Nhà nước phong kiến Việt Nam trong các the kỉ XVI - XVIII có đặc điểm gì nổi bắt

Việc để đất nước rơi vào tay của thực dân phương Tây, là do các quốc gia phong kiến Đông Nam Á không tiến hành duy tân đất nước nhằm đưa đất nước phát triển, không có tầm nhìn cũng như tiến bước theo thời đại, bảo thủ, cố duy trì chiếc ngai vàng phong kiến đang trở nên mục ruỗng. Khi thực dân phương Tây đến “gõ cửa” thì giai cấp cầm quyền các nước này thực hiện phương sách giữ nước bằng việc “đóng cửa”, ngăn chặn người và hàng hóa từ châu Âu đến, hoặc quá thụ động trong việc tìm kiếm chính sách đối phó với mưu toan của thực dân phương Tây. Kết quả là các nước Đông Nam Á lần lượt rơi vào tay các nước thực dân, biến các nước này thành thuộc địa, trở thành nơi khai thác thị trường và nhân công của riêng mình. Trong tình hình đó, các quốc gia Đông Nam Á buộc phải tiến hành đấu tranh vũ trang chống lại các cuộc xâm lược để giữ nước, giữ độc lập dân tộc. Cũng vì thế, phong trào đấu tranh vũ trang chống xâm lược diễn ra sôi nổi từ khi thực dân châu Âu nổ súng xâm lược.

       Với tinh thần và ý chí chiến đấu quật cường, toàn thể nhân dân các quốc gia Đông Nam Á đã tự nguyện tham gia vào hàng ngũ yêu nước, chiến đấu chống lại kẻ thù chung, nhằm hoàn thành một ước nguyện là góp một phần sức lực nhỏ bé của mình công cuộc bảo vệ sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Có thể nói rằng phong trào là sự thể hiện truyền thống yêu nước nồng nàn, là đỉnh cao của tinh thần quật cường của nhân dân các nước Đông Nam Á.

       Ngay từ khi thực dân phương Tây xâm nhập và xâm lược, nhân dân Đông Nam Á đã vùng dậy đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ đất nước. Cuộc đấu tranh giữ đất, giữ làng diễn ra bền bỉ, liên tục, kiên cường, lớp trước ngã xuống, lớp sau nối tiếp tiến lên, kiên quyết đánh giặc cho dù phải hy sinh cả tính mạng; tất cả vì một mục tiêu chiến đấu cho dân tộc sinh tồn. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, cuộc đấu tranh mới ở giai đoạn khởi đầu, đặt nền móng cho những bước tiến của giai đoạn sau.

       Trước khi người Âu châu đến "gõ cửa", các nước Đông Nam Á đang ở trong tình trạng thấp kém, lạc hậu cách xa rất nhiều lần so với phương Tây. Nhưng khi bị xâm lược, các quốc gia Đông Nam Á đều tiến hành kháng cự để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Những cuộc kháng cự đó có khi là do nhà nước phong kiến tiến hành, có khi do một hoàng thân lãnh đạo, nhưng cũng có khi do chính nhân dân tự động tiến lên khi tổ quốc bị xâm lăng.

      Khi thực dân phương Tây xâm lược, các nhà nước phong kiến ở Đông Nam Á đã cùng với nhân dân đứng lên kháng chiến chống xâm lược. Nhưng đến khi các vương triều và giai cấp phong kiến đầu hàng thực dân thì nhân dân đã tự động đứng lên chống xâm lược và chống luôn cả giai cấp phong kiến nhu nhược đầu hàng. Mặc dù không có sự lãnh đạo của chính quyền, nhưng cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của nhân dân tỏ ra rất anh dũng, quả cảm, mang lòng yêu nước sâu sắc. Tuy nhiên, các cuộc chiến đấu ấy đều ở trong trạng thái thiếu tổ chức, thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn. Các cuộc chiến tranh của nhân dân Indonesia chống Bồ Đào Nha và Hà Lan dưới sự lãnh đạo của Tơrunô Giôgiô, của Đipônêgôrô, cuộc kháng chiến của nhân dân Achê, cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ở các địa phương Đà Nẵng, Quảng Nam, Gia Định và những cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ dưới sự lãnh đạo của Trương Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực...Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Khơ Me dưới sự lãnh đạo của hoàng thân Sivôtha, của AchaSoa, của Pôcumbô; những cuộc chống trả quân Anh của quân đội Miến Điện do Mahabanđula chỉ huy và những cuộc kháng cự sau đó của nhân dân Miến Điện; các cuộc nổi dậy chống Tây Ban Nha của các tiểu vương và các bộ lạc ở Cebu, ở Manila, ở các đảo Luxông, Xamara, Lâyetta của Philippin… mang những sắc thái khác nhau nhưng đều chung mục đích chống xâm lược, bảo vệ độc lập và chịu chung một kết cục là bị đàn áp thất bại.

     Quá trình đấu tranh chống xâm lược của nhân dân các nước Đông Nam Á diễn ra không cùng thời điểm cụ thể, không giống nhau về hình thức, lại khác về phương pháp đấu tranh, nhưng lại có điểm chung, thống nhất ở mục tiêu: ngăn chặn quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân, cố gắng bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Trong quá trình xâm lược, thực dân phương Tây vấp phải sự kháng cự kéo dài và kiên cường, liên tục của nhân dân từng nước. Ngay trong một nước cuộc kháng cự này thất bại, cuộc khởi nghĩa khác lại nổi lên, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, kiên quyết đánh đuổi quân xâm lược. Ở Campuchia, cuộc chiến đấu do hoàng thân Sivôtha tổ chức đang tiếp diễn thì cuộc khởi nghĩa do Acha Soa lãnh đạo đã bùng lên. Khi Acha Soa bị bắt, cuộc khởi nghĩa không tan rã mà nó được tiếp sức bằng cuộc nổi dậy của nghĩa quân Pô cum Bô. Ở Việt Nam, cuộc xâm lăng của thực dân Pháp bị sự tấn công liên tục và khắp nơi của nhân dân yêu nước. Từ Đà Nẵng, Quảng Nam cho tới Gia Định, Cần Thơ, Đồng Tháp Mười… đều vấp phải phong trào kháng Pháp của nhân dân. Ở Miến Điện, ba lần tiến hành chiến tranh là cả ba lần thực dân Anh gặp phải sự chống cự quyết liệt của quân đội triều đình. Sau khi quân triều đình thất bại, thì nhân dân khắp cả nước vùng lên chống lại thực dân Anh bằng cuộc chiến tranh du kích bền bỉ, anh dũng làm cho quân giặc khiếp sợ.

      Phong trào đấu tranh vũ trang của các quốc gia Đông Nam Á từ thế kỷ XVI đến những năm cuối thế kỷ XIX thực sự tạo thành một sức mạnh to lớn, bước đầu làm chậm bước tiến của thực dân phương Tây, không những thế còn làm cho đội quân xâm lược nhà nghề nhiều phen kinh sợ, hàng ngàn binh lính thực dân đã phải bỏ mạng tại nơi đây. Phong trào là sức mạnh của sự đoàn kết quân dân, nhiều giai tầng trong xã hội, mặc dù bị thất bại, nhưng nó tạo cơ sở cho các phong trào đấu tranh thời kỳ sau phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi hoàn toàn. Các cuộc đấu tranh chống lại thực dân phương Tây do người nông dân lãnh đạo, hay do một nhà sư, một trí thức phong kiến, một hoàng thân hoặc một thủ lĩnh bộ lạc đứng đầu, thì tất cả đều chung một mục tiêu bảo vệ cho kỳ được đất nước, giữ cho kỳ được xóm làng quê hương không để rơi vào tay giặc.

Đề cương ôn tập học kì 2 môn Lịch sử lớp 7 bao gồm rất nhiều câu hỏi, những dạng bài tập trọng tâm Lịch sử 7.

Đây chính là tài liệu hữu ích giúp các em học sinh lớp 7 ôn lại kiến thức môn Lịch sử, để chuẩn bị thật tốt cho kỳ thi học kì 2 sắp diễn ra. Bên cạnh đó các em tham khảo thêm Bộ đề thi học kì 2 môn Lịch sử lớp 7.  Mời các em cùng tham khảo nội dung chi tiết dưới đây.

Đề cương ôn tập Lịch sử 7 học kì 2 năm 2020

Câu 1: Lập bảng tóm tắt các sự kiện chính trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ năm 1418 đến 1427 ?

Bạn đang xem: Đề cương ôn tập học kì 2 môn Lịch sử lớp 7 năm 2020 – 2021

STT

Niên đại

Sự kiện

1

Ngày 7 – 2 – 1418

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, do Lê Lợi lãnh đạo, bùng nổ.

2

Năm 1424

Nghĩa quân Lam Sơn giải phóng được Nghệ An.

3

Năm 1425

Nghĩa quân Lam Sơn giải phóng được Tân Bình, Thuận Hóa.

4

Năm 1426

+ Tháng 9 – 1426

+ Tháng 11 – 1426

Lê Lợi và bộ chỉ huy quyết định mở cuộc tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vị hoạt động.

Chiến thắng trận Tốt Động – Chúc Động.

5

Cuối năm 1427

Chiến thắng trận Chi Lăng – Xương Giang. Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng.

Câu 2: Nêu nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

* Nguyên nhân thắng lợi:

– Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi vẻ vang là do nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nà, ý chí bất khuất quyết tâm giành lại độc lập tự do cho đất nước, toàn dân đoàn kết chiến đấu. Tất cả các tầng lớp nhân dân không phân biệt nam nữ, già trẻ, các thành phần dân tộc đều đoàn kết đánh giặc, hăng hái tham gia kháng chiến [gia nhập lực lượng vũ trang nhân dân, tự vũ trang đánh giặc, ủng hộ, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân,…]

– Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn gắn liền với đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn, sáng tạo của bộ tham mưu, đứng đầu là các anh hùng dân tộc Lê Lợi, Nguyễn Trãi. Những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã biết dựa vào dân, từ cuộc khởi nghĩa phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc quy mô cả nước, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giải phóng đất nước.

* Ý nghĩa lịch sử:

– Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi đã kết thúc 20 năm đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh, mở ra một thời kì phát triển mới của xã hội, đất nước, dân tộc Việt Nam – thời Lê sơ.

Câu 3: Trình bày và vẽ sơ đồ bộ máy chính quyền thời Lê sơ.

* Bộ máy chính quyền thời Lê sơ:

– Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục lại quốc hiệu Đại Việt, tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước mới.

– Chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời vua Lê Thánh Tông thì hoàn chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là vua. Để tập trung quyền lực vào nhà vua, Lê Thánh Tông đã bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như tướng quốc, đại tổng quản, đại hành khiển. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chức tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc cho vua có các quan đại thần. Ở triều đình có sáu bộ, ngoài ra còn có một số cơ quan chuyên môn.

– Ở địa phương, thời vua Lê Thái Tổ và Lê Nhân Tông, cả nước được chia làm 5 đạo.

– Dưới đạo là phủ, huyện [miền núi gọi là châu], xã. Đến thời vua Lê Thánh Tông, đổi chia 5 đạo thành 13 đạo thừa tuyên, thay chức An phủ sứ đứng đầu mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau ở mỗi đạo thừa tuyên.

– Dưới đạo thừa tuyên có phủ, châu, huyện, xã.

=> Nhận xét; Tổ chức nhà nước quân chủ chuyên chế được xây dựng chặt chẽ.

Câu 4: Trình bày những nét chính về tình hình kinh tế thời Lê sơ.

* Nông nghiệp:

– Giải quyết ruộng đất:

+ Cho 25 vạn lính [trong tổng số 35 vạn] về quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất.

+ Nhà Lê kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê làm ruộng.

+ Đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như: Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ.

– Định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép quân điền.

– Khuyến khích bảo vệ sản xuất:

+ Cấm giết trâu bò bừa bãi.

+ Cấm điều động dân phu trong mùa cấy, gặt.

+ Bảo vệ đê điều, cho đắp đê ngăn nước mặn.

* Công thương nghiệp:

– Các ngành, nghề thủ công truyền thống ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt, làm đồ gốm,… ngày càng phát triển.

– Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Thăng Long là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất.

– Các công xưởng do nhà nước quản lí, gọi là Cục bách tác, sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đông,…; các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh.

– Nhà vua khuyến khích lập chợ mới, họp chợ, ban hành những điều lệ cụ thể quy định việc thành lập chợ và họp chợ.

– Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh, Hội Thống và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên Quang được kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành, sứ, vải, lụa, lâm sản quý là những thứ hàng được thương nhân nước ngoài ưa chuộng.

=> Nhận xét: Kinh tế nước ta dưới thời Lê sơ phát triển mạnh.

Câu 5: Thời Lê sơ, xã hội có những giai cấp và tầng lớp nào?

– Trong xã hội thời Lê sơ:

+ Giai cấp địa chủ phong kiến [vua, quan lại, địa chủ…]: có nhiều ruộng đất, có kinh tế, có nhiều quyền lực trong xã hội, bóc lột nhân dân.

+ Giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư, sống chủ yêu ở nông thôn. Họ có rất ít hoặc không có ruộng đất, phải cày ruộng đất công, nộp tô, thuế, đi phục dịch cho nhà nước [đi lính, đi phu…] hoặc phải cày cấy ruộng thuê của địa chủ, quan lại và phải nộp một phần hoa lợi [gọi là tô] cho chủ ruộng. Nông dân là giai cấp bị bóc lột, nghèo khổ trong xã hội.

+ Tầng lớp thương nhân, thợ thủ công ngày càng đông hơn, họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội phong kiến coi trọng.

+ Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội, bao gồm cả người Việt, người Hoa, dân tộc ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bán mình làm nô hoặc bức dân tự do làm nô tì. Nhờ vậy, số lượng nô tì giảm dần.

=> Nhờ sự nỗ lực của nhân dân và chính sách khuyến nông của nhà nước, cuộc sống của nhân dân được ổn định, dân số ngày càng tăng. Nhiều làng mới được thành lập. Nền độc lập và thống nhất của đất nước được củng cố. Quốc gia Đại Việt là quốc gia cường thịnh nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ.

Câu 6: Nêu những thành tựu chủ yếu về văn hoá, giáo dục của Đại Việt thời Lê sơ? Vì sao quốc gia Đại Việt đạt được những thành tựu nói trên?

* Những thành tựu chủ yếu về giáo dục và khoa cử của Đại Việt thời Lê sơ:

– Ngay sau khi lên ngôi vua, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc tử giám ở kinh thành Thăng Long, mở trường học ở các lộ, mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học, đi thi trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát.

– Ở các đạo, phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi, có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học tập thi cử là các sách của đạo Nho. Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm địa vị độc tôn; Phật giáo, Đạo giáo bị hạn chế.

– Thời Lê sơ [1428 – 1527] tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông [1460 – 1497] tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 501 tiến sĩ, 9 trạng nguyên.

=> Nhận xét:

+ Giáo dục được nhà nước quan tâm và phát triển mạnh.

+ Thi cử được tổ thức đều đặn và nghiêm ngặt qua 3 kỳ thi [Hương – Hội – Đình]

* Những thành tựu chủ yếu về văn học, khoa học và nghệ thuật của Đại Việt thời Lê sơ:

– Văn học chữ Hán phát triển và tiếp tục chiếm ưu thế, có hàng loạt tập văn, thơ nổi tiếng. Văn học chữ Nôm giữ một vị trí quan trọng.

– Văn thơ thời Lê sơ có nội dung yêu nước sâu sắc, thể hiện niềm tự hào dân tộc, khí phách anh hùng và tinh thần bất khuất của dân tộc.

– Sử học có các tác phẩm Đại Việt sử kí [10 quyển], Đại Việt sử kí toàn thư [15 quyển], Lam Sơn thực lực, Việt giám thông khảo tổng luận, Hoàng triều quan chế…

– Địa lí học có Hồng Đức bản đồ, Dư địa chí, An Nam hình thăng đồ.

– Y học có Bản thảo thực vật toát yếu.

– Toán học có Đại thành toán pháp, Lập thành toán pháp.

– Nghệ thuật sân khấu như ca, múa, nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng và phát triển, nhất là chèo, tuồng.

– Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lê sơ biểu hiện rõ rệt và đặc sắc ở các công trình lăng tẩm, cung điện tại Lam Kinh [Thanh Hoá].

– Điêu khắc thời Lê sơ có phong cách khối đồ sồ, kĩ thuật điêu luyện.

=> Nhận xét: Thể hiện những tài năng sáng tạo của nhân dân ta và đóng góp vào kho tàng văn hóa của dân tộc.

* Giải thích được quốc gia Đại Việt lại đạt được những thành tựu nói trên:

– Quốc gia Đại Việt đạt được những thành tựu trên là do sự quan tâm của Nhà nước, biểu hiện qua các chính sách và biện pháp tích cực để khuyến khích, tạo điều kiện cho văn hóa, giáo dục phát triển.

– Nhân dân ta có truyền thống thông minh, hiếu học.

– Đất nước thái bình.

Câu 7: Nguyên nhân dẫn đến phong trào khởi nghĩa của nông dân ở đầu thế kỉ XVI. Ý nghĩa của phong trào.

* Nguyên nhân dẫn đến phong trào khởi nghĩa của nông dân ở đầu thế kỉ XVI:

– Thời Lê sơ [thế kỉ thế XV] là thời kì thịnh trị của nhà nước phong kiến tập quyền. Nhưng từ đầu thế kỉ XVI, nhà Lê bắt đầu suy thoái. Vua quan ăn chơi xa xỉ, xây dựng lâu đài cung điện tốn kém.

– Nội bộ triều Lê “chia bè kéo cánh”, tranh giành quyền lực. Dưới triều Lê Uy Mục, quý tộc ngoại thích nắm hết quyền bính, giết hại công thần tôn thất nhà Lê. Đươi triều Lê Tương Dực, tướng Trịnh Duy Sản gây thành phe phái mới, đánh giết nhau liên miên suốt hơn 10 năm.

– Nhân khi triều đình rối loạn, quan lại ở địa phương “cậy quyền thế ức hiếp dân, vật dụng trong dân gian cướp lấy đến hêt”, “dùng của như bùn đất…, coi dân như cỏ rác”. Đời sống nhân dân lâm vào cảnh cùng khốn.

– Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa nhân dân với nhà nước phong kiến trở nên gay gắt, làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa.

* Ý nghĩa của phong trào khởi nghĩa của nông dân ở đầu thế kỉ XVI:

– Các cuộc khởi nghĩa trước sau đều bị dập tắt, nhưng đã góp phần làm cho triều đình nhà Lê càng mau chóng sụp đổ.

Câu 8: Trình bày những nét chính về tình hình kinh tế nước ta ở thế kỉ XVI – XVIII.

* Nông nghiệp:

– Đàng Ngoài:

+ Ở Đàng Ngoài, khi chưa diễn ra chiến tranh Nam – Bắc Triều, thời Mạc Đăng Doanh được mùa, nhà nhà no đủ. Tiếp sau đó, những cuộc xung đột kéo dài giữa các tập đoàn phong kiến làm cho sản xuất nông nghiệp bị phá hoại nghiêm trọng. Chính quyền Lê – Trịnh ít quan tâm đến thủy lợi và tổ chức khai hoang.

+ Ruộng đất bỏ hoang. Mất mùa, đói kém xảy ra dồn dập. Nghiêm trọng nhất là vùng Sơn Nam [Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hưng Yên…] và vùng Thanh – Nghệ. Nông dân phải bỏ làng phiêu bạt đi nơi khác.

=> Nhạn xét: Nông nghiệp bị suy sụp một cách nghiêm trọng, đời sống nhân dân cực khổ.

– Đàng Trong:

+ Ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn ra sức khai thác vùng Thuận – Quảng để củng cố cơ sở cát cứ. Chính quyền tổ chức di dân khai hoang, cấp nông cụ, lương ăn, lập thành làng ấp.

+ Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí phía nam, đặt phủ Gia Định. Tiếp đó, vùng đất Mĩ Tho, Hà Tiên cũng được sáp nhập vào phủ này. Đến giữa thế kỉ XVIII, vùng đồng bằng sông Cửu Long có thêm nhiều thôn xã mới.

=> Nhận xét: Nông nghiệp phát triển mạnh, đời sống nhân dân ổn định.

* Thủ công nghiệp:

– Ở thế kỉ XVII, xuất hiện thêm nhiều làng thủ công [dệt vải lụa, gốm, rèn sắt, đúc đồng, dệt chiếu, làm giấy, khắc bản in,…]. Nhiều làng thủ công nổi tiếng như gốm Thổ Hà [Bắc Giang], Bát Tràng [Hà Nội], làng dệt La Khê [Hà Nội], rèn sắt ở Nho Lâm [Nghệ An], Hiền Lương, Phú bài [Thừa Thiên Huế]; các làng làm đường mía ở Quảng Nam…

– Gốm Bát Tràng rất được ưa chuộng.

– Nhiều lái buôn phương Tây khen đường của nước ta “tốt nhất trong khu vực”, “là mặt hàng bán rất chạy, đường rất trắng và mịn hạt, đường phèn thì tinh khiết, trong suốt.

* Thương nghiệp:

– Nghề thủ công phát triển thì việc buôn bán cũng được mở rộng. Các huyện vùng đồng bằng và ven biển đều có chợ và phố xã. Thời kì này cũng xuất hiện thêm một số đô thị. Ngoài Thăng Long [Kẻ Chợ] với 36 phố phường, ở Đàng Ngoài có Phố Hiến [Hưng Yên]. Bấy giờ có câu: “Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì Phố Hiến”. Ở Đàng Trong có Thanh Hà [Thừa Thiên Huế], Hội An [Quảng Nam], Gia Định [Thành phố Hồ Chí Minh].

– Trong thế kỉ XVII, nhiều thương nhân châu Á [Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đông Nam Á] và châu Âu [Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp] đến Phố Hiến, Hội An buôn bán tấp nập. Họ mở của hàng bán len dạ, đồ pha lê… và mua tơ tằm, đường, trầm hương, ngà voi…

– Chúa Trịnh, chúa Nguyễn cho họ vào buôn bán để nhờ họ mua vũ khí. Nhưng về sau, các chúa thi hành chính sách hạn chế ngoại thương. Do vậy, ở nửa sau thế kỉ XVIII, các thành thị suy tàn dần.

Câu 9: Chữ Quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào? Vì sao chữ Quốc ngữ tuy dễ học nhưng không có điều kiện phổ biến trong thời kì này?

* Sự ra đời chữ Quốc ngữ:

– Cho đến thế kỉ XVII, tiếng Việt đã phong phú và trong sáng. Một số giáo sĩ người phương Tây học tiếng Việt để truyền đạo Thiên Chúa. Họ dùng chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt

– Chữ Quốc ngữ đã ra đời như vậy. Một thời gian dài, chữ Quốc ngữ chỉ lưu hành trong giới truyền đạo. Đây là thứ chữ viết tiện lợi, khoa học, dễ phổ biến.

* Chữ Quốc ngữ tuy dễ học nhưng không có điều kiện phổ biến trong thời kì này vì:

Câu 10: Nêu những nét chính về tình hình xã hội Đàng Ngoài nửa sau thế kỉ XVIII.

– Vào giữa thế kỉ XVIII, chính quyền phong kiến Đàng Ngoài suy sụp. Vua Lê chỉ còn là cái bóng mờ trong cung cấm. Phủ chúa thì quanh năm hội hè, yến tiệc, phung phí tiền của. Quan lại, binh lính hoành hành, đục khoét nhân dân.

– Ruộng đất của nông dân bị địa chủ, quan lại lấn chiếm. Sản xuất nông nghiệp đình đốn. Hạn lụt, mất mùa liên tiếp xảy ra. Các đê sông Hồng, sông Mã nhiều năm bị vỡ. Hàng chục huyện bị ngập, nhà cửa trôi dạt. Nhà nước đánh thuế rất nặng các loại sản phẩm, hàng hóa. Công thương nghiệp càng sa sút, chợ phố điêu tàn.

– Vào những năm 40 của thế kỉ XVIII, hàng chục vạn nông dân chết đói, người sóng sót phải lìa bỏ quê hương, phiêu tán khắp nơi.

– Cuộc sống thê thảm đã thúc đẩy người nông dân vùng lên chống lại chính quyền phong kiến.

=> Nhận xét: – Triều đình nhà Lê ngày càng mục nát, suy yếu.

– Đời sống của người dân khổ cực đến mức cùng cực, thê thảm.

Câu 11: Hãy kể tên những cuộc khởi nghĩa nông dân tiêu biểu ở Đàng Ngoài nửa sau thế kỉ XVIII. Nhận xét về tính chất và quy mô của phong trào nông dân Đàng Ngoài thế kỉ XVIII, so sánh với các thế kỉ trước. Ý nghĩa lịch sử của phong trào.

* Những cuộc khởi nghĩa nông dân tiêu biểu ở Đàng Ngoài nửa sau thế kỉ XVIII:

– Khởi nghĩa Nguyễn Dương Hưng [1737]

– Khởi nghĩa Lê Duy Mật [1738 – 1770]

– Khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương [1740 – 1751]

– Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu [1741 – 1751]

– Khởi nghĩa Hoàng Công Chất [1739 – 1769]

* Nhận xét về tính chất và quy mô của phong trào nông dân Đàng Ngoài thế kỉ XVIII.

– Tính chất: quyết liệt, kéo dài.

– Quy mô: rộng lớn.

=> Khởi nghĩa của nông dân ở Đàng Ngoài diễn ra đồng loạt và dồn dập tuy đều thất bại nhưng cũng làm cho vua Lê và chúa Trịnh ngày càng mong chóng sụp đổ.

* So sánh với các thế kỉ trước:

– Giống nhau: Đều chưa có sự liên kết nên dễ bị dập tắt.

– Khác nhau:

+ Thế kỉ XVI: – Địa bàn nhỏ, lẻ.

– Chưa chuẩn bị, chưa có quy củ.

+ Thế kỉ XVIII: – Địa bàn rộng.

– Chưa có sự chuẩn bị.

* Ý nghĩa lịch sử của phong trào.

– Làm cho chính quyền phong kiến họ Trịnh bị lung lay.

– Tạo điều kiện cho nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Bắc.

– Nêu cao tiinh thần đấu tranh chống áp bức bóc lột của nhân dân ta.

Câu 12: Nêu những nét chính về tình hình xã hội Đàng Trong ở nửa sau thế kỉ XVIII.

– Từ giữa thế kỉ XVIII, chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong suy yếu dần. Việc mua quan bán tước phổ biến. Số quan lại ngày càng tăng, nhất là quan thu thế. Có nơi trong một xã có tới 20 xã trưởng và hàng chục nhân viên thu thuế [gọi là tướng thần]. Quan lại, hào cường kết thành bè cánh, đàn áp bóc lột nhân dân thậm tệ và đua nhau ăn chơi xa xỉ.

– Trong triều đình Phú Xuân, Trương Phúc nắm hết quyền hành, tự xưng “quốc phó”, khét tiếng tham nhũng.

– Nông dân bị địa chủ cường hào lấn chiếm ruộng đất. Nhân dân đồng bằng phải nộp nhiều thứ thuế. Nhân dân miền núi phải nộp lâm thổ sản như ngà voi, sừng tê, mật ong,…

– Cuộc sống của người dân ngày càng cơ cực. Nỗi bất bình oán giận của các tầng lớp xã hội đối với chính quyền họ Nguyễn ngày càng dâng cao.

=> Nhận xét: – Triều đình ngày càng suy yếu, mục nát.

– Đời sống nhân dân khổ cực.

Câu 13: Trình bày khái quát cuộc tiến quân của Quang Trung đại phá quân Thanh vào dịp tết Kỉ Dậu 1789. Ý nghĩa của chiến thắng trên.

* Diễn biến của cuộc tiến quân của Quang Trung đại phá quân Thanh vào dịp tết Kỉ Dậu 1789.

– Nhận được tin cấp báo, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế [12 – 1788], lấy niên hiệu là Quang Trung, lập tức tiến quân ra Bắc.

– Đến Nghệ An, Quang Trung tuyển thêm quân, mở cuộc duyệt binh lớn ở Vĩnh Doanh [Vinh, Nghệ An]

– Tới Thanh Hóa, Quang Trung tiếp tục tuyển thêm quân và làm lễ tuyên thệ. Trong lời dụ tướng sĩ, Quang Trung đã thể hiện rõ quyết tâm đánh tan quân ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc.

– Ra đến Tam Điệp, Quang Trung khen ngợi kế hoạch tạm rút quân để bảo toàn lực lượng của Ngô Thì Nhậm và các tướng.

– Quang Trung mở tiệc khao quân và tuyên bố: “Nay hãy ăn Tết Nguyên Đán trước, đến sang xuân, ngày mồng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy nhớ lời ta xem có đúng thế khồn ?”

– Từ Tam Điệp, Quang Trung chia quân làm năm đạo:

+ Đạo chủ lực, do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, thẳng hướng Thăng Long.

+ Đạo thứ hai và đạo thứ ba đánh vào Tây Nam Thăng Long và yểm hộ cho đạo chủ lực.

+ Đạo thứ tư tiến ra phía Hải Dương.

+ Đạo thứ năm tiến lên Lạng Giang [Bắc Giang], chặn đường rút lui của địch.

– Đêm 30 tết [âm lịch], quân ta vượt sông Gián Khẩu [sông Đáy], tiêu diệt gọn toàn bộ quân địch ở đồn tiền tiêu. Đêm mồng 3 tết, quân ta bí mật vây đồn Hà Hồi [Thường Tín, Hà Nội]. Quân giặc bị đánh bất ngờ, hoảng sợ, hạ khí giới đầu hàng.

– Mờ sáng mồng 5 tết, quân ta đánh đồn Ngọc Hồi [Thanh Trì, Hà Nội]. Đây là đồn quan trọng nhất của địch với khoảng 3 vạn quân tinh nhuệ đóng giữ. Đồn lũy được xây đắp kiên cố, xung quanh đều cắm chông sắt và chôn địa lôi dầy đặc.

– Khi đến sát đồn giặc, Quang Trung truyền lệnh cho tượng binh và bộ binh đồng loạt xông tới. Quân Thanh chống lại không nổi, bỏ chạy toán loạn.

– Khi đạo quân của Quang Trung đang đánh đồn Ngọc Hồi thì đạo quân của đô đốc Long tấn công đồn Đống Đa. Được nhân dân địa phương giúp sức, quân ta giáp chiến, đốt lửa thiêu cháy doanh trại giặc. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống khiếp sợ, thắt cổ tự tử.

– Nghe tin đại bại, Tôn Sĩ Nghị bàng hoàng mất vía, vội vã cùng vài võ quan vượt sông Nhị sang Gia Lâm.

– Trưa mồng 5 Têt Kỉ Dậu, vua Quang Trung trong bộ chiến bào xạm đen khói thuốc súng, cùng đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng giữa muôn tiếng reo hò.

* Ý nghĩa của cuộc tiến quân của Quang Trung đại phá quân Thanh vào dịp tết Kỉ Dậu 1789.

– Giải phóng đất nước.

– Bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

-Đâp tan âm mưu xâm lược của nhà Thanh.

………..

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo Dục

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề