Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Dựa theo cách thổi, sáo trúc chia ra 2 loại: sáo ngang hoặc sáo dọc. Mỗi loại đều rất phong phú về thể loại. Ở Việt Nam, Sáo ngang chiếm phần trăm phổ biến thông dụng cao. Mỗi loại Sáo có mỗi tone riêng nên người chơi thường chọn loại Sáo làm sao để phù hợp với tone của bản nhạc. Còn có các loại sáo có thêm một số lỗ bấm phụ trên thân sáo, giúp việc diễn tấu các nốt thăng/giáng dễ dàng.

Sáo La trầm là gì? Tại sao lại gọi là sáo La trầm?

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Tại sao lại gọi là sáo la trầm? Trong bộ sáo ngang cơ bản không thể không nhắc đến sáo la trầm, trong thang âm nhạc cụ quốc tế thì nốt la (A) nằm trên son (G) và dưới si (E) và cũng tương đương trong bộ sáo thì sáo la cao hơn sáo son trầm và thấp hơn sáo si, sáo la so với sáo đô thì thấp hơn 2,5 nốt, sáo la không cao cũng không quá thấp, âm thanh của sáo la hơi trầm, ấm, nhẹ nhàng. Khi bịt hết các nốt và thổi ở quãng 1 thì sáo la hiện trên máy đo âm chuyên dụng là chữ A4 vì vậy sáo la còn được các bạn trẻ gọi là sáo A4. Cũng vì âm thanh trầm ấm nên sáo la được gọi phổ thông là sáo la trầm, hiện tại gần như rất ít ai chơi sáo la cao (rất nhỏ và khó chơi) nên khi nhắc đến sáo la là chúng ta hiểu đó là la trầm..

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo la trầm là một dòng sáo mà được nhiều bạn sử dụng. Khi tiếp cận với dòng sáo la trầm thì trước tiên chúng ta nên chơi qua được các loại sáo như đô và si, vì hệ thống lỗ bấm của sáo la trầm có khoảng cách xa hơn một chút, người mới chơi sử dụng sáo la trầm sẽ hơi khó bịt kín tất cả các lỗ, phải làm quen một thời gian mới bấm được. Dòng sáo la trầm thường có hệ thống 6 lỗ bấm, 1 lỗ thổi, và một lỗ định âm cơ bản. Sáo la trầm cũng có đầy đủ các nốt như các cây sáo khác,có thể chơi được tất cả các ca khúc, tuy nhiên sáo la trầm thường thích hợp thổi những bài nhạc tình cảm, nhạc buồn, nhạc dân ca, quê hương... Sáo la phù hợp với những bài như: Tình Ca Quê Hương, Lối Về Đất Mẹ, Giấc Mơ Trưa, Gặp Mẹ Trong Mơ, Cô hàng Xóm, Sợi Nhớ Sợi Thương, Phía Sau Một Cô Gái...và rất nhiều ca khúc khác.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Hiện nay sáo la trầm thường được làm bằng trúc và nứa, hiện các cơ sở sản xuất gần như rất ít sản xuất bằng trúc do nguyên liệu trúc thành ống khá dày và lòng trong không được mịn như nứa. Phổ thông nhất vẫn là nứa vùng miền Nam (hình thức đẹp, giá hợp lý, âm khá hay) Dòng nứa nam hình thức bên ngoài vàng đều đẹp,nguồn nguyên liệu dồi dào,dễ dàng xử lý và chế tác. Dòng nứa Bắc (hình thức xấu xí, giá khá đắt, âm tuyệt vời) Dòng nứa Bắc nguồn nguyên liệu khá hiếm,càng ngày càng ít do hiện tại chỉ khai thác chứ không trồng mới, hình thức sẫm màu,nhiều loang lổ, quá trình xử lý và chế tác khắt khe hơn..

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo la trầm (nứa miền Nam)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sự khác biệt vê hình thức bên ngoài giữa sáo nứa Nam và nứa Bắc

Xem thêm sự khác biệt giữa nứa Nam và nứa Bắc tại ĐÂY. Sáo la trầm cũng có thể luồn được với sáo rê khi sử dụng hoặc biểu diễn. Hiện tại xưởng sáo trúc Cao Định cung cấp ra thị trường dòng sáo la trầm với nhiều phân khúc khác nhau, dòng sáo phổ thông cho các bạn mới tập và làm quen, người chơi nghiệp dư và bán chuyên nghiệp, dòng sáo nứa Bắc cao cấp cho những khách hàng khó tính nhất, người dùng chuyên nghiệp. Để biết thêm thông tin và được tư vấn quý khách vui lòng điện thoại tới số 0963 289 387 xin cám ơn!

Mỗi loại Sáo có tông riêng nên người diễn thường chọn loại Sáo làm sao để phù hợp với bài bản. Một số Sáo cải tiến được khoét thêm một số lỗ bấm phụ trên thân Sáo, giúp việc diễn tấu các nốt thăng/giáng dễ dàng.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo trong dân gian Việt Nam.

Nhìn chung Sáo Ngang thường làm bằng ống trúc, ống nứa hoặc ống rùng, thỉnh thoảng người ta tạo ra loại Sáo bằng kim loại hoặc bằng gỗ đều sử dụng tốt. Về cơ bản, Sáo Ngang có 1 lỗ thổi nằm cùng hàng với 6 lỗ bấm. Ngoài ra còn 1 lỗ dán màng (sáo Trung Hoa), lỗ âm cơ bản và những lỗ để buộc dây treo hay tua trang trí.

Lỗ âm cơ bản là lỗ khoét cuối ống, quyết định âm trầm nhất khi ta bịt kín tất cả những lỗ bấm. Âm trầm này dùng để xác định tên gọi của loại Sáo. Tuy nhiên, có những cây Sáo không có lỗ âm cơ bản nếu chúng bị cắt cụt ngay chỗ đó. Để xác định tên gọi người ta căn cứ vào đầu lỗ của ống Sáo và cho đó là lỗ âm cơ bản. Tùy vào từng loại sáo, lỗ âm này có thể có hoặc không.

Thông thường Sáo Ngang có âm vực rộng 2 quãng tám. Dù Sáo âm thấp hay cao đều có âm sắc trong sáng, tươi tắn, gợi nhớ khung cảnh đồng quê. Tuy nhiên các nghệ nhân có thể sử dụng chúng để diễn tả những giai điệu buồn man mác.

Về cách thổi nghệ nhân thường sử dụng kỹ thuật rung, đánh lưỡi (đơn, kép và tam) hoặc phi (một cách rung lưỡi cổ truyền). Ngoài ra còn cách nhấn hơi, luyến hơi, vuốt hơi, âm bội và ngón vỗ…

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Các loại sáo

Dựa theo cách thổi, Sáo có thể phân thành 2 loại:

1. Sáo Ngang 2. Sáo Dọc

Mỗi loại đều rất phong phú về thể loại tuỳ theo quốc gia và khu vực. Tuy nhiên, phổ biến và đa dạng hơn vẫn là các loại Sáo Ngang.

Hiện nay, trên thế giới có một số loại sáo được thổi theo tư thế ngang với tên gọi như sau:

Piccolo: sáo nhỏ, có âm thanh rất cao. Pipeau: sáo 6 lỗ đơn giản. Syrinx: còn gọi là Sáo thần Păng (pan flute), hình thức sáo ghép như khèn của Việt Nam. Double Flute: sáo đôi hay còn gọi là sáo kép, thổi hai cái một lúc. Mirliton: sáo sậy trẻ con, đầu bịt vỏ mỏng của củ hành. Galoubet: sáo 3 lỗ.

Sáo Ngang dùng trong dàn nhạc hiện nay có 3 loại:

1. Sáo Ngang tông Do (loại tiêu chuẩn) 2. Sáo Ngang tông Re giáng (âm thanh cao hơn nốt viết ½ cung) 3. Sáo ngang tông Mi giáng (âm thanh cao hơn nốt viết 1 cung ½)

“Sáo Ngang tông Do” được dùng trong dàn nhạc giao hưởng, hai loại “tông Re giáng” và “tông Mi giáng” thường dùng trong dàn kèn quân nhạc.

Về mặt kỹ thuật, Sáo Ngang là một thứ nhạc khí rất linh hoạt, chạy được tốc độ nhanh, đáp ứng nhiều lối viết nhạc khác nhau. Dùng Sáo Ngang rất tốn hơi, nên câu nhạc thường không viết quá dài và phải chú ý dành chỗ lấy hơi.

Nhóm nhạc cụ này còn có Piccolo Flute, Alto Flute.

Sáo Ngang và Sáo Dọc Việt Nam

Tại Việt Nam, phổ biến loại Sáo 6 lỗ bấm, 1 lỗ thổi, 1 lỗ âm cơ bản và 2 lỗ treo dây/định âm, âm vực rộng 2 quãng 8, được làm bằng trúc hoặc nứa theo hệ thất cung. Một số Sáo cải tiến có nhiều lỗ bấm hơn để thổi các nốt thăng/giáng. Ngoài ra còn có loại Sáo Dọc, với đầu thổi được thiết kế ở phần đầu thay vì ở phần thân của sáo, các lỗ và thế bấm cũng tương tự như Sáo Ngang. Loại Sáo Dọc này sử dụng đầu ngậm để thổi nên dễ điều khiển luồng hơi vào thân sáo dể phát ra tiếng hơn Sáo Ngang. Tuy nhiên, loại sáo này ít được sử dụng phổ biến và đôi khi bị lầm với Tiêu vì cùng thổi dọc. Điểm khác biệt cơ bản giữa Sáo Dọc và Tiêu là ở kích thước, chiều dài, số lỗ thổi và vị trí các lỗ bấm.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo Recorder.

Recorder là loại Sáo Dọc thuộc bộ nhạc cụ gỗ, thịnh hành ở châu Âu. Đặc điểm là dễ thổi và không tốn nhiều hơi, dễ điều khiển luồng hơi hơn Sáo Ngang. Recorder có 4 loại là Sopranino, Soprano, Tenor và Bass.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Các loại Dizi khác nhau của Trung Hoa.

Dizi (笛子, bính âm: dízǐ, Hán-Việt: địch tử, có nghĩa là Cây Sáo) hay còn gọi là Sáo Tàu, là một loại Sáo đặc trưng của Trung Hoa với cấu tạo cơ bản gồm 6 lỗ bấm (các cây cải tiến có nhiều lỗ bấm hơn), 1 lỗ thoát âm và 2 lỗ buộc dây trang trí, cũng có tác dụng định âm. Các lỗ bấm này thiết kế theo hệ thống Ngũ cung của âm nhạc Trung Hoa. Ngoài ra một đặc trưng khác của Sáo Dizi là có lỗ dán màng nằm giữa lỗ thổi và những lỗ bấm để tạo âm rung. Lỗ này dán 1 màng mỏng bằng ruột cây tre hoặc bằng giấy bóng mỏng hoặc giấy chuyên dụng. Dizi thường có nhiều dây màu quấn quanh thân sáo, ngoài vai trò trang trí, các dây này còn giúp cố định thân sáo chắc chắn, hạn chế các tác động và bị nứt. Dizi thường được ghép lại từ 2 đoạn thông qua khớp nối, có chạm khắc rồng hoặc hoa văn.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Một cây Bawu tone F (sáo Mèo Trung Hoa).

Sáo Bawu (giản thể: 巴乌, phồn thể: 巴烏; bính âm: bāwū, Hán-Việt: Ba Ô) hay còn được gọi là Sáo Mèo Trung Hoa, có nguồn gốc từ tỉnh Vân Nam, là một loại sáo dân tộc nhưng đã dần trở thành nhạc cụ tiêu chuẩn và phổ biến ở Trung Hoa, dùng trong những bản nhạc Hoa hiện đại hay truyền thống. Loại Sáo này cũng được một số nhà soạn nhạc và biểu diễn phương Tây sử dụng.

Bawu có cấu trúc đầu lỗ thổi gắn lưỡi gà bằng đồng, 7 hoặc 8 lỗ bấm. Lỗ để xác định âm của cây sáo không tính bằng lỗ cuối mà bằng lỗ bấm thứ 4 tính từ lỗ thổi xa nhất. Bawu thường được làm từ trúc hoặc bằng gỗ.

Nếu kết hợp 2 thanh sáo có tông khác nhau sẽ tạo thành Bawu Kép (còn gọi là Sáo Mèo Kép), có thể thổi được nhiều quãng âm hơn.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo Mèo H’Mông.

Sáo Mèo là loại nhạc cụ của người H’Mông miền Bắc Việt Nam. Đặc trưng của Sáo Mèo là ở đầu lỗ thổi có gắn thêm lưỡi gà (còn gọi là lam) bằng đồng, và bên dưới cây Sáo, gần lỗ thổi có thêm 1 lỗ bấm. Cách thổi của Sáo Mèo khác với Sáo thông thường. Sáo Mèo Việt Nam phân biệt thành 2 loại riêng là Sáo Mèo Nam/Sáo Mèo Nữ (Sáo Mèo Nam có đường kính ống sáo lớn hơn hẳn Sáo Mèo Nữ). Sáo Mèo có nhiều dạng khác nhau, mỗi loại có ưu nhược điểm riêng.

Sáo Mèo có âm sắc dân tộc vùng núi. Tuy nhiên, đây là loại sáo khó chế tạo và tuổi thọ không cao vì lưỡi gà dễ hư, khó sửa chữa hoặc thay thế.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo Bầu.

Sáo Bầu (giản thể: 葫芦丝, phồn thể: 葫蘆絲; bính âm: Húlúsī, Hán-Việt: Hồ Lô Ti, nghĩa là Tơ Hồ Lô, ý chỉ âm thanh mượt mà như sợi tơ) hay còn được gọi là Sáo Bầu Tơ, là một loại Sáo của dân tộc thiểu số Trung Hoa với nguồn gốc lâu đời từ trước công nguyên, có hình dạng một quả bầu hồ lô với phần đầu dùng để thổi, phần đáy cắm liền với 3 cây Sáo ngắn: một cây thổi chính và 2 cây dùng để bè, kèm theo đó 3 miếng lưỡi gà. Thân quả bầu đóng vai trò như hộp âm của cây Sáo, bên ngoài có thể được vẽ, khắc trang trí hoa văn hoặc không.

Ống sáo chính của Sáo Bầu có khoét 7 lỗ dùng để bấm. Hai ống phụ chỉ để tạo hoà âm. Sáo bầu có âm lượng tương đối nhỏ nhưng êm dịu.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Flute.

Sáo Flute thường dùng trong hoà tấu dàn nhạc phương Tây, có thân và nút bấm nổi bằng kim loại, ráp nối từ nhiều đoạn với nhau. Sáo FLute có 2 loại thông thường là tone C or B! Âm thanh khá sắc nét và tình cảm.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo Quạt dạng cong (Panflute).
Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo quạt Siku với 3 loại kích cỡ khác nhau.

Sáo Quạt là một trong những nhạc cụ cổ xưa nhất của nhạc cụ bộ hơi, bắt nguồn từ Châu Âu cổ đại. Sáo Quạt có hình dạng như cái quạt, gồm nhiều ống ghép lại với nhau. Có thể ghép cong hoặc thẳng. Sáo Quạt dạng thẳng còn có tên gọi là Siku.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Một số Sáo Ocarina (Ocarine-Minsoo-Kim) kích cỡ khác nhau.

Sáo Ocarina là dạng sáo thường được làm từ gốm sứ, tuy nhiên ngày này cũng có thể làm từ những nguyên liệu khác như nhựa, gỗ, thuỷ tinh, kim loại hoặc xương động vật. Sáo Ocarina có rất nhiều biến thể, nhưng thường là một không gian kín có từ 4 đến 12 lỗ bấm và 1 lỗ thổi, có thể trang trí nhiều hình vẽ, màu sắc, hoa văn trên bề mặt hoặc không.

Sáo thường được làm từ trúc, nứa hoặc gỗ, ngoài ra còn có thể làm từ nhựa, kim loại (nhôm, inox), xương,… hoặc thâm chí bằng vàng. Mỗi loại vật liệu cho ra một âm sắc đặc trưng khác nhau. Chất lượng vật liệu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng âm thanh mà cây sáo phát ra. Riêng với Sáo Trúc, Nứa thì vật liệu dùng để làm Sáo thường là cây trưởng thành hoặc tốt hơn là loại đã già, nhiều năm tuổi (nhưng không quá già), âm chắc, đanh, không sâu bệnh hay mối mọt.

Sáo làm từ nhựa hoặc kim loại thường chế biến công nghiệp nên độ chuẩn xác của nốt cao, ít bị sai lệch. Sáo Trúc, Nứa hoặc Gỗ thường chế tạo thủ công nên độ chuẩn xác đòi hỏi rất nhiều ở vật liệu và tay nghề của người chế tạo. Tuy nhiên, các loại Sáo này lại cho ra âm sắc hay hơn.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo Ocarina Trung Hoa với hình bầu đặc trưng.

Sáo được chế tạo với nhiều tông (tone) khác nhau. Các tông của Sáo được liệt kê theo thứ tự từ cao đến thấp như sau:

* Tần âm cao

Sol cao(G5) Fa cao (F5) Mi cao (E5)

* Tần âm trung

Re cao (D5) Do thăng cao/ Re giáng cao (C

5/Db5)

Do trung (C5) Si (B4) Si giáng/La thăng (Bb4 hoặc A

4)

* Tần âm trầm

La trầm (A4) La giáng trầm/Sol thăng trầm (Ab4 hoặc G

4)

Sol trầm (G4) Sol giáng trầm/Fa thăng trầm (Gb4 hoặc F

4)

Fa trầm (F4) Mi trầm (E4) Mi giáng trầm (Eb4) Re trầm (D4) Re giáng trầm/Do thăng trầm (Db4 hoặc C

4)

Do trầm (C4)

* Tần âm siêu trầm

Si trầm (B3 Si giáng trầm/La thăng trầm (Bb3 hoặc A

3)

La trầm (A3) Sol trầm (G3)

Các tông cao hơn hoặc thấp hơn vẫn có thể chế tạo nhưng rất hiếm được sử dụng.

Dưới đây mình có các bài:

– Các loại Sáo, Tiêu Tre Trúc trên thế giới – Sáo trúc – Chi (Di) và Hu – Tập Thổi Ra Tiếng Sáo – Phương Pháp Học Sáo 11 Lỗ – Nhạc sĩ Nguyễn Đình Nghĩa – Sáo Ngang

Cùng với 43 clips nghệ thuật diễn tấu các loại Sáo trên thế giới do các nghệ nhân hàng đầu trình diễn để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn.

Túy Phượng

(Theo Wikipedia)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo Bansuri 8 lổ bấm của Ấn Độ.
Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo Bansuri của Ấn Độ.

Các loại Sáo, Tiêu Tre Trúc trên thế giới

(NS Nguyễn Đình Nghĩa)

Sáo ở Ấn Độ

Sáo trúc là nhạc cụ quan trọng trong âm nhạc cổ điển Ấn Độ, phát triển độc lập so với sáo phương Tây. Hindu thần Krishna là truyền thống được coi là một bậc thầy của Bansuri. Sáo Ấn Độ là rất đơn giản so sáo Tây, sáo được làm bằng tre.

Pannalal Ghosh, một huyền thoại của nghệ sĩ bộ môn Sáo của Ấn Độ. Ông là người đầu tiên để biến đổi một nhạc cụ dân gian nhỏ, một sáo tre (dài 32 inches với bảy lỗ ngón tay) thích hợp cho việc chơi truyền thống âm nhạc cổ điển Ấn Độ, và cũng để mang cây sáo có tầm cỡ so với nhạc cụ cổ điển khác. Khoét thêm các lỗ để có thể chơi được madhyam, trong đó tạo điều kiện cho các meends (như MN, AM và MD) trong một vài ragas truyền thống.

Các buổi hòa nhạc cho Sáo Ấn Độ có cao độ tiêu chuẩn. Trong âm nhạc Carnatic, các nốt được gọi bằng số như (giả sử C là chủ âm) 1 (C), 1-1/2 (C #), 2 (D), 2-1/2 (D #), 3 ( E), 4 (F), 4-1/2 (F #), 5 (G), 5-1/2 (G #), 6 (A), 6-1/2 (A #) và 7 (B). Tuy nhiên, cao độ của tác phẩm là chính nó không cố định và do đó bất kỳ sáo có thể được sử dụng cho các buổi hòa nhạc (miễn là có nhạc cụ đệm kèm theo) và phần lớn là sở thích cá nhân của nghệ sĩ.

Hai loại chính của sáo, Ấn Độ hiện đang được sử dụng

Loại Sáo thứ nhất: Sáo Bansuri này, có sáu lỗ bấm và lỗ thổi, được sử dụng chủ yếu trong thể nhạc Hindustani của Bắc Ấn Độ.

Loại Sáo thứ hai: Venu hoặc Pullanguzhal, có tám lỗ bấm, và được chơi chủ yếu trong âm nhạc Carnatic của Nam Ấn Độ.

Hiện nay, sáo ngang tám lỗ bấm được phổ biến với nghệ sĩ Sáo Carnatic. Kỹ thuật này đã được giới thiệu bởi TR Mahalingam vào giữa thế kỷ 20. Sau đó nó được phát triển bởi các BN Suresh và Tiến sĩ N Ramani. Trước đó, miền Nam Ấn Độ sáo chỉ có bảy lỗ , với các tiêu chuẩn bỏ ngón phát triển bởi Sharaba Shastri, của trường Palladam, vào đầu thế kỷ 20. Năm 1998, dựa trên các nghiên cứu về Bharata Natya Shastra’s Sarana Chatushtai, Avinash Balkrishna Patwardhan phát triển một phương pháp để sản xuất sáo hoàn chỉnh cho mười thatas hiện đang hiện diện trong âm nhạc cổ điển Ấn Độ.

Chất lượng âm thanh của sáo phần nào phụ thuộc vào tre cụ thể được sử dụng để làm cho nó, và nó thường được đồng ý rằng tre phát triển tốt nhất trong khu vực Nagercoil ở Nam Ấn Độ.

1. Sáo Bansuri

Còn có tên gọi khác Murali, Bansi, Baashi. Người Ấn Độ và Pakistan thổi sáo Bansuri 6 lỗ chơi được 2.5 octave, 7 lỗ chơi được 3 octave.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo Bansuri (Tiếng Hindi: बांसुरी); (Vietnamese: বাঁসুরী) là một sáo alto ngang của Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh và Nepal, đã có chiều dài của 1 ống tre với sáu hoặc bảy lỗ. Một loại nhạc cụ cổ gắn liền với truyền thống chăn bò và các chăn cừu, nó gắn liền với những câu chuyện tình yêu sâu sắc của Krishna và Radha, và được mô tả trong bức tranhPhật giáo từ khoảng 100 AD.

Đó là những lời thơ được khắc trên sáo với giai điệu trữ tình với Lila Rasa Krishna’s; những giai điệu trên sáo thơ của ông đã làm phụ nữ ở Braj điên đảo. Các bansuri Bắc Ấn Độ, thông thường khoảng 14 inches dài, theo truyền thống được sử dụng như một công cụ chủ yếu cho soprano đi kèm trong tác phẩm âm nhạc nhẹ bao gồm cả nhạc phim. Có nhiều kích cỡ của bansuri từ 14 đến 30.

Các bansuri bắt nguồn từ trong tiếng Phạn là trúc, tre + swar (note nhạc). Có hai loại giống của bansuri: các ngang, và fipple này. Sự đa dạng fipple được gắn bởi 1 cái còi thường chơi trong âm nhạc truyền thống dân gian . Bởi vì sự dễ dàng , sự đa dạng ngang nên được ưa thích trong âm nhạc cổ điển.

Pandit Pannalal Ghosh (1911-1960) là nhà làm sáo và chơi sáo Bansuri nổi tiếng, ông đã cải tiến cây Sáo từ một nhạc cụ dân gian vào trong âm nhạc cổ điển. Ông cải tiến chiều dài và số lỗ và ngay cả độ dày của vòng chung quanh lỗ và mỗi lỗ hơn nghiêng 90 độ từ khoảng cách đường thẳng trong sáu lỗ khác. Bansuris cải tiến tạo nên một octaves thấp hơn.

Bansuris khác nhau về độ dài. Chúng dao động từ khoảng 12 inch lên đến khoảng 40 inch. Bansuris dài 20 inches là phổ biến. Một sáo, Ấn Độ và phổ biến tương tự như chơi ở Nam Ấn Độ là Venu. Ngón trỏ, giữa, và ngón tay áp út của cả hai tay thường được sử dụng để chơi các Bansuri sáu lỗ. Đối với các bansuri lỗ bảy, các ngón tay út của bàn tay phải thường được sử dụng.

Những âm thanh từ Bansuri một đến từ cộng hưởng trong cột hơi bên trong nó. Chiều dài của cột này có thể khác nhau bằng cách đóng hoặc mở các lỗ. Đồng thời, bấm nửa lỗ mở, sẽ cho ra note thăng . Các ‘sa’ (trên thang âm sargam, Ấn Độ, tương đương với note Đô) của 1 octave bằng cách bấm gồm ba lỗ đầu từ miệng lỗ. Khi thổi các octaves cao hơn và thấp hơn là chơi bằng cách mím môi để điều chĩnh làn hơi. Để bấm các lỗ dễ dàng bấm được nữa-lỗ, người chơi sáo phải bấm ngón tay phần thịt thay vì đầu ngón tay. Trong khi chơi, các tư thế ngồi cũng rất quan trọng để phần không bị căng thẳng khi ngồi nhiều giờ. Bansuris các kích cỡ khác nhau được sử. Bansuris các kích cỡ khác nhau được sử dụng để chơi cao độ khác nhau. Các bansuris với độ dày,ống lớn và dài thường cho octave thấp , và những ống mỏng cho octaves cao hơn.

Nhạc sĩ nổi tiếng của bansuri bao gồm Pannalal Ghosh, Vijay Raghav Rao, Hariprasad Chaurasia, Nityanand Haldipur, Raghunath Seth, và Devendra Murdeshwar.

Để chơi được thang âm Diatonic bansuri, điều quan trọng là tìm lối bấm. Như note E và G, bansuri Sa bằng cách đóng ba lỗ đầu tiên, tương đương với D, là note chủ âm, bạn có thể coi bài nhạc viết ký âm bằng cách tạo ngón tương ứng với cách viết. Một nghệ sĩ bansuri có thể đạt được sự phức tạp của thể nhạc Raga bằng nhiều kỷ thuật, và lối vuốt nhanh bởi sự thay đổi hơi thở, chạy ngón nhanh khi chơi cả hai, nửa lỗ và nguyên lỗ, và bao gồm các lỗ dần dần.

Những nhà khảo cổ học tìm ra những khúc sáo 43 đến 67.000 năm tuổi.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo Bansuri khoét 7 hay 8 lỗ. Ngài Krishna thường sử dụng loại sáo nầy, nên được gọi Venu-Gopala, và âm nhạc từ sáo của ông được gọi là Venu Naadham.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Bansuri của miền Bắc Ấn Độ, như đã nóí do nhà phát minh trong thế kỷ Pannalal Ghosh, làm bằng tre mỏng và chỉ có một đốt và được điều chỉnh với qui mô chromatic thồi được phạm vi khoảng 3 octaves. Những ống Bansuri tốt được làm bằng tre hiếm Sunderbans và được làm bằng tay. Sáo Bansuri là đặc trưng của Ấn Độ, gần với sáo Bass của Tây Phương, hương vị thân gỗ của nhạc cụ là thực sự tuyệt vời của thế giới âm thanh.

Bansuri đơn giản và phong phú, ban đầu từ một nhạc cụ dân gian, đã phát triển vào âm nhạc cổ điển, nhạc jazz đương đại và âm nhạc thế giới.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Trong âm nhạc Ấn Độ hệ thống Sargam tương ứng với tên các note (Solfege) hệ thống của Âu Châu. Đây là một biểu đồ trong đó cho thấy tên của các ‘Bilawal “That” (thang âm parent) trong Sargam và tương ứng với tên của hệ thống trưởng Solfege:

1. Sadhjya viết tắt là Sa tương ứng với Đô

2. Reshab viết tắt là Re tương ứng với Re

3. Gandhar viết tắt là Ga tương ứng với Mi

4. Madhyam viết tắt là Ma tương ứng với Fa

5. Pancham viết tắt là Pa tương ứng với Sol

6. Dhaivat viết tắt là Dha tương ứng với La

7. Nishad viết tắt là Ni tương ứng với Ti

Những giòng kẻ dưới một note làm giảm bằng một nửa – bước. Được gọi là Swar Komal:

RE, GA, Dha,..

Đường thẳng đứng ở trên mỗi chữ note là tăng một nữa – bước. Được gọi là Tivra Ma.

Dấu chấm ở dưới note chữ có nghiã là âm dưới chính giữa của Sa.

Dấu chấm ở trên note chữ có nghĩa là âm trên chính giữa của Sa.

Biểu đồ trên đây cho thấy fingerings (ngón) cơ bản cho các bansuri. Điều này cho Kalyan ‘That’, mà tương ứng với các chế độ Lydian trong âm nhạc Châu Âu. (A quy mô lớn với mức độ thứ tư lớn lên bằng một nửa – bước)

Sa (Do) là chơi bằng ba lỗ ngón tay đầu tiên.

Sáo Bansuri với 7 lỗ bấm, Tivra Ma Ma ở chính giữa của octave cao, với cách đóng các lỗ ngón hoặc mở hết các lỗ ngón bấm (cho octave cao thì ngón đầu tiên phaỉ mở lỗ).

Shuddh (lit. = tinh khiết) Ma (unraised mức độ thứ tư) và tất cả những note giảm (komal Re, komal Ga, komal DHA và komal Ni) các ngón được mở theo sự cần thiết của cách bấm.

SÁO VENU

Sáo Venu (tiếng Phạn: वेणु; Venu) là một sáo ngang được sử dụng trong âm nhạc Carnatic của miền Nam Ấn Độ. Mặc dù nó thường được gọi là Sáo Carnatic hay đơn giản là Sáo bằng tiếng Anh, Venu là tên tiếng Phạn cổ của nhạc cụ. Nó cũng được gọi bằng tên khác nhau trong các ngôn ngữ của Nam Ấn Độ, bao gồm Pullankuzhal (புல்லாங்குழல்) trong Tamil và cũng trong Malayalam, và ಕೊಳಲು (KoLalu) trong Kannada. Nó được biết đến như là Venu trong Telugu (Andhra Pradesh).

Là một trong những nhạc cụ cổ nhất của Ấn Độ, loại sáo ngang làm bằng tre. Các ngón tay của cả hai tay được sử dụng để đóng và mở các lỗ. Sáo có 1 huyệt khẩu, và tám lỗ có nhiều các kích cỡ khác nhau.

Trong truyền thuyết Thần Thoại, sáo Venu được các thần Hindu Krishna tấu chung. Loại sáo chủ yếu được sử dụng ở Nam Ấn Độ.

Sáo Venu có khả năng tấu được 2 octave rưỡi với làn hơi và lối bỏ ngón riêng biệt. Âm thanh tiếng sáo giống như giọng nói của người ,là chỗ âm thanh monophonous .Những lối vuốt nữa ngón hay ,1/3 ngón … cho phép một mức độ quan trọng trong việc thực hiện âm nhạc.

Sáo Venu trong miền Bắc Ấn Độ gọi là Subari.

Venu là tên biệt hiệu của Thần Hindu Krishna, vị thần nầy thường tấu Venuvu, do đó Venu củng thành tên của ông.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Sáo trúc – Chi (Di) và Hu.

Sáo trúc – Chi (Di) và Hu

(NS Nguyễn Đình Nghĩa)

Hai ống sáo trúc sáu lỗ bấm Transversal đã được khai quật từ năm 1978 Thời kỳ Chiến Quốc (475-221 BC) lăng mộ của Marquis Yi, hoàng đế của nước Zeng, người đã mất năm 433BC.

Cả hai loại sáo đều có năm lỗ sáo giai điệu và một lỗ huyệt khẩu đặt ở góc 90 độ, cộng thêm một lỗ thông hơi. Sáo có thể chơi năm cung với một cung chromatic.

Cuối đuôi ống sáo là 30.2cm dài với đường kính 1.7cm. Đầu ống gần miệng lỗ thổi là bị nút chặn trong khi đầu kia là còn mở. Kiểu này được gọi là sáo Chí trong thời cổ đại, và Di ở Trung Quốc hiện đại.

Sáo khác trên đầu trang là 29.3cm dài, với đường kính 1.9cm. Được biết đến lịch sử tên gọi là Hồ (Hu), kiểu này sáo có cả hai đầu bị nút chặn. Marquis Yi’s Hồ là sáo duy nhất của loại hình này ngày trước khi nhà Tần (Qin) (221-206 BC), khi triều đại thống nhất của Trung Quốc. Nhạc cụ Sáo Hu khám phá ra trong lăng mộ Marquis Yi’s, Hồ (Hu) đã chỉ được biết đến trong các tài liệu lịch sử.

Chủ sở hữu của hai sáo là vua một nước nhỏ gọi là Tăng (zeng), bị xâm chiếm bởi hàng xóm hùng vĩ, Vua nhà Chu, và đã được cống triều đến một nước cấp dưới trong thời kỳ Chiến Quốc. Như cai trị trong thời gian, dài Marquis Yi đánh giá cao âm nhạc. Ông rõ ràng duy trì một dàn nhạc tòa án rất lớn trong cuộc sống của mình. Lăng mộ của ông là một nhà kho tàng âm nhạc tuyệt vời. Hai loại sáo đã được khai quật cùng với nhiều nhạc cụ khác, bao gồm một bộ 62 mãnh Chuông nối tiếp.

Việc phát hiện ra các loại sáo Jiahu và sáo xương Hemudu, cũng như sáo trong lăng mộ Marquis Yi’, giả thuyết trước đó cho rằng sáo, có nguồn gốc từ Trung Á.

Các tài liệu đầu tiên của Trung Quốc là sáo Chí, xuất hiện thời nhà Chu (1122-221 TCN) trong sách biên niên sử của nhà Lữ. Tương tự, sáo Hồ (Hu) lần đầu tiên xuất hiện trong thơ nhà Chu. Hệ thống phân loại của nhà Chu, sáo trúc được xem như nhạc cụ làm bằng gỗ. Tre đã trở thành vật chất của sự lựa chọn cho sáo trên vật liệu khác như đồng, do sự phong phú và dễ làm để làm. Sáo có trong thời Chiến Quốc, loại sáo Transversal làm bằng đồng với bảy lỗ giai điệu trong bộ sưu tập tư nhân Trung Quốc tại Mỹ.

Trong thời nhà Hán (206 TCN-220 AC), âm nhạc cho sáo ngang được nhập từ Trung Á. Khi âm nhạc Trung Á được chấp nhận rộng ở vùng trung tâm của Trung Quốc, các Hengdi hay sáo ngang cũng đạt được phổ biến nhiều hơn nữa.

Hai ống nhạc cụ Hengdi thời nhà Hán được khai quật tại Mawangdui, Trường Sa (Changsa), tại tỉnh Hồ Nam (Hunan) có sáu lỗ ngón tay và có thể chơi bảy note cộng với hai tông chromatic. Không lâu sau khi nhà Hán, để mở rộng thêm tính linh hoạt của sáo đã dẫn đến việc sản xuất mười lỗ sáo có khả năng chơi chromatic. Trong nhà Đường (618-907) sự phát triển quan trọng nhất trong lịch sử của Di là màng của tế bào (màng lụa), mặc dù nó đã không đạt được phổ biến ngay bấy giờ.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Tập Thổi Ra Tiếng Sáo

(NS Nguyễn Đình Nghĩa)

  1. Tập cho cách thổi ra tiếng sáo

Lời nhắn nhũ cho người mới bắt đầu đặt ống sáo lên môi để tập, với tâm niệm, là đừng để cho tiếng sáo nghe phì phò. Tất nhiên không dễ dàng, để có tiếng sáo tròn, đầy đặn, đẹp, cho người mới bắt đầu, một âm thanh không đúng tiêu chuẩn thổi ra, cũng được người thầy chấp nhận, vì miễn sao người mới học đã biết thổi sao cho kêu được tiếng. Nhưng tôi tin rằng, với sự luyện tập, và sự chỉ dẫn, trong tương lai, tiếng sáo của một nốt nhạc đầu tiên được thổi ra, đó là một âm thanh đẹp

Làm sao thổi được tiếng đầu tiên

Khi bắt đâu tập mím môi để phát ra âm thanh, đừng để tạp niệm trong lòng, ví dụ như làm sao tôi thổi được nguyên bài nhạc, làm sao tôi cầm ống sáo nầy một cách dễ dàng, tôi….. Hãy tập trung với bài tập của mình ngày hôm nay.

Ngay từ đầu, đầu tiên người tập phải thử trên huyệt khẩu của ống sáo với môi của mình, úp lỗ thổi trên môi, rà rà từ từ lăn ra đến dưới môi, tìm khoảng môi, và lỗ thổi mà mình cảm thấy dể chịu, nên nhớ là không phải đẩy mạnh ống sáo trên môi, mà giữ thật nhẹ nhàng. Mỗi người có cảm giác khác nhau về lối mím môi, Nhớ rằng giữ lỗ thổi dưới môi dưới., Có thể mất một thời gian, và khó để tập cho quen lối mím trên ống sáo, Nhưng với sự kiên nhẫn, và luyện tập, người tập sẽ thành tựu.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Cách tập mím môi: mím môi cho thẳng song song (như đang cười mím) với nhau, để hở 1 lổ nhỏ trên môi, thổi nhẹ hơi thở ra.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Môi với lối mím thổi mạnh ra nhiều hơi hơn,

Cả hai môi trên và môi dưới phải điều hành lỗ thổi, song môi trên có phần quyết định tạo ra âm thanh. Có thể tập bằng cách mím môi chặt, chỉ để một lổ nhỏ trên môi vùa đủ cho luồng hơi thổi trên bàn tay của mình, để thấy cột hơi thổi ra, thành một đường hơi nhỏ gọn, hay luồng hơi phà tỏa ra . Bạn không thể nào tạo ra một âm thanh nếu không tập mình điều khiển luồng hơi thổi ra gọn. Và trên huyệt khẩu của ống sáo, tập cho kêu tiếng, từ từ thấp lên cao, nhưng chắc chắn phải cho tiếng sáo “khoẻ mạnh”.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Làn hơi thu gọn

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Thổi làn hơi bị phà, tỏa ra

Thông thường nốt dể kêu tiếng để thổi là nốt thấp của giữa octave, nhưng người mới tập chọn bất cứ nốt nào cho dể để có tiếng phát âm ra là tiếng tròn, đẹp, Ta thử tập nốt Si:

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Khi thổi cho ra tiếng, đếm 5, ngưng lại để thở, rồi lập lại. Tập vài lần như vậy, khi đã nhuần, bước kế tiếp thổi nốt nhạc đó, và thổi cho tiếng dài hơn, nên nhớ là đừng tống hơi ra ngoài quá nhiều, để tiếng kêu có tiếng hơi, tiếng sáo phải trong, tập giữ cho tiếng nói và cổ họng thoải mái đừng để tiếng nói phát âm cùng lúc với tiếng sáo. Nào, ta có thề lấy sáo ra khỏi môi và khõang một phút im lặng, cơ giản bắp thịt vùng miệng, bằng cách làm động tác ngáp mở rộng cả cổ họng (trong tư thế thẳng lưng), và cả lồng ngực. Với động tác thở mạnh cả lồng ngực, và cổ họng giúp cho cả cơ thể thoải mái. Khi đã tạo được tiếng sáo đầu tiên người tập chuyển qua nốt thứ hai, là 1 nốt thấp hoặc cao hơn, nốt A hoặc nốt C.

Sau khi đã tập qua những nốt căn bản, người mới tập sẽ qua giai đọan tập thở lấy hơi, cùng với những ngón tay, cùng với lối mím môi và kỷ thuật, cùng với sự luyện tập để tạo ra tiếng sáo trong, rõ ràng.

Có một số người cho rằng môi không được chuyển động khi đang thổi .Mọi sự điều chĩnh có thể được, nhưng thật là vướng bận khi nghĩ tới một điều với cảm giác như phải lượm một vật gì ngay ở dưới chân mà không không phài cúi xuống.Môi chúng ta có cãm giác tinh tế để điều chĩnh mà tạo ra âm thanh trên ống sáo

II. Và Phương cách thứ 2 để thổi ra tiếng

Để tập dễ cho ra tiếng, bạn không cần phải bấm các ngón trên lỗ sáo đặt vào môi dưới của bạn trên mép (của) lỗ thổi, và thổi nó như thổi ống chai. Chắc chắn để miệng lỗ thổi nâng sát vào môi và giữ cho đầu ở tư thế thẳng. Môi dưới của bạn phải được thả lõng, không cong môi, không chu môi ,hoặc tì nó xuống ống sáo. Tuy nhiên, nếu bạn thực tập trên sáo gỗ, thì khi mím môi, môi dưới bạn hơi tì xuống một chút vào miệng lỗ sáo.Nén đôi môi (của) bạn cùng nhau tại góc, để lại khoảng hẹp mở, trung tâm ở chính giữa trên lỗ thổi.Môi đầu của bạn nên hơi nhô ra càng thấp, và khoảng một phần ba của một inch trên lỗ thổi. Thồi 1 luồng hơi nhỏ, rắn chắc, trực tiếp vào góc cạnh của lỗ thổi, tránh không được nâng môi dưới khi bạn đang thổi.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Nếu không có âm thanh, kiểm tra môi dưới của bạn để chắc chắn rằng bạn không phải vô thức kéo nó lên, sau đó xoay sáo để thay đổi góc mà tại đó hơi thở của bạn thổi vào. Bạn thử lăn môi ở góc độ , và rà làn môi – thử lại có phải áp lực của hơi ra quá mạnh.

Nhìn vào gương khi tập, giúp cho bạn thấy rõ môi mím. Nếu môi cảm thấy mỏi, thì tốt nhất nên nghĩ. Đừng lo lắng khi bạn cảm thầy chóng mặt, do bạn thở hơi thở sâu, và thổi ra lượng hơi nhiều. Tập thổi trên lòng bàn tay để cảm thấy luồng hơi bạn thổi ra có phải là luồng hơi gọn và thẳng.

III. Hơi Thở

Chính của chơi sáo là học tập để quản lý luồng hơi thở của bạn vào trong ống sáo. Hầu hết sự diễn cảm âm nhạc sẽ đạt đến từ sự điều khiển và tính linh hoạt trong làn hơi của bạn.

Thổi sáo, hơi thở được thực hiện chủ yếu từ cơ hoành, một cơ mà trải dài theo chiều ngang qua phía dưới ngực và ép đối với phần dưới của phổi.

Để tìm cơ hoành của bạn, khi bạn hít đầy không khí ép xuống bao tử, sau đó ép bụng như là cách bạn thở ra. Các cơ bắp đó là cơ hoành, vì nó cho phép luồng hơi di chuyển qua phổi xuống bụng trên, sau đó ép không khí ra khỏi chúng từ bụng.

Bạn có thể tập thở để cung cấp cho bạn cảm thấy có làn hơi thích hợp khi thổi vào sáo: đứng thẳng đứng, giữ khuỷu tay của bạn ra khỏi thân mình. Thở mạnh đẩy cơ hoành của bạn thẳng xuống, cơ bắp ở ngực cảm giác căng. Nên nhớ lúc đó toàn bộ thân trên của bạn đó được căng đầy, đồng đều và tất cả cùng một lúc, cần có một mở rộng nhẹ trong dạ dày để lượng không khí xuống, và cơ bắp ở ngang hông. Bạn sẽ cảm thấy vai của bạn có một chút nhẹ nâng cao, nhưng điều này chỉ nên đến như là kết quả của việc mở rộng ngực, mà không có bất kỳ chuyển động của các bắp thịt vai mình.

Hít đầy phổi một cách thoải mái. Khi bạn có cảm giác của hơi thở, và khi thổi vào sáo lưu ý sau đó tập theo hướng dẫn ở trên.

Mặc dù phương pháp hít, thở, thực sự là một sự việc rất tự nhiên của hơi thở, nhưng nhiều người thường không thở hoàn toàn đầy, và họ có thể gặp rắc rối với lần đầu tiên tập.

Bạn tập cơ hoành trong một khoảng thời gian. Vì lượng oxygen vào thêm trong cơ thể, bạn có thể bị chóng mặt, có thể cảm thấy ngứa ngáy ở tay chân và nhất là cảm thấy tê rần ở bàn tay Trạng thái này được gọi hyperventilation (quá nhiều không khí trong phổi trong một thời gian ngắn). Những người bắt đầu mới tập chơi thường cố gắng thổi đã đẩy một lượng không khí quá nhiều hơn là cần thiết để tạo ra âm thanh. Hyperventilation sẽ ngưng khi bạn quen với lượng không khí thêm trong phổi và khi đó sự tập luyện hiệu quả hơn.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Cơ hoành khi thở ra

Ngoài ra bạn cũng có thể tập theo phương pháp khác:

Lúc nào cũng thổi hơi thở ra từ bụng (phiá bao tử), mỗi một note nhạc hoặc từ một dãy note với nhau,bắt đầu note nhạc với đánh lưỡi nhẹ chữ “t”. Thực tập mỗi một note bạn thổi ra cho dài và đều. Khi âm phát ra đã vững và chắc.

IV. Tư Thế và Cách cầm sáo

Vị trí bàn tay có thể thay đổi trên một số ống sáo, theo sự xếp đặt những lỗ. Bạn hãy thử cầm cho những ngón tay đóng trên các lỗ sáo.

Giữ sáo chỉ về hướng bên phải. Chú ý rằng tay trái cầm tư thế một góc tam giác, không thẳng.

Trên sáo 6 lỗ, các ngón tay ba đầu tiên (trỏ, giữa, và nhẫn) của bàn tay bịt các lỗ. Đôi khi lỗ cuối cùng sẽ được thoải mái hơn bởi những ngón tay út được thả lỏng.

Nhưng trên sáo 10 và 11 lỗ, bạn sẽ phải xử dụng cả ngón tay cái và ngón út

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Tư thế cách bấm ngón của sáo 11 lỗ.
Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì
Tư thế đứng cầm sáo.

Nói chung, sáo được hỗ trợ ở ba điểm sau đây:

1. Ở cạnh của ngón trái, mà phần cong tựa vào sáo là điểm giữ sáo

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

2. Cách cầm sáo tay trái

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

3. Thế cầm sáo của tay trái và tay mặt

Ngón tay cái bên phải, được định vị ngay bên ngón tay trỏ phải, giữ thăng bằng cho ống sáo – Nếu như không phải dùng ngón tay cái của bàn tay phải làm điểm tựa, thì những ngón bên tay trái vẫn giữ thăng bằng cho cả ống sáo, không bao giờ tì ống sáo vào môi dưới để giữ vị trí sáo thăng bằng.

Các thế ngón tay trên sáo hoàn toàn giữ ổn định vị trí – thậm chí khi các ngón tay rời khỏi các lỗ bấm và bạn có thể chơi với tốc độ nhanh của các ngón.

Giữ cơ thể thẳng, với khuỷu và vai của bạn giữ xuống. Nghiêng ống sáo hơi xuống và chuyển đầu của bạn hơi nhích nghiêng sang bên trái – không bao giờ ngã thân người về phía trước. Giữ sao cho tư thế cơ thể vuông góc với tư thế cầm sáo – tư thế này đòi hỏi ít phải dùng nhiều nỗ lực cơ bắp, trong khi đó cho phép bạn kiểm soát tối đa hơi thở của mình.

  1. Cách Bấm Ngón

Để bắt đầu chơi những note nhạc, bạn có thể mở những ngón bấm trên các lỗ (trong tư thế cầm sáo), ngón bấm, mở là ngón đầu tiên tay trái cho note Si, La. Khi bấm trên phần ngón tay có thịt nhiều, không bấm trên những đầu móng tay, các lỗ bấm đóng hoàn toàn, không bị hở, đừng gồng các ngón tay, mà cũng không bấm đè mạnh trên các lỗ bấm.

Khi đã thổi được nốt nhạc với ngón bấm đầu tiên, giữ ngón tay trong thế bấm như vậy và đóng lỗ tiếp theo, theo cùng cách (nếu là sáo 10 và 11 lỗ, bạn đừng quên ngón tay cái, ngón nầy sẽ bị hở, và khi thổi đến nốt Fa, sẽ bị hở ngón cái và ngón út của nốt F# ). Mỗi khi thổi những nốt thấp đi xuống, đầu môi trên sẽ chút về phía trước và xuống, như vậy cửa môi sẽ trở nên lớn hơn, thoải mái hơn dễ thổi các nốt thấp.

Nếu bạn thổi bị mất tiếng, thì bạn bắt đầu lại từ nốt nhạc Si đầu tiên, chắn chắn cho mỗi lỗ được bịt kín. Bạn tập như vậy đều đặn đến khi thổi ra những âm thanh tròn. Những dãy nốt đầu tiên từ Si đến Đô thấp nhất, đó là bát độ thứ nhất của sáo.

Một khi bạn có thổi được octaves đầu tiên, bạn có thể sẵn sàng cho octave thứ 2. Bấm hết các lỗ, môi mím chắc, làn hơi thổi ra nhỏ, bạn sẽ thổi octave 2 dễ hơn. Tập từ Đô của bát độ thứ 2, mỗi nốt càng lên cao, môi của bạn mím chặt hơn, để tạo một áp lực hơi ra khỏi sáo.

Với sáo lỗ, những nốt thăng giáng, bạn phải bấm nữa lỗ, nhưng sáo 10 và 11 lỗ.

Phần bài tập của cách bỏ ngón

Bài tập đầu tiên phát âm ra note La (A), tập thổi cho đến khi nghe ra tiếng thật rõ ràng, note A là âm trung bình của octave, hơi thổi ra dễ dàng, không cao, không thấp, không rung hơi, không để tạp âm, tiếng nói phát ra cùng lúc với tiếng sáo âm thanh càng dài, càng tốt, nhưng đừng để bị kiệt hơi.

Lượng hơi thổi đừng tống ra mạnh quá, hơi thoát ra nhiều dễ bị chóng mặt. Tiếng sáo đừng để bị lép, tiếng nghe xì xì, các ngón tay không được giơ cao quá khi mở ngón. Tránh khi thổi đầu gục xuống, giữ cho tư thế lưng thẳng.

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Dấu lấy hơi

Thổi ra âm La – Sol – Fa – Mi

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Thổi ra âm note Rê

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Thổi ra âm note Đô

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Thổi ra âm note Si

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Note Sib ta bấm các lỗ 2-3-4-5-8. Đôi khi trong những bài nhạc, câu oán, câu rao hò, nốt Bb thấp hơn, bạn phải bấm thêm bấm thêm lỗ số 6 hoặc thêm lỗ thứ 7 (đây là cách tính số đếm từ huyệt khẩu xuống lỗ bấm đầu tiên – song có một số sách dạy sáo tính cách đếm từ lỗ định âm, do đó ngón số 1 là ngón trỏ tay trái.

Sau đây là những bài tập cho các bạn mới bước đầu tập sáo, tập cách bỏ ngón. Những bài tập cho bạn mới bước đầu tập sáo. Chủ yếu là tập trường độ và cao độ, tập cho làn hơi thổi được kéo dài, khi thổi được những note nhạc cao, làn hơi thổi không bị rớt xuống một quãng 8. Thí dụ khi thổi note Fa bát độ 2, không giữ làn hơi thổi xuống Fa bát độ 1.

Những bài tập với thang âm Tây Phương giúp bạn giữ cao độ và trường độ, vì âm nhạc Tây Phương với hình thức “tịnh”, cao độ rõ ràng, giúp các bạn mới tập thổi chuẩn và đúng note nhạc. Sau khi đã quen và nhuần nhuyễn các note trên sáo, và làn hơi, bạn mới tập qua những bài dân ca với những kỷ thuật ngón.

(Note nhạc trắng gồm 4 nhịp đập trong ô nhịp của nhịp 4/4. Mũi tên chỉ nhịp đập và nhấc của 1 phách, do đó 4 nhịp đập và nhấc chân cho 4 nhịp)

Bài Tập 1

Đếm 1-2-3-4 cho note nhạc trắng, đánh lưỡi nhẹ đầu các note với chữ “ Tu “ hay “Thu”

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Đếm 1-2-3-4 cho dấu nhạc trắng và dấu nghĩ 2 nhịp

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Bài Tập 4 – Nhịp ¾

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Phương Pháp Học Sáo 11 Lỗ – Nhạc sĩ Nguyễn Đình Nghĩa

(Nguyễn Diệu Đoan Trang)

Sáo trúc

Sáo trúc với lỗ bấm có hơi nóng của bàn tay. Sáo trúc có 6 lỗ bấm chia đều (đã có từ lâu trong dân gian), nhưng không định hình cao độ rõ ràng của một số âm thanh, và những người khoét sáo không phải chuyên nghiệp. Chỉ có một số ít nhạc sĩ cổ truyền mới khoét riêng cho mình xử dụng, cho nên không phổ biến rộng rãi trong dân gian. Sau nầy trào lưu tân nhạc lấn dần cổ nhạc, thành thử cây sáo trúc cũng biến thể để đáp ứng nhu cầu.

Một số nhạc sĩ lại khoét theo phương pháp của cây Pipeau (Tây Phương) có 6 lỗ bấm không chia đều, có nghĩa là khoét theo game (âm giai) Temperee. Trong đó có 2 note demiton – Mi Fa và Si Ðô để diễn tấu một số bài âm nhạc. Và sau nầy một số nhạc sĩ lại áp dụng kỷ thuật đánh lưỡi (staccato), đánh đơn, đánh kép để làm cho tiếng sáo vui tươi và nhanh hoạt hơn.

Sáo Cải Tiến

Sáo trúc 11 lổ bấm (cải tiến lỗ đôi)

Có điều đáng chú ý và thú vị, là với tinh thần dân tộc và không ngừng sáng tạo, để đưa ngôn ngữ dân tộc lồng vào trong cây sáo trúc khoét theo âm giai điều hòa 7 cung chia không đều thì sau này người khoét sáo đưa vị trí nốt Mi và Fa ở khoảng giữa, có nghĩa là cao độ lơ lớ của Mi cỗ và Mi tân và nốt Fa giữa Fa (bình) và Fa (thăng) để khi diễn tả là nốt đó cao thì người thổi chỉ có lăn ra và thấp thì lăn vào, nhưng động tác không cách biệt nhau mấy.

Đứng về phương diện kỹ thuật diễn tấu nhạc Tây phương thì cây sáo trúc với 6 lỗ bấm bị thất lợi khi tấu những đoạn nhạc yêu cầu phải chạy những âm giai chromatic (bán cung có những bán âm đồng). Tuy vẫn có một số nhạc sĩ chuyên nghiệp vẫn vượt qua được các khuyết điểm khó khăn như nhạc sĩ sáo trúc Đỗ Lộc chuyên sử dụng sáo trúc với 6 lỗ bấm. Song song theo đó thì có nhạc sĩ Đinh Thìn với 10 lỗ bấm, có nghĩa là xữ dụng cả 10 ngón tay. Nguyên thủy của cây 6 lỗ khoét theo âm giai điều hòa và mở thêm 4 lổ thăng giáng nữa, như vậy khi xử dụng nếu không chạy game chromatic thì cứ bấm 4 lổ phụ đó lại. Nhưng theo quan điểm của tôi thấy chưa được ổn lắm vì nếu như vậy thì về mặt kỷ thuật khi ta mở nốt Fa thăng và G, thì nốt G sẽ bị cao hơn một tí, và nếu muốn cho cao độ của nốt G chính xác thì phải bấm lổ sáo của ngón tay út trở lại, như vậy đúng về phương diện tâm sinh lý, rất khó bỏ ngón.

Để khắc phục được khuyết điểm của cây sáo trúc 10 lổ, nhạc sĩ Nguyễn Đinh Nghĩa khoét thẳng cây sáo với 10 lổ bấm chứ không phải 6 lổ và mở thêm 4 lổ. Và cũng để cây sáo phong phú thêm, ông đưa nốt Si ờ lên vị trí nốt Đô (C) (ngón út) (một kinh nghiệm khám phá làm và khoét sáo, mà quy luật âm thanh thì cách giữa 2 nốt, nốt đó mới là nữa cung (1/2) của 2 nốt kia (cải tiến lỗ đôi) để có cây sáo 11 lổ bấm và cây sáo tháo ráp có tính cách Á Đông (bằng sừng trâu) để tăng giảm cao độ cho thoải mái với cường độ của hơi thổi, và cũng từ khám phá này ra cho cây sáo 16 lỗ bấm, giải phóng âm vực trầm.

Sáo trúc là nhạc cụ thuộc hình thức động với kỹ thuật về hơi, “ngân”, “rung”, “reo”, “nhún hơi”, “kỹ thuật bỏ ngón”, “láy”, “luyến ngón”, “vỗ” , “vuốt ngón nhấn”, và “màu âm”. Nhạc cụ bộ dây thì có dây mượn (như trong hơi Nam ai, lớp mái Nam) ở Sáo có thể mượn ở lỗ nốt khác để có quãng 5:

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo Ngang

(Th.S. Võ Thanh Tùng)

Sáo ngang là Sáo để ngang khi thổi, là nhạc khí hơi của Dân tộc Việt và nhiều Dân tộc khác. Sáo ngang dễ làm, dễ thổi, rất thông dụng được phổ biến rộng rãi trong đời sống hằng ngày.

Xếp loại:

Sáo ngang là nhạc khí hơi phổ biến tại Việt Nam, đồng thời một số nước khác ở Châu Á cũng có. Sáo ngang là nhạc khí hơi lỗ thổi. Sáo ngang được nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc thì có tên là Ống Ðịch.

Hình thức cấu tạo:

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo ngang được làm bằng ống trúc hoặc ống nứa, nên chọn cây sáo lóng thẳng, làm bằng loại trúc già, một đầu có mấu hoặc được bịt kín. Sáo ngang có 1 huyệt thổi hình bầu dục (nếu khoét thêm 1 lỗ dán màng bằng màng ruột tre mỏng cạnh huyệt thổi thì là ống Ðịch). Ống Ðịch có lỗ màng và 6 huyệt bấm hình tròn với khoảng cách đều nhau, để có thể phát ra các âm theo thang âm 7 cung chia đều. Ngày nay để biểu diễn các bản nhạc mới người ta khoét dựa theo thang âm bình quân. Sáo ngang có nhiều loại mà tên gọi căn cứ vào âm thấp nhất như: Sáo Ðô, Sáo Sol… dễ sử dụng thích hợp tùy theo giọng từng bản nhạc. Sáo Ðô (bịt hết 6 huyệt bấm, huyệt định âm phát ra nốt Ðô), các huyệt bấm được khoét theo âm giai Ðô trưởng (C dur).

Màu âm, Tầm âm:

Màu âm Sáo ngang vui tươi, mượt mà, trong sáng, âm thanh khỏe, vang xa. Tầm âm Sáo ngang rộng trên hai quãng tám.

• Sáo Ðô: từ Ðô1 lên Ðô3 (c1 lên c3) • Sáo Sol thấp: từ Sol lên Sol2 (g lên g2) • Sáo Sol cao: từ Sol1 lên Sol3 (g1 lên g3)

Ví dụ: (295-3)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (296-1)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (297-14)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (298-12)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (299-15)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (300-16)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (301-13)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (302-17)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (303-18)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (304-19)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Kỹ thuật diễn tấu:

Tư thế thổi sáo: Tư thế cơ bản: Người đứng thẳng, thoải mái, Sáo đặt ngang, vuông góc với thân đứng. Lỗ thổi đặt chính giữa môi, môi hơi mím khi thổi. Các ngón tay bịt các huyệt theo thứ tự sau:

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Tìm hiểu sự phát âm: sau khi đặt ống Sáo vào môi, vừa thổi vừa nghiêng nhẹ ống Sáo theo chiều ra ngoài đến khi luồng không khí cắt vào cạnh A của huyệt khẩu. Luồng hơi sẽ bị chia ra làm ba: Một cắt vào cạnh A, một thẳng ra ngoài, và một chui vào ống làm chấn động khối hơi (không khí) trong ống Sáo (gọi là 3 chấn động), đồng thời lôi cuốn cả ống trúc vào tính trạng rung chuyển tạo thành âm thanh tiếng Sáo. Tiếng xì: do mím môi không đúng vị trí nên số hơi thoát ra ngoài nhiều.

Tiếng trong:

(a)- Khi mím môi đã thổi kêu rồi, bạn nghiêng nhè nhẹ ống sáo vào hướng trong người cho tiếng Sáo nhỏ lần.

(b)- Ðặt huyệt khẩu cạnh A ngang đường xy của môi cho thật đúng đoạn lăn ra thổi.

*** Ghi chú: trước khi thổi một ống Sáo trúc, nhúng Sáo vào nước để các lằn rạn nẻ của ống sáo được nở đều ra, khi thổi ống Sáo không bị xì hơi ở các lỗ mọt và Sáo sẽ phát âm dễ dàng hơn. Sáo ngang có các kỹ thuật như : rung hơi, đánh lưỡi, vuốt hơi, nhấn hơi… các kỹ thuật bấm: ngón vuốt, ngón lướt, ngón láy… Sáo ngang có khả năng diễn tấu nhanh, linh hoạt.

Vuốt hơi: Là thổi hơi làm cho âm thanh nào đó cao dần lên hay thấp dần xuống, đưa ngón tay lần lượt mở từ một nốt thấp lên cao hoặc từ cao xuống thấp sẽ tạo cho người nghe một âm thanh mềm mại, lã lướt. Ví dụ: (305-4)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Láy: Còn gọi là luyến hơi tức là thổi một hơi liền trong khi ngón tay bấm nhiều lỗ. Luyến hơi có tác dụng làm cho nét nhạc mềm mại, nối liền nhau, không bị ngắt quãng. Láy tức là thổi phớt qua thật nhanh một âm phụ mà không bị lạt âm chính. Ví dụ: (306-9)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Láy rền: Láy rền là cách sử dụng ngón tay đập trên huyệt sáo nhiều lần và thật nhanh. Ví dụ: (307-10)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ví dụ: (308-11) Trill with many fingers

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Rung: Có nghĩa là thổi hơi từ trong cuống họng đưa ra từ mạnh đến nhẹ và từ nhẹ đến mạnh, liên tục để cho âm thanh nghe như gợn sóng và thoang thoảng. Rung cổ: Ví dụ: (309-2)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Phi lưỡi: Reo còn gọi là phi lưỡi có nghĩa là bạn giữ cao độ của nốt nhạc đó kéo dài và lưỡi của bạn cứ rung hoài ở chữ “R” kéo dài. Ví dụ: (310-8)

Sáo có các lỗ thổi gần nhau là sáo gì

Ðánh lưỡi: Tức là dùng đầu lưỡi đóng mở để luồng hơi bị đứt đoạn khi ta dùng đầu lưỡi đánh thật nhẹ vào khe hở giữa hai môi (không nên dùng sức của toàn lưỡi).

1. Ðánh lưỡi đơn: nhờ đầu lưỡi chận hơi gần lỗ thổi để tiếng Sáo dễ kêu tròn, khi đọc ta có những tiếng tương tự như (t) ví dụ: đồ = tồ