song chị gái thì chăm chỉ học lực tốt hơn so với em trai, tuy nhiên ông C lại quyết định cho chị gái chỉ học để xét tốt nghiệp bởi ông nghĩ rằng con gái không cần học nhiều, học trình độ 12/12 là đủ rồi. Mặc dù con gái ông C rất buồn, xin ông nhiều lần để cho con được học đại học nhưng nhất định ông không nghe.

Như vậy nhiều gia đình có cả con trai, con gái thì lại có sự phân biệt, đối xử bất bình đẳng ngay trong chính gia đình mình. Con trai luôn có quyền nhiều hơn, được bênh vực hơn chị em gái, việc bếp núc, dọn dẹp nhà cửa cũng chủ yếu dạy con gái làm. Khi các con trưởng thành, lập gia đình thì bố mẹ lại để thừa kế tài sản phần lớn cho con trai, con gái chẳng qua cùng là “con người ta”, đi làm dâu thì hưởng phúc nhà chồng… Chính những quan điểm không phù hợp này vô hình trung đã dẫn đến một hệ quả bất bình đẳng, áp đặt những việc không tên trong gia đình lên vai người phụ nữ, biến những thời gian giải quyết việc nhà thành thời gian làm việc không được trả lương.

Nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng giới

– Xã hội Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư tưởng phong kiến và Nho giáo. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã ăn sâu, bén rễ vào đời sống nhiều thế hệ khiến cho khoảng cách giới vẫn còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực.

– Vì định kiến xã hội về giới, về vai trò , vị trí của phụ nữ còn ăn sâu vào nhận thức của mọi người. Trong xã hội vẫn còn tồn tại quan điểm cho rằng công việc gia đình là trách nhiệm của phụ nữ, phụ nữ không có khả năng lãnh đạo, nam giới phù hợp với công việc lãnh đạo cần nhiều trí tuệ…

– Bản thân phụ nữ còn tự ti, không chịu phấn đấu.

– Nhận thức của xã hội về giới và bình đẳng giới còn hạn chế. Nhiều cán bộ lãnh đạo, chính quyền chưa có sự quan tâm đúng mức tới vấn đề giới, dẫn đến việc chưa thực hiện nghiêm túc cascq quy định của Đảng, Nhà nước về giới và bình đẳng giới, chưa quan tâm tới quy hoạch, đào tạo cán bộ nữ, chưa quan tâm giao việc cho phụ nữ, thiếu công bằng giới.

1. Khái niệm

Tất cả các xã hội đều được đặc trưng bời sự khác biệt xã hội. Đó là quá trình mà con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử khác nhau bởi vị thế, vai trò cùng những đặc điểm khác. Quá trình đó chuẩn bị cho bất bình đẳng xã hội. là điều kiện mà con người có cơ hội không ngang bằng nhau về sử dụng của cải, quyền lực và uy tín. Bất bình đẳng là một hiện tượng mang tính kế thừa ở mọi thời đại vì nó tồn tại trong mọi xã hội do cơ cấu xã hội mang lại. Bất bình đẳng không phải là một hiện tượng tự nhiên, tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các mối quan hệ trong xã hội, mà nó tồn tại “khi có một nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác.”

Như Daniel Rossides [1976] đã viết: Thậm chí ngay trong các xã hội đơn giản nhất “người già thường có quyền uy đối với người trẻ, cha mẹ có quyền uy với con cái và nam giới có quyền uy đối với phụ nữ".

Trong sự vận động và phát triển của xã hội thì bất bình đẳng xã hội luôn là một vấn đề trung tâm của xã hội học. Bất bình đẳng xã hội hình thành, tồn tại song song với sự phát triển qua những xã hội khác nhau. Điều đó cũng cho ta nhận biết được rằng hệ thống bất bình đẳng sẽ khác nhau trong những xã hội khác nhau và nguyên nhân chính là do thể chế chính trị và hoàn cảnh, điều kiện sinh sống của từng nơi quyết định. Bất bình đẳng có ý nghĩa quyết định đối với sự phân tầng trong tổ chức xã hội. Do đó, trong tiếp cận của mình nhà xã hội học hướng tới tìm hiểu cách mà các nhóm xã hội khác nhau có mối quan hệ bất bình đẳng với những nhóm xã hội khác như thế nào.

Từ khái niệm bất bình đẳng đã nêu ở phần trên, chúng ta có thề đưa ra một khái niệm ngắn gọn về bất bình đẳng xã hội như sau: bất bình đẳng xã hội là sự không bằng nhau về mặt xã hội, tức là sự khác nhau về những lợi ích, cơ hội về mặt vật chất lẫn tinh thần cũng như là thỏa mãn các lợi ích đó của cá nhân trong một nhóm xã hội hay nhiều nhóm xã hội khác nhau.

Xã hội học cố gắng tìm hiểu nguồn gốc của bất bình đẳng trong văn hóa và cơ cấu xã hội của bản thân các xã hội. Những khác biệt về mặt sinh học không được xem là bất bình đẳng xã hội, nhưng nó có thể trở thành tiền đề tạo nên sự bất bình đẳng xã hội, đây chỉ có thể là một trong nhiều nhân tố dẫn đến bất bình đẳng. Với văn hóa và cơ cấu xã hội, các nhà xã hội học xem đây như là yếu tố chủ yếu tạo nên những bất bình đẳng xã hội giữa các cá nhân trong xã hội.

Trong cuốn “Sự phân công lao động xã hội”[ 1893] E. Durkheim cho rằng: Tất cả các xã hội luôn nhìn nhận một sô hành động quan trọng hơn những hành động khác, cũng theo ông bất bình đẳng xã hội được tạo ra từ những khác biệt vê tài năng. Ai có thiên bẩm nhiều hơn người khác, trải qua một quá trình đào tạo sẽ tạo nên sự khác biệt về mặt xã hội. Mặc dù, các nhà xã hội học dễ dàng thống nhất rằng: bất bình đẳng xã hội là phổ biến, song họ lại không có cùng câu trả lời cho bất bình đẳng là gì, nguyên nhân của sự nảy sinh và tồn tại?

2. Những cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng xã hội

Bất bình đẳng diễn ra không giống nhau ở các xã hội khác nhau. Đặc biệt, ở những xã hội có quy mô lớn và hoàn thiện, nên sản xuất xã hội phát triển cao, sự phân công lao động càng đa dạng, phức tạp và bất bình đẳng xã hội càng trở nên gay gắt.

Những nguyên nhân tạo ra bất bình đẳng vô cùng đa dạng và khác nhau giữa các xã hội và nền văn hóa, gắn liền với đặc điểm của giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ,... Trong từng thời kỳ, cơ sở tạo nên bất bình đẳng cũng có sự khác nhau. Một số yếu tố trở nên mạnh mẽ vào giai đoạn này nhưng lại ít ảnh hưởng trong giai đoạn khác. Bất bình đẳng tồn tại và đi liền với những vấn đề và yếu tố mang tính thời sự trong xã hội. Tuy nhiên, dù nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội rất đa dạng, các nhà xã hội học quy chúng vào ba nhóm cơ bản sau: Thứ nhất là những cơ hội trong cuộc sống, thứ hai địa vị xã hội và thứ ba là ảnh hưởng chính trị.

Những cơ hội trong cuộc sống là những thuận lợi vật chất có thể cải thiện chất lượng cuộc sống như của cải, tài sản, thu nhập, công việc, lợi ích chăm sóc sức khoẻ hay đảm bảo an ninh xã hội. Cơ hội là những thực tế cho thấy những lợi ích vật chất và sự lựa chọn thực tế của nhóm xã hội bất kể thành viên của nhóm có nhận thức được điều đó hay không.

Sự khác nhau về địa vị xã hội, tức là sự khác nhau về uy tín hay vị trí do quan niệm và sự đánh giá của các thành viên khác trong xã hội. Địa vị xã hội là sự phản ánh vị thế xã hội của cá nhân, do cá nhân đạt được ở trong một nhóm hoặc là một thứ bậc trong nhóm này khi so sánh với thành viên trong nhóm khác, được xác định bởi một loạt đặc điểm kinh tế, nghề nghiệp, sắc tộc...

Bất bình đẳng do ảnh hưởng chính trị là khả năng của một nhóm xã hội thống trị những nhóm khác hay có ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc ra quyết định cũng như việc thu được nguồn lợi từ các quyết định. Trong thực tế, bất bình đẳng do ảnh hưởng chính trị có thể được nhìn nhận như là có được từ ưu thế vật chất hay địa vị cao. Bản thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được địa vị và những cơ hội trong cuộc sống, đặc biệt đối với các cá nhân giữ chức vụ chính trị cao.

3. Một số quan điểm về bất bình đẳng xã hội

Bất bình đẳng xã hội là một hiện tượng xã hội phổ biến, nhưng phải chăng nó là hiện tượng xã hội bất biến? Tuy nhiên, đây là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau. Chúng ta sẽ xem xét một số quan điểm tiêu biểu về bất bình đẳng xã hội.

Aristotle [384 - 322 TCN] từng cho rằng: “Đàn ông bản chất là thống trị, đàn bà là bị trị, và đó là một luật lệ.” Ngay cả đến hiện nay, quan điểm này vẫn còn tồn tại. Steven Goldberg [1967] nêu quan điểm: “Sự thống trị và sự thành đạt cao của nam giới là khả năng không thể đảo ngược, bởi có những khác biệt về sinh học giữa nam và nữ.”

Thực ra những quan điểm hoàn toàn tương tự có thể được tìm thấy trong các xã hội khác. Trong không ít các gia đình Việt Nam hiện đại, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn tồn tại. Người con trai luôn được dành cho những ưu tiên và cơ hội nhiều hơn người con gái và tất yếu điều này làm cho sự bất bình đẳng ngày một kéo dài và trầm trọng hơn. Ví dụ: với nhiều gia đình ở nông thôn Việt Nam thì con trai thường được ưu tiên đi học nhiều hơn con gái.

Trong luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng năm 1753, Jean-Jacques Rousseau đã vạch rõ nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong xã hội là ở chế độ tư hữu tài sản. Theo ông, bất bình đẳng không phải là một quy luật tự nhiên, mà là sản phẩm của xã hội loài người; nó tồn tại và phát triển từ khi xuất hiện chế độ tư hữu tài sản; rằng con người dã tạo ra sự bất bình đăng thì con người cũng có thể xóa bỏ nó. Những đặc điểm về kinh tế - chính trị và thị trường lao động tạo ra những khác biệt trong thu nhập và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các cá nhân trong cơ cấu xã hội gây ra bất bình đẳng kinh tế. Ông cũng đã phân biệt rõ hai loại bất bình đang giữa người với người. Đó là bất bình đẳng tự nhiên và bất bình đẳng xã hội - bất bình đẳng do cơ chế xã hội tạo nên.

Một số nhà xã hội học khác cho rằng bất bình đẳng là không thể tránh khỏi, do xã hội có những nhiệm vụ này cần thiết hơn những nhiệm vụ khác và khả năng thực hiện những nhiệm vụ này khác nhau. Họ lập luận rằng bất bình đẳng xã hội về lợi ích giữa các cá nhân là cần thiết để thúc đẩy người tài nhất thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất. Chính sự bất bình đẳng thúc đẩy các cá nhân lao động, học tập để mang lại cơ hội cho chính bản thân mình. Do vậy không thề thủ tiêu bất bình đẳng, vì bình đẳng có thể nguy hiểm cho xã hội như nhà kinh tế học A.Lechevalier phân tích: “Bình đẳng chung chung thậm chí còn đi ngược lại ý niệm về sự công bằng, không chi là công bằng về nỗ lực cá nhân, về nhu cầu, ham muốn mà cả những thiệt thòi.”

Những quan điểm trên quá nghiêng về mặt sinh học của con người hoặc nghiêng về yếu tố kinh tế. Khi bàn về vẩn đề này chúng ta không thể không nói đến hai bậc tiền bối của xã hội học là K.Marx và Max Weber.

K.Marx chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu các học thuyết kinh tế mà ông coi là nền tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp là chìa khoá của mọi vấn đề trong đời sống xã hội. K.Marx khẳng định: “Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị” và phục vụ cho giai cấp thống trị.

Max Weber nghiên cứu cấu trúc xã hội sau K.Marx hơn nửa thế kỷ. Do vậy, ông đã ghi nhận những thay đổi trong cơ cấu giai cấp xã hội để phát triển lý thuyết xã hội học về sự phân tầng xã hội. Theo đó, lĩnh vực kinh tế không còn vai trò quan trọng đối với sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội trong xã hội tư bản hiện đại. cấu trúc xã hội nói chung và sự phân tầng xã hội nói riêng chịu tác động của hai nhóm yếu tố cơ bản là các yếu tố kinh tế và các yếu tố phi kinh tế trong quá trình hình thành, biến đổi cấu trúc xã hội và sự phân tầng xã hội. Ông còn cho rằng việc các cá nhân chiếm được hay không chiếm lĩnh được thị trường [sự hiểu biết, bản lĩnh, kỹ năng nghề nghiệp] là vấn đề cốt lõi tạo nên bất bình đẳng xã hội.

Chủ Đề