So sánh nho giáo và đạo giáo
Biểu đồ so sánh
Mục lục Show
Sự hình thành Đạo giáoSửa đổiĐạo Giáo Tam Thánh Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát lúc nào, chỉ thấy được là tôn giáo này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng cổ khác. Đạo giáo thâu nhập nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời Nhà Chu (1040-256 trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, bát quái, tứ tượng, thuyết về năng lượng, chân khí), thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có bắt nguồn có lẽ từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Nam Hoa chân kinh của Trang Tử, một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiên trường sinh bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu, những hình tượng đã có trong thời nhà Thương, thiên niên kỉ 2 trước CN. Đạo trong sự trình bày của Lão Tử (609 trước CN) là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: "Người thuận Đất, Đất thuận Trời, Trời thuận Đạo, Đạo thuận Tự nhiên". Nó là nguồn gốc của vạn vật. Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức. Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về Đạo ở Lão Tử thấm nhuần sâu sắc tinh thần biện chứng âm dương. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lý, công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm. Hợp lý, vì theo Lão Tử, lẽ tự nhiên giống như việc giương cung, cao thì ghìm xuống, thấp thì nâng lên. Công bằng, vì nó luôn bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu. Chu đáo, vì nó như cái lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thẳng, không cần nói mà ứng nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá đều trái với lẽ tự nhiên, và do vậy sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: "vật hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt". Từ đây, Lão Tử suy ra triết lý sống tối ưu là muốn làm việc gì, phải đi từ điểm đối lập, phải vô vi (không làm). Vô vi không có nghĩa là hoàn toàn không làm gì, mà là hòa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái quá thì theo luật âm dương "vật cực tắc phản", kết quả thu được còn tệ hại hơn là hoàn toàn không làm gì. Triết lý vô vi áp dụng vào đời sống cá nhân là "chỉ vì không tranh nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình". Áp dụng vào đời sống xã hội, Lão Tử không tán thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt đương thời, ông nói muốn dân yên ổn thì cai trị một nước phải "giống như kho một nồi cá nhỏ": cá nhỏ nên để yên, không cạo vẩy, không cắt bỏ ruột, khi kho không quấy đảo – cạo, cắt, khuấy đảo chỉ tổ làm cho cá nát. Đạo chẳng phải cái gì khác ngoài sự phạm trù hóa triết lý tôn trọng tự nhiên; còn Đức chính là sự phạm trù hóa luật âm dương biến đổi. Khổng thì "nhập thế", "hữu vi", còn Lão thì "xuất thế", "vô vi". Hegel từng nhận xét rằng tư tưởng của đạo Khổng thì nghèo nàn, còn Lão Tử mới xứng đáng là người đại diện cho tinh thần phương Đông cổ đại.[2] Trong khi đạo của Khổng Tử hết sức thực tế vẫn không được dùng thì dễ hiểu là triết lý của Lão Tử càng không thể được sử dụng. Lão Tử phàn nàn: "Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, thế mà thiên hạ không ai hiểu, không ai làm". Mãi đến Trang Tử (khoảng 369 – 286 tr.CN), học thuyết của Lão Tử mới lại được người đời chú ý. Trong lĩnh vực nhận thức, phát triển tư tưởng biện chứng của Lão Tử, Trang Tử đã tuyệt đối hóa sự vận động, xóa nhòa mọi ranh giới giữa con người với thiên nhiên, giữa phải và trái, giữa tồn tại và hư vô, đẩy phép biện chứng tới mức cực đoan thành một thứ tương đối luận. Trong lĩnh vực xã hội, nếu như Lão Tử chỉ dừng ở mức không tán thành cách cai trị hữu vi, thì Trang Tử căm ghét kẻ thống trị đến cực độ; ông không chỉ bất hợp tác với họ mà còn nguyền rủa, châm biếm họ là bọn đại đạo (kẻ trộm lớn). Nhưng Trang Tử đẩy phép vô vi với chủ trương sống hòa mình với tự nhiên của Lão Tử tới mức cực đoan thành chủ yếm thoát thế tục, trở về xã hội nguyên thủy: "Núi không đường đi, đầm không cầu thuyền, muôn vật sống chung, làng xóm liên tiếp cùng ở với cầm thú". Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ thứ 2), tư tưởng của Lão Tử cộng với chất duy tâm mà Trang Tử đưa vào đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa đạo gia thành Đạo giáo. Chủ trương vô vi cùng với thái độ phản ứng của Lão – Trang đối với chính sách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị khiến cho Đạo giáo rất thích hợp để dùng vũ khí tinh thần tập hợp nông dân khởi nghĩa. Đạo giáo thờ "Đạo" và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là "Thái Thượng Lão Quân", coi ông là hóa thân của "Đạo" giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục đích của việc tu theo Phật giáo là thoát khổ thì mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu. Đạo giáo có hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh; Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Kinh điển của Đạo giáo gọi là Đạo tạng kinh; ngoài sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh bói toán, tướng số, coi đất, thơ văn, bút ký… tổng cộng lên đến trên 50 vạn quyển. Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử. Tu tiên có hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại dưỡng là dùng thuốc trường sinh, gọi là kim đan (hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số khoáng chất như thần sa, hùng hoàng, từ thạch, vàng). Nội tu là rèn luyện thân thể, dùng các phép tịch cốc (nhịn ăn), dưỡng sinh, khí công… lấy thân mình làm lò luyện, luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần, luyện thần trở về hư vô (Đạo). Con người cũng như vạn vật là từ "Đạo" mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở về với "Đạo". Lão Tử và Đạo Đức kinhSửa đổiBài chi tiết: Lão Tử và Đạo Đức kinh Lão Tử cưỡi trâu rời Trung Hoa Các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được là đã thật có một triết gia tên Lão Tử hay không. Các Đạo gia cho rằng, chính ông là tác giả của bộ Đạo Đức kinh. Tiểu sử của ông bị huyền thoại vây phủ và vì vậy gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền ông sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước CN, một thời kì được đánh dấu bằng chiến tranh và loạn li. Nhưng thời này cũng được xem là thời vàng son của triết học Trung Quốc vì nhiều nhà tư tưởng đã tìm cách giải hoá vấn đề làm sao để an dân lập quốc. Do đó mà người sau cũng gọi thời kì này là thời của Bách gia chư tử—"hàng trăm trường phái". Đạo Đức kinh hàm dung những tư tưởng này, hướng đến những nhà cầm quyền và cách tạo hoà bình. Đạo Đức kinh cũng được gọi dưới tên của tác giả, là Lão Tử. Trong dạng được truyền ngày nay thì nó bao gồm hai quyển với tổng cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo Đức kinh không là một bộ kinh có một kết cấu lôgic của một thế giới quan, mà chỉ là một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như nó muốn người đọc phải tự lý giải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy hàng trăm bản chú giải, hàng trăm bản dịch của bộ Đạo Đức kinh này. Trang Tử và Nam Hoa chân kinhSửa đổiBài chi tiết: Trang Tử và Nam Hoa kinh Bộ Nam Hoa chân kinh thì được viết với một phong cách hoàn toàn khác. Tác phẩm này được biên soạn ở thế kỉ thứ 4 trước CN và tương truyền tác giả là Trang Tử (vì vậy mà tên ngắn của tác phẩm này cũng là Trang Tử, tên tác giả). Trong Nam Hoa kinh, thể tính của Đạo được miêu hoạ qua những ngụ ngôn, những mẩu chuyện hàm dung những cuộc đàm thoại triết học. Trang Tử lấy nhiều điểm được nhắc đến trong Đạo Đức kinh làm chủ đề, nhưng lại bài bác những điểm khác một cách rõ ràng. Ví dụ như Trang Tử không hề nhắc đến việc nhắc nhở những nhà cầm quyền an quốc trị dân. Một chân nhân vô sự, lìa thế gian là người lý tưởng trong tác phẩm này. Như trường hợp Đạo Đức kinh, việc xác nhận tác giả của tác phẩm này cũng là một điểm tranh luận lớn. Mặc dù Trang Tử được xem là một nhân vật lịch sử nhưng theo những nhà nghiên cứu sau này thì tác phẩm Nam Hoa chân kinh phần lớn có lẽ được các đệ tử sau này biên tập. Trong thời Lão Trang, người ta không thấy dấu tích của một tổ chức hay cơ cấu triết học hoặc tôn giáo nào có thể được gọi là Đạo giáo. Chỉ còn một vài tác phẩm hàm dung tư tưởng Đạo giáo được lưu lại, tôn vinh là Thánh điển khi Đạo giáo dần dần hình thành. Tuy nhiên, tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau là những tác phẩm này đã được phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với những phương pháp tu tập tôn giáo và tín ngưỡng. Mục lục
Quá trình hình thành và phát triểnTrong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý,... Nhìn chung "Nho" là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa. Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ IV, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nho giáo nguyên thủyKinh Lễ Bức chân dung cổ nhất về Khổng Tử do họa sư Ngô Đạo Tử vẽ vào đầu thế kỷ VIII Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo. Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học. Nếu xem Nho giáo như một tôn giáo thì Văn Miếu trở thành nơi dạy học kiêm chốn thờ phụng, và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. Tuy nhiên, Nho giáo về cơ bản không được xã hội xem như một tôn giáo bởi Nho giáo không trả lời những câu hỏi cần thiết mà một tôn giáo có thể trả lời. Cho tới hiện nay, Nho giáo liệu có phải là một tôn giáo chính thức hay không vẫn là một đề tài tranh luận. Mục tiêu của Nho giáo nguyên thủy theo sách Đại Học là:
Khổng Tử muốn đến đất Cửu Di để ở, có người nói "Ở đó quá lạc hậu, làm sao mà ở được.". Khổng Tử nói "Có người quân tử ở đó, làm gì còn lạc hậu nữa".[5] Đây là tư tưởng nhập thế của Nho gia. Khổng Tử nói: "Đạo không thể xa lánh người. Nhưng có người muốn thực hành đạo mà lại xa lánh người, như vậy thì không thể thực hành được đạo... Cho nên người quân tử dùng cái đạo lý vốn sẵn có ở người để giáo dục người, lấy cải sửa làm chính, giáo dục mãi cho đến khi thành người mới thôi. Cũng như ta trau chuốt cán rìu vậy, trau chuốt đến mức thành cán rìu mới thôi. Người ta có lỗi mà biết sửa là được rồi, không xa lánh họ nữa.[6]". Tống NhoBài chi tiết: Tống Nho Khởi đầu Hàn Dũ và Lý Ngao (李翱, 772-841) thời nhà Đường có những ý tưởng mới bổ sung cho Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử và Mạnh Tử. Đến thời Tống, Nho giáo có sự phát triển đáng kể. Các nhà triết học thời kỳ này như Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Chu Hy, Lục Cửu Uyên, Trần Lượng... đã đưa những khái niệm và triết lý mới vào Nho giáo tạo nên một trường phái Nho giáo có nhiều điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử và các học trò của ông. Các học giả Tống Nho khai thác các nội dung của Kinh dịch, Phật giáo, Đạo giáo để giải thích nguồn gốc vũ trụ và các nội dung kinh sách của Nho gia. Họ cho rằng thế giới do "lí" (tinh thần) và "khí" (vật chất) tạo thành, trong đó lí có trước, thuộc về phái duy tâm khách quan theo cách phân loại của phương Tây. Chu Đôn Di (1016-1073) cho rằng nguồn gốc thế giới là thái cực, thái cực sinh ra âm dương, ngũ hành, trời đất, con người, vạn vật, trước thái cực không có vật chất mà chỉ có "lý". Chu Hy (1130-1200) dùng quan điểm lý học để chú giải lại các nội dung của kinh sách Nho học, ví dụ cho rằng nhân nghĩa lễ trí là biểu hiện của "lý". Vì vậy, Tống Nho còn được gọi là "Lý học"[7]. Tống Nho là một nỗ lực để tạo ra một hình thức duy lý và siêu hình của Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín và thần bí của Đạo giáo và Đạo Phật đã ảnh hưởng đến Khổng học trong và sau thời nhà Hán [8]. Người ta cố gắng trừu tượng hóa các quan điểm đạo đức của Nho giáo thành các khái niệm và mệnh đề triết học. Mặc dù các nhà triết học Tống Nho đã phê bình Đạo Lão và Phật giáo[9] nhưng cả hai tôn giáo này đều có ảnh hưởng đến Tống Nho. Những nhà triết học thuộc trường phái Tống Nho đã vay mượn các thuật ngữ và khái niệm từ Phật giáo và Đạo giáo. Tuy nhiên, không giống như Phật giáo và Đạo giáo, người đã nhìn thấy siêu hình học như một chất xúc tác cho sự phát triển tinh thần, giác ngộ tôn giáo và sự bất tử. Các nhà triết học Nho giáo đã sử dụng siêu hình học như một hướng dẫn để phát triển một triết lý đạo đức duy lý[10]. Phong trào phục hưng Nho giáoĐến thế kỷ XX, với sự sụp đổ của chế độ quân chủ, Nho giáo mất vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập niên 1960-1970 khi Mao Trạch Đông làm chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ XXI, đứng trước sự suy thoái của đạo đức xã hội, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con người dần được coi trọng trở lại và được thúc đẩy thành phong trào tại các nước Đông Á. Trong quá trình toàn cầu hóa, sự giao thoa văn hóa Đông Tây diễn ra, các giá trị đạo đức của Nho giáo có thể xem là các giá trị phổ biến của nhân loại[11]. Tượng Khổng thánh tại Yushima Seido, Tokyo, Nhật Bản. Phục hưng Nho giáo trong thế kỷ XXI là phong trào đang lên ở Đông Á, nó xuất phát từ Trung Quốc và lan truyền ra các khu vực lân cận. Nhiều hội thảo quốc tế về phục hưng nền Nho học đã được tổ chức ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tập hợp các nhà nghiên cứu Nho giáo trong khu vực và trên thế giới đã kiến lập Hiệp hội nghiên cứu Nho giáo quốc tế. Trong buổi Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Hàn Quốc 2010, một số báo cáo ghi nhận "mặt trái của quá trình Tây phương hóa (nói cách khác là hiện đại hóa) đã làm cho xã hội Đông Á mất dần tôn ti trật tự, tinh thần cộng đồng và đoàn kết xã hội. Lớp trẻ dần chạy theo những thứ hào nhoáng của văn minh hiện đại mà bỏ xa dần các quan niệm hiếu nghĩa, trung chính, tiết độ". Các báo cáo này nhấn mạnh giá trị tinh thần của Nho giáo sẽ là công cụ hữu hiệu nhằm khôi phục lại giá trị đạo đức của xã hội[12]. Từ năm 2005, chương trình Bách gia Giảng đường của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã khởi xướng phong trào đọc lại Luận ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Ban Quốc học Đại học Thanh Hoa tính học phí 26.000 nhân dân tệ cho một khóa học về đạo đức Nho gia, Đại học Phục Đán thu mỗi người 38.000 nhân dân tệ, và khóa học cổ văn ngoài giờ cho trẻ em cũng có học phí rất cao.[13] Từ năm 2004 cho tới năm 2020, Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch thành lập hơn 1.000 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới để quảng bá văn hóa truyền thống Trung Hoa.[14][15] Chính phủ Trung Quốc đã chi hàng triệu USD cho hai chương trình nghiên cứu và biên soạn Nho tạng tại Đại học Nhân dân và Đại học Bắc Kinh. Bộ Nho tạng tinh hoa của Đại học Bắc Kinh với tổng số 500 tập dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2015. Hai chương trình biên soạn Nho tạng nói trên là một hoạt động quy mô lớn chưa từng có để hiệu chỉnh và kết tập điển tịch Nho học lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đồng thời đây cũng là một lần tổng kiểm kê di sản điển tịch Nho học trên quy mô toàn thế giới. Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, hai đại học hàng đầu là Đại học Seoul và Đại học Tokyo cũng đều đã thành lập các trung tâm biên soạn Nho tạng riêng với kế hoạch hoạt động quy mô lớn. Trong xu hướng nghiên cứu Nho giáo đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới hiện nay, nghiên cứu kinh điển Nho gia có vị trí đặc biệt quan trọng. Ngày 24 tháng 9 năm 2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến dự và phát biểu tại "Hội thảo Nho học với nền hòa bình và sự phát triển thế giới" nhân kỷ niệm 2565 năm ngày sinh Khổng Tử. Đây là lần đầu tiên lãnh đạo cao nhất Trung Quốc dự hoạt động trên. Ông nhấn mạnh: Tư tưởng triết học phong phú, tinh thần nhân văn, giá trị đạo đức của Văn hóa truyền thống Trung Quốc là gợi ý hữu ích cho việc trị quốc. Nho giáo là bộ phận quan trọng của văn hóa truyền thống Trung Quốc, có sức sống lâu dài, chứa đựng các gợi ý quan trọng giúp giải quyết những vấn đề của loài người hiện đại. Các tư tưởng "thiên hạ vi công, thế giới đại đồng", "dĩ dân vi bản, an dân phú dân lạc dân", "Nhân giả ái nhân, Dĩ đức lập nhân"… cần phải được kế thừa và phát huy. Ông nói: nghiên cứu Nho giáo chính là là để hiểu đặc tính dân tộc của người Trung Quốc, cần hấp thu sức mạnh truyền thống, việc quản trị quốc gia thời hiện đại càng cần có sự nâng đỡ của văn hóa truyền thống. Giáo sư Vương Kiệt ở Trường Đảng Trung ương Trung Quốc nhấn mạnh: sự du nhập văn hóa phương Tây đã khiến dân tộc Trung Hoa dần bị tha hóa, suy đồi về văn hóa và đạo đức, Đảng Cộng sản Trung Quốc dần nhận ra giá trị to lớn của văn hóa truyền thống Trung Quốc, hiểu rằng chỉ có kiên trì chủ nghĩa Mác, kế thừa có phê phán nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, kiên trì nguyên tắc “cổ vi kim dụng”, “dương vi trung dụng” thì mới có thể thực hiện sự nghiệp phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa. Sức mạnh cứng (kinh tế và quân sự) rất quan trọng, nhưng sức mạnh mềm như văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tinh thần, giá trị quan… cũng quan trọng không kém với một đất nước. Nếu đất nước đánh mất văn hóa, nền tảng đạo đức truyền thống thì dù kinh tế có giàu mạnh đến đâu thì cũng chẳng khác nào mất nước, mất dân tộc.[16] Học viện Nho giáo tại thành phố Andong, Hàn Quốc Học sinh tham gia ngoại khóa tại một Học viện Nho giáo ở Hàn Quốc Tại Hàn Quốc, rất nhiều người nhận thấy rõ những giá trị đạo đức lâu đời của dân tộc đang mất dần đi. Sau cuộc chiến liên Triều 1950-1953, Hàn Quốc áp dụng hệ thống giáo dục chịu nhiều ảnh hưởng của giáo dục phương Tây, Nho giáo bị công kích và bị coi là lỗi thời. Ông Pak Seok-hong nhấn mạnh sự sai lầm của hệ thống giáo dục đó: việc quá nhấn mạnh vào học tiếng Anh và toán đã chiếm chỗ của các môn học như đạo đức và lịch sử. Ông thấy đất nước "đang biến thành vương quốc đầy súc vật": người trẻ chửi người già trên tàu, những đứa trẻ tự tử để khỏi bị bắt nạt... Sự hòa hợp, kính trọng người cao tuổi và lòng trung thành với Tổ quốc - những đức tính đó nay đã phai nhạt trong giới trẻ Hàn Quốc. Pak Seok-hong nói: "Chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mạnh mẽ, nhưng đạo đức của dân tộc đang trên bờ vực của sự sụp đổ. Chúng ta phải khôi phục lại nó và các Seowon (học viện Nho giáo) là nơi chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời".[17] Hiện nay, số lượng học sinh Hàn Quốc đến các học viện Nho giáo để học tập ngoại khóa ngày càng tăng, lên tới hàng trăm ngàn học sinh mỗi năm. Tại đây, học sinh được dạy những lễ giáo đạo đức từ lâu đã không còn xuất hiện tại trường học, từ việc ăn tối, uống trà đến việc thưa chuyện lễ phép với cha mẹ. Theo ông Pak Sung-jin - giám đốc điều hành của Hiệp hội Seowon quốc gia Hàn Quốc, có khoảng 150 học viện Nho giáo ở khắp Hàn Quốc đã mở trở lại các chương trình ngoại khóa tương tự. Ông tin rằng người Hàn Quốc đương đại cần từ bỏ cách nghĩ thiển cận coi Nho giáo là "lỗi thời" và cần nghiêm túc học hỏi lại nhiều giá trị tinh thần, cách đối nhân xử thế từ xã hội xưa.[17] Đại diện cho học giả Hàn Quốc, giáo sư An Bỉnh Chu, Đại học Thành Quân Quán đã nêu lên lời cảnh báo: “Ngày nay, xã hội đầy tiếng kêu cứu phản ánh nỗi lo lắng về sự hoang tàn của nhân tâm. Môi trường bị ô nhiễm, luân lý bị suy đồi, con người phơi trần nỗi khát khao truy cầu lợi ích và dục vọng. Nội tâm con người hoang tàn, giá lạnh. Quan hệ giữa người và người chỉ còn là cạnh tranh vì lợi ích. Tất cả loài người đang đứng trước nguy cơ diệt vong“. Và chính từ những báo động trên, ông đã nêu lên nên trở lại những nguyên lý đạo đức cuộc sống mà Lý Hoảng (1501-1570), đại sư Nho giáo Hàn Quốc đã từng nhắc nhở trong vấn đề tâm học đạo đức. Ở hội nghị quốc tế “Nho giáo với xã hội tương lai” ở An Đông - Hàn Quốc (10-2001), các giáo sư Pháp, Nga, Mỹ, Anh v.v... đều có ý muốn nghiên cứu tư tưởng Nho giáo nhằm tìm con đường giải quyết những bế tắc trong quan hệ con người, xã hội và đặc biệt là gia đình ở phương Tây trong giai đoạn hiện tại. Họ đều đề cao đạo đức “Nhân”, “Lễ”, "Nghĩa" của Nho giáo. Trong mấy chục năm trở lại đây, một số nhà nghiên cứu Việt Nam còn nhầm lẫn về bối cảnh xuất hiện, bản chất, nội dung và vai trò của Khổng giáo. Khổng giáo nói riêng và Nho giáo nói chung cần tiếp tục được nhận thức đúng đắn hơn[18]. Cần phải tiếp thu có chọn lọc, để có thể gạt bỏ những yếu tố tiêu cực và sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng Việt Nam ngày càng văn minh, giàu đẹp và hiện đại[19]. Tại Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội đã khởi động dự án dịch Nho tạng ra tiếng Việt[20]. Năm 2020, khi thế giới diễn ra đại dịch COVID-19, các nước châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề trong khi các nước Đông Á khống chế dịch bệnh khá tốt. Cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam (2012-2016), ông Jean-Noël Poirier đã có bài viết "Kỷ luật Nho giáo và phi trật tự châu Âu" đã phân tích[21]:
Tiểu luận: Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.93 KB, 21 trang ) II. Sự tương đồng giữa Nho Gia và Đạo gia 6 2.1 Về lịch sử hình thành và phát triển 6 2.2 Về quan điểm 7 III. Nét đặc thù của hai dòng tư tưởng Nho gia và đạo gia 12 3.1 Vũ trụ và nhân sinh 12 3.2 Thế giới quan 12 3.3 Những tư tưởng biện chứng 12 IV. Những ảnh hưởng của học thuyết Nho gia và Đạo gia đến xã hội Việt Nam 15 4.1 Ảnh hưởng của Nho gia 15 4.2 Ảnh hưởng của Đạo gia 15 KẾT LUẬN 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO 18 Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 2 LỜI MỞ ĐẦU Ở Trung Hoa thời Trung đại, các trường phái triết học thường đề cập đến vũ trụ quan, nhân sinh quan, tuy có khác nhau ít nhiều, nhưng chung quy đều nói đến con người với những quan hệ xung quanh, đều đi đến công nhận thế giới này là nhất thể. Trong số các quan niệm triết học cổ đại Trung Hoa, nổi bật hơn cả có lẽ là Nho giáo và Đạo giáo. Ảnh hưởng của Nho và Đạo giáo khá sâu rộng, từ tư tưởng xã hội, văn hóa, phong tục tập quán cho đến vân học Ngày nay, nhân dân Việt Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong khuôn khổ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Song, những tàn dư của Nho giáo và Đạo giáo vẫn tiếp tục tồn tại ở Việt Nam và tác động vào đời sống xã hội theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu triết học Nho giáo và Đạo giáo là điều cần thiết để từ đó vận dụng những tinh hoa, những giá trị cốt lỗi nhất vào đời sống hiện tại đồng thời nhận ra những điểm hạn chế trong từng tư tưởng để rút kinh nghiệm và cải thiện nó sao cho phù hợp với thời đại. Mặc dù qua quá trình giảng dạy tận tình của thầy Bùi Văn Mưa, thầy Hoàng Trung, nhưng đề tài này vẫn còn rất nhiều hạn chế và không tránh khỏi sai sót. Đề tài tiểu luận này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu về Sự tương đồng, khác biệt giữa Nho gia và đạo gia, từ đó phân tích và đánh giá sự ảnh hưởng của hai tư tưởng triết học này đến nền dân tộc Việt Nam Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 3 I. GIớI THIệU CHUNG Về NHO GIA VÀ ĐạO GIA Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan điểm chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy. (Theo: http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/) Cho đến hiện nay, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng: Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian, đó là vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước Công nguyên, tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp… Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Lịch sử Triết học đã phải trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, có lúc phát triển đến đỉnh cao như giai đoạn Triết học của Arixtốt, Đemôcrit và Platon nhưng cũng có lúc nó bị biến thành một môn của thần học theo chủ nghĩa kinh viện trong một xã hội tôn giáo bao trùm mọi lĩnh vực vào thế kỷ thứ X – XV. Đến những năm 40 của thế kỷ XIX – Triết học Mác ra đời dựa trên những điều kiện lịch sử về kinh tế xã hội, những tiền đề khoa học tự nhiên và sự kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song song giữa hai nền Triết học Phương Tây và Triết học Phương Đông. Nhưng do điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế xã hội, văn hóa mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau. Phương Tây phát triển Triết học “hướng ngoại”, bởi những yêu cầu phát triển khoa học nghiên cứu; còn Phương Đông chịu sự tác động của chính trị, chiến tranh diễn ra liên tục, nên Triết học „hướng nội‟, nghiên cứu về Tôn giáo có Ấn Độ, về chính trị - đạo đức – xã hội có Trung Quốc. Nhưng dù phát triển ở Phương Đông hay Phương Tây, thì Triết học cũng là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người. Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 4 Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn, những quan hệ đạo đức - chính trị của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông. Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra các nhà tư tưởng lớn, và hình thành nên các trường phái Triết học khá hoàn chỉnh. Trong số các trường phái triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho giáo. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc tri thức chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay “Khổng học” - gắn với tên người sáng lập ra nó. Có thể nói, Nho giáo còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Đức Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên (Bắc Hàn),Hàn Quốc (Nam Hàn) và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho hay Nho sĩ hay nho sinh. Hiện tại có khoảng 150 triệu người theo Nho giáo tại châu Á. Một trường phái Triết học lớn nữa của Trung Hoa là Đạo giáo. Đạo giáo tức là giáo lí về Đạo, là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Hoa, là tôn giáo đặc hữu chính thống của nước này. Nguồn gốc lịch sử được xác nhận của Đạo giáo có thể xuất hiện ở thế kỉ thứ 4 trước công nguyên, khi tác phẩm Đạo đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Đạo giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn chương, nghệ thuật, dưỡng sinh, y học, hóa học, vật lý, địa lý, lịch sử,… Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 5 Hai trường phái Triết Học này đã có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan của Triết học sau này, không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền Triết học Trung Hoa, trong đó có Việt Nam. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 6 II. Sự TƢƠNG ĐồNG GIữA NHO GIA VÀ ĐạO GIA 2.1 Về lịch sử hình thành và phát triển Nho gia và Đạo gia là hai trường phái triết học lớn của Trung Hoa, được hình thành và phát triển trong thời Xuân Thu, Chiến quốc. Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, nhiều học giả đưa ra học thuyết của mình nhằm góp phần biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng loạn lạc bấy lâu nay. Trường phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập vào cuối thời Xuân Thu, rất quan tâm đến các vấn đề đạo đức – chính trị - xã hội. Người kế tục nổi tiếng của Khổng Tử là Mạnh Tử (372-289 Tr.CN) và Tuân Tử (298-238 Tr.CN). Người sáng lập ra trường phái Đạo gia là Lão Tử (khoảng 580- 500 Tr.CN) với cuốn sách Đạo đức kinh. Lão Tử là ngừơi nước Sở, sống gần thời với Khổng Tử, tức là vào khoảng cuối Xuân Thu sang đầu Chiến quốc. Người có công hoàn thiện tư tưởng của Đạo gia là Trang Tử (396 - 286 Tr.CN), Đương Chu (395 – 335 Tr.Cn), chuyên bàn về các vấn đề nhân sinh. Nho gia và Đạo gia cùng có những ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Hoa nói riêng, của nhiều quốc gia phương Đông nói chung: Nho giáo ảnh hưởng sâu sắc về mặt đạo đức vào phép xử thế, về quan điểm chính trị, vạch ra đường lối chính trị cho chính quyển phong kiến thời bấy giờ. Đạo giáo lấy đạo là nguồn gốc của vạn vật, ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y học, hóa học, vật lý, địa lý, lịch sử… Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 7 2.2 Về quan điểm 2.2.1. Khởi nguyên vũ trụ Nho gia và đạo gia đều có những đặc điểm nổi bật sau: Thứ nhất, luôn nhấn mạnh tinh thần nhân văn, chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt. Thứ hai, chú trọng đến lĩnh vực chính trị -đạo đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người. Có thể nói, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa. Thứ ba, nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa tự nhiên và xã hội, phản đối sự "thái quá" hay"bất cập". Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái "Tâm", coi đó là gốc rễ của nhận thức Quan niệm về đạo và đức: Nho gia: Khổng tử coi đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để giữ gìn trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân cho con người. Xuất phát từ khai thác lý luận âm dương – ngũ hành, Đổng Trọng Thư là người đã đưa ra thuyết “trời sinh vạn vật” và “thiên nhân cảm ứng” để hoàn chỉnh thêm Nho gia trong việc giải thích vạn vật, con người và xã hội Đạo gia: Lão tử cho rằng Đạo sinh ra vạn vật, Đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Vạn vật nhờ Đạo mà được sinh ra, nhờ Đức mà thể hiện và khi mất đi là lúc vạn vật quay trở về với đạo. Đạo sinh ra một (khí thống nhất), một sinh ra Hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra Ba (trời, đất, người), Ba sinh ra vạn vật. Quan niệm về âm dương: Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 8 Cả hai trường phái đều đề cập đến khởi nguyên vũ trụ bắt nguồn từ Âm Dương. Âm và Dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau. 2.2.2. Thế giới quan – Nhân sinh quan Bản tính nhân loại đều có một tính gốc: Nho Gia: Tính gốc là tính thiện (Khổng Tử, Mạnh Tử) hay tính ác (Tuân Tử). Cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều cho rằng: “bản tính con gười ta là thiện. Còn như người ta có làm những điều bất thiện, chẳng qua họ theo tự dục của mình, chứ không phải bản tính con người ta là như vậy” (Mạnh Tử, Cáo Tử thượng, 6, 15). Nhưng tại sao bản tính con người là thiện và tính thiện do đâu mà có? Mạnh tử đưa ra ba căn cứ để lý giải: Tính thiện của con người được thể hiện ở bốn đức lớn: nhân, nghĩa, lễ, trí. Mạnh Tử viết:”Phàm những vật đồng loại đều mang một bản chất giống nhau. Tại sao đối với con người ta lại nghi ngờ điều đó? Các bậc thánh nhân và chúng ta đều đồng loại” (Mạnh Tử, Cáo Tử thượng, 7). Đạo Gia: thì cho rằng tính gốc là khuynh hướng “vô vi”. “Vô vi” là khuynh hướng trở về nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức hợp thể với đạo. Khái niệm vô vi trong Đạo Đức kinh thường được hiểu lầm là không nên làm gì cả, nhưng thật ra Lão Tử khuyên rằng Làm mà như không làm, như thế có đặng không. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 9 Về đạo đức: “Đạo” liên quan đến sự phát triển, tiến hoá của trời đất, muôn vật, Đức gắn chặt với Đạo Nho Gia: Đạo là quy luật biến chuyển, tiến hoá của vạn vật trời đất. Đạo là quy luật biến chuyển, tiến hoá của vạn vật trời đất. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân Đường đi lối lại của Nho gia đúng đắn phải theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp là đạo; noi theo đạo một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn trong cuộc sống thì có được đức trong sáng quý báu ở trong tâm Đạo Gia: Đạo là bản nguyên của vũ trụ, sáng tạo ra vạn vật, là phép tắc của vạn vật, quy luật biến hóa tự thân của vạn vật. Đạo là quy luật biến hóa tự thân của vạn vật, quy luật ấy gọi là Đức. Quan điểm về con ngƣời: Cả hai đều tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, xây dựng, đào tạo con người, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội. Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu, hướng vào nội tâm - luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người và xã hội xung quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân sâu xa của sự kém phát triển kinh tế, khoa học so với văn minh Phương Tây (hướng ngoại). Chằng hạn như Khổng Tử (Nho gia) đề cao vai trò, sức mạnh của dân. Ông coi dân là gốc nước, gốc có vững thì nước mới yên bình. Vì dân là gốc nước cho nên nước phải lấy dân làm gốc. Và Đạo gia cho rằng Con người là sản phẩm cao quý nhất của tự nhiên, sinh ra từ đạo tự nhiên, cho nên đã sinh ra rồi thì phải bảo tồn sự sống của mình. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 10 Đều theo chủ nghĩa duy tâm: Nho Gia: Mạnh Tử hệ thống hóa triết học duy tâm của Nho Gia trên phương diện thế giới quan và nhận thức luận. Tư tưởng triết học của Tuân tử thuộc chủ nghĩa duy vật thô sơ. Đạo Gia: Đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể. Lão tử cho rằng “Không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời”. 2.2.3. Những tƣ tƣởng biện chứng Nho gia và Đạo gia ít quan tâm đến vấn đề lý giải thế giới, nguồn gốc của vũ trụ, tuy nhiên trong đó vẫn có những quan điểm biện chứng mang tính duy vật: Chẳng hạn như Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, như một quy luật:”Trời có gì đâu mà bốn mùa vẫn thay đổi, muôn vật vẫn sinh ra”. Đạo gia: Lão Tử cố gắng tìm ra quy luật khách quan của sự vật phát triển và biến hóa, dạy mọi người hành động theo quy luật tự nhiên. Và “thế giới là một thể thống nhất, vận hành vì đạo, thông qua đức mà đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạo là cái vô. Cái vô sinh ra cái hữu. Cái hữu sinh ra vạn vật” (Bùi Văn Mưa & tiểu ban triết học, Triết học phần I: Đại cương về lịch sử triết học, tr.67, 2010, ĐHKT, HCM). Đạo vừa mang tính khách quan (vô vi), vừa mang tính phổ biến. Quan điểm biện chứng đa phần đều mang tính duy tâm Nho Gia: Khổng tử cho trời là một lực lượng vô hình quyết định số phận của mỗi người và sự thịnh sang của mỗi thời đại (Vua dân tế trời). Mỗi cá nhân sự sống chết hay nghèo hèn, phú quý là do Thiên mệnh quy định, phú quý không thể cầu mà có được, do vậy bất tất phải cầu. Sống theo mệnh trời, tuân theo mệnh trời thì sống, làm những điều nhân thiện thì có thể biến nguy Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 11 thành an (Hoàng Trung, Phần II: triết học Trung Quốc cổ- Trung đại, tr.9, 2011). Đạo Gia: đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể. Lão tử cho rằng: “Không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời. Đạo là vĩnh viễn, bất biến nhưng nó lại là nguồn gốc cho mọi sự biến đổi của vạn vật”. Quan điểm trong phƣơng châm xử thế Con người sống và hành động dựa trên các nguyên tắc cơ bản, hợp với lòng người theo một quan niệm nhân sinh vững chắc. Cả 2 trường phái đều hướng con người đến cái thiện, khuyên con người sống tốt để có gia đình hạnh phúc và góp phần cho 1 xã hội ổn định Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 12 III. NÉT KHÁC BIệT ĐặC THÙ CủA HAI DÒNG TƢ TƢởNG NHO GIA VÀ ĐạO GIA 3.1 Vũ trụ và nhân sinh Quan niệm về đạo: Nho gia tin vào thiên mệnh và cho rằng thiên mệnh chi phối vận mệnh của con người. Đạo gia tin vào đạo, cho rằng vạn vật xuất phát từ đạo và đạo là quy luật chi phối vạn vật. Sở dĩ hai tư trường phái này khác nhau là do: Đạo theo quan điểm của Lão Tử là một phạm trù khái quát, nó không chỉ một sự vật, hiện tượng cụ thể hữu hình mà là tất cả mọi vật từ đó sinh ra, là cái tồn tại vĩnh viễn, bất biến. Vạn vật dù muôn hình, muôn vẻ cũng chỉ là sự biểu hiện khác nhau của một cái duy nhất đó là đạo, và đạo không tồn tại ở đâu ngoài các sự vật hữu hình, hữu danh, đa dạng và phong phú vô cùng tận. Vì thế, đạo vừa là duy nhất, vừa thiên hình, vạn trạng; vừa biến hóa, vừa bất biến. Căn cứ vào quan điểm ấy, Lão Tử đả kích quan điểm trời sang tạo ra thế giới và cho rằng, trời không phải là căn cứ của đạo, trái lại đạo có trước thần linh. (Đạo Đức kinh, chương 30). 3.2 Thế giới quan Nho gia chủ chương nhập thế (hữu vi), đề cao đạo đức. Đạo gia chủ chương xuất thế (vô vi), tư tưởng giải trừ. Hai từ hữu vi và vô vi, về nghĩa đen của từ, chỉ hai trạng thái trái ngược nhau “có làm” và “không làm”. Hai khái niệm này trong phạm trù tư tưởng triết học thì chưa hẳn là hoàn toàn trái nghĩa nhau, bởi khái niệm “vô vi” của Đạo gia khá phức tạp. Tuy nhiên, đây vẫn là tôn chỉ khác nhau cơ bản giữa hai dòng tư tưởng Nam Bắc 3.3 Những tƣ tƣởng biện chứng 3.3.1 Tại thế và ngoại thế Chủ nghĩa Khổng Tử ở trong chúng ta là nỗ lực kiến thiết và cần lao, chủ nghĩa Đạo giáo, là bó gối ngồi xem và cười tủm tỉm Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 13 Hay như trong quan điểm về gia đình, Khổng Mạnh suy tư xây dựng một chế độ tông tộc vững chắc. Lão Trang thì vui điền viên và ẩn dật 3.3.2 Tự cƣờng và khiêm nhu So sánh hai dòng tư tưởng về phương diện này, trước tiên cần nói rõ rằng không phải hai dòng tư tưởng hoàn toàn đối lập theo kiểu một bên đề cao “tự cao, kiên cường, mạnh mẽ”, một bên đề cao “khiêm tốn, nhu mềm”. Khổng và Lão đều giảng về khiêm tốn và nhu hòa, tuy nhiên phân tích sâu và suy xét đến tường tận, sẽ thấy được đặc sắc riêng trong tư duy và lối diễn đạt của hai nhà. Đặc sắc riêng của hai nhà sẽ được vạch ra qua ba khía cạnh: sức mạnh nội tại của bản thân, lối ứng xử và làm chính trị. 3.3.3 Miễn cƣỡng và thuận tự nhiên Nho gia và Đạo gia đều quan tâm vấn đề “con người”. Đối với Nho gia, “Trong trời đất, con người là quý” (“Thiên địa chi tính nhân vi quý” - Hiếu Kinh, Thánh trị). Đối với Đạo gia, “Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn, mà người là một trong số đó” (“Đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kỳ nhất yên” - Chương 25, Lão Tử) 3.3.4 Hiện thực và lãng mạn Hai dòng tư tưởng Nho và Đạo mang hai sắc thái hiện thực và lãng mạn đã được đúc kết bởi nhiều nhà nghiên cứu trước đây. Lâm Ngữ Đường trong Trung Hoa đất nước con người đã khẳng định điều này rất nhiều lần. Ông cho rằng đức Khổng Tử là một triết gia về thực nghiệm, thuộc chủ nghĩa nhân văn. Và còn nói “chủ nghĩa hiện thực trong lý tưởng nhân sinh của Trung Quốc và đặc tính chú trọng về hiện thế bắt nguồn từ học thuyết Khổng Tử 3.3.5 Quan điểm chính trị - xã hội Về đường lối trị nước an dân, quan điểm của Nho gia hoàn toàn đối lập với quan điểm của Đạo gia. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 14 Trong khi Nho gia vốn mang bản chất của một công cụ tổ chức xã hội, nó thực sự trở thành vũ khí của kẻ thống trị, thì Đạo gia, trên cơ sở thuyết vô vi, lại mang sẵn trong mình tư tưởng phản kháng giai cấp thống trị. Về quan điểm nhà nước lý tưởng: Nho gia chủ trương xây dựng nước lớn, kinh tế vững mạnh. Đạo gia chủ trương xây dựng nước nhỏ, hòa bình. Khổng Tử mong muốn xây dựng một xã hội đẳng cấp, có tôn ti trật tự, có trên dưới rõ ràng; các đẳng cấp có trách nhiệm tương trợ, giúp đơc lẫn nhau. Xã hội lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, kính già, yêu trẻ - một xã hội có lễ; xã hội phải no đủ, lấy nông nghiệp làm nền tảng, coi trọng giáo hoá và công bằng xã hội; phản đối chiến tranh bạo lực và hình phạt, dung đức trị, nhân trị, thực hiện chế độ thượng hiền. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 15 IV. NHữNG ảNH HƢởNG CủA HọC THUYếT NHO GIA VÀ ĐạO GIA ĐếN XÃ HộI VIệT NAM 4.1 Ảnh hƣởng của Nho gia 4.1.1 Ảnh hƣởng về mặt tích cực Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và bảo vệ chủ quyền dân tộc. Công lao của Nho gia là góp phần đạo tạo tầng lớp nho sĩ Việt Nam trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm Nho giáo hướng con người vào việc tu dưỡng đạo đức Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín – Dũng. Nhiều ý nghĩa giá trị của chuẩn mực đạo đức được nhân dân ta sử dụng trong nền giáo dục như “ Tiên học lễ, hậu học văn”; “ Trăm năm trồng người”… 4.1.2 Ảnh hƣởng về mặt tiêu cực Nho giao suy đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt triết học. Đồng thời, Nho giáo góp phần không nhỏ trong vai trò duy trì quá lâu chế độ phong kiến. Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển ở Việt Nam 4.2 Ảnh hƣởng của Đạo gia Các dấu tích đạo giáo ở Việt Nam hiện còn như là đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên) Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội, nhất là tại các vùng kém phát triển thì vẫn còn rất mạnh mẽ. Và chính vì giáo lý Đạo lão ít được biết đến một cách tường tận,mà chỉ được hiểu một cách mơ hồ qua những yếu tố mang tính phù thủy nên ở nhiều người Việt hiện nay nó thể hiện bằng sự mê tín dị đoan, đồng bóng thái quá không có lợi. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 16 KẾT LUẬN Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì Nho giáo và Đạo giáo có những ý nghĩa vô cùng thiết thực về phương pháp luận trong nhận thức và thực tiễn. Tìm hiểu về Nho gia và Đạo gia, chúng ta có thể vận dụng những tinh hoa, lý luận, quan điểm sâu sắc của hai trường phái này vào cuộc sống, đồng thời cũng biết được những tác động của hai trường phái này với xã hội Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa phƣơng pháp luận của Nho gia Những tư tưởng triết học của Nho gia đã để lại cho đời những tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức và chính trị – xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý giá. Ví dụ điển hình về những tư tưởng về chữ Nhân và việc giáo dục đạo đức, nhân cách sống …của con người có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay. Hay cụ thể hơn là những quan điểm về gia đình, và các mối quan hệ trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc. Và thực tế, đó cũng là những lý tưởng sống, là khát vọng của chúng ta hiện nay. Trong thị trường kinh tế hiện nay, con người cũng xây dựng những chuẩn đạo đức kinh doanh cũng dựa vào những tư tưởng của đạo Nho. Việc đặt chữ “Tín” lên đầu hay “tư tưởng kinh doanh có đạo đức” có ý nghĩa rất lớn. Về mối quan hệ trong gia đình, đạo lý giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thì những tư tưởng của Nho gia sống mãi và có giá trị trong mọi thời đại. Nho gia dạy ta biết hiều thuận với cha, mẹ, kính trên, nhường dưới. Cha mẹ biết thương yêu, dạy bảo con nên người có đạo đức, có nhân, lý, trí, dũng… thành người có ích cho xã hội. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 17 Trong mối quan hệ thầy trò, mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, chữ “lễ”, chữ “nghĩa” vẫn luôn được đề cập trong việc giáo huấn con người. Ý nghĩa phƣơng pháp luận của Đạo gia Tư tưởng của Đạo gia giúp con người tránh lối tư duy gán ghép, máy móc, siêu hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà phải nhận thức cái khách quan, cái bản tính tự nhiên thuần phác, vốn có của nó. Đồng thời, Đạo gia đã cung cấp nhân sinh quan và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con người hài lòng và hạnh phúc với những gì mình có trong cuộc sống, không nên ham muốn, mơ tưởng hão huyền. Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia cho ta thấy rằng, trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và vận dụng phù hợp các quy luật tự nhiên vào cuộc sống. Tư tưởng này, giúp con người có tinh thần bảo vệ thiên nhiên, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý để phục vụ lại mình. Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi con người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải luôn luôn tạo dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ động trước các điều kiện khách quan, không nên “cầm đèn chạy trước ô tô”… Đạo gia giúp con người biết cách tự tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống. Tư tưởng Đạo gia dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại, không lo sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không tham lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung, ngay thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”… Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách tham khảo 1. GVC.TS Bùi Văn Mưa, Đề cương chi tiết môn Triết học, Trường đại học kinh tế Tp.HCM. 2. TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa (Đồng chủ biên), Giáo trình đại cương Lịch Sử Triết Học, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM. 3. Hoàng Trung, Phần II: triết học Trung Quốc cổ- Trung đại 4. Vũ Ngọc Pha & Doãn Chính chủ biên, Triết học, 1, tr.83, 2003, NXB Chính trị Quốc gia, HN 5. Đồng Văn Quân, Lịch sử triết học, Đại Học Sư phạm Thái Nguyên, 1010 6. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học. Nxb Chính trị quốc gia, 1998. 7. Bùi Thanh Quất - Vũ Tình, Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, 2000. 8. Lịch sử triết học phương Đông (5 tập). Tác giả Nguyễn Đăng Thục, 9. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000 Tài liệu từ Internet 1. http://caohockinhte.info 2. http://tailieu.vn 3. http://www.vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=cate gory&layout=blog&id=44&Itemid=162 4. http://maxreading.com/sach-hay/tu-tuong-dao-gia 5. http://www.advite.com/daoduckinh.htm 6. http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn1n2n4nqn3 1n343tq83a3q3m3237nvn Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 19 7. http://buuduc.blogspot.com/2009/03/ao-giao.html 8. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-trung- hoa/2216-tran-phu-hue-quang-so-sanh-khac-biet-hai-dong-tu-tuong-nam- bac-trung-quoc.html 9. http://docs.4share.vn/docs/14945/Nho_giao_va_anh_huong_cua_nho_gia o_o_Viet_Nam.html |