Sự giống nhau giữa triết học phương đông và phương tây

TIỂU LUẬN SỰ GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU GIỮA TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.8 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại
nói chung và tư tưởng triết học nói riêng, triết học Phương Đông và triết học
Phương Tây có nhiều nội dung phong phú, đa dạng. Những giá trị của nó đã
để lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử loài người. Triết
học Phương Đông và triết học Phương Tây không thể thoát ly những vấn đề
chung của lịch sử triết học. Mặc dù vậy, giữa triết học Phương Đông và triết
học Phương Tây vẫn có những đặc điểm đặc thù của nó. Nghiên cứu về triết
học Phương Đông và triết học Phương Tây, đặc biệt là so sánh sự khác nhau
của nó là một vấn đề phức tạp, nhưng cũng rất lý thú, vì qua đó ta có thể
hiểu biết sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn hoá của nhân loại. Mặt
khác, bản sắc văn hoá Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi nền triết học
Phương Đông, do đó nghiên cứu những đặc điểm của triết học Phương Đông
trong mối quan hệ với đặc điểm của triết học Phương Tây, đặc biệt là những
tư tưởng nhân văn trong thời khai sáng sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc
hơn bản sắc văn hoá Việt Nam. Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề “Sự giống nhau
và khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây” làm đề
tài nghiên cứu trong bài tiểu luận của mình
PHẦN NỘI DUNG
1. Những đặc điểm của lịch sử triết học phương Đông
1.1. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Ấn Độ
So với các nền triết học khác, triết học Ấn Độ là một trong những trào
lưu triết học ra đời và phát triển rất sớm. Nó được hình thành từ cuối thiên
niên kỷ thứ hai, đầu thiên niên kỷ thứ nhất, trước công nguyên và vận động
phát triển trong lịch sử. Với thời gian hàng ngàn năm, nền triết học Ấn Độ
đã tạo nên một vóc dáng đồ sộ, chứa đựng những tư tưởng quý báu của nhân
loại. Tính đồ sộ của nó không chỉ ở qui mô, số lượng các tác phẩm, ở sự đa
dạng của các trường phái mà còn ở sự phong phú trong cách thể hiện và đặc
biệt là sự sâu rộng về nội dung phản ánh. Tính đồ sộ của triết học Ấn Độ thể
hiện ở sự đa dạng các trường phái triết học. Chỉ riêng 9 trường phái triết học
tiêu biểu ở thời kỳ cổ đại và sự phân hoá của nó trong lịch sử triết học cũng


đã nói lên qui mô và sự phức tạp của nó. Tính đồ sộ của nó còn thể hiện ở sự
phong phú về nội dung thể hiện. Có thể nói các trường phái triết học đều đề
cập đến hầu hết các vấn đề lớn của triết học như: bản thể luận, nhận thức
luận, phép biện chứng và đặc biệt là vấn đề con người với đời sống tâm linh
và con đường giải thoát của nó…
Trong quá trình giải quyết những nội dung phong phú đó, đa số các
trường phái triết học Ấn Độ đều dựa vào tri thức đã có trong kinh Veđa, lấy
các tư tưởng của kinh Veđa làm điểm xuất phát, các luận điểm triết học về
sau thường dựa vào các luận thuyết ở triết học đã có trước. Vì vậy, các nhà
triết học sau thường không đặt ra mục đích tạo ra một triết học mới, mà bổn
phận của họ là chỉ để bảo vệ, lý giải cho hoàn thiện thêm các quan niệm ban
đầu, còn việc tìm ra những sai lầm thường bị coi nhẹ thậm chí không được
đặt ra.
Triết học Ấn Độ đặc biệt chú ý tới vấn đề con người. Hầu hết các
trường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề “nhân sinh” và tìm con
đường “giải thoát” con người khỏi nỗi khổ trầm luân trong đời sống trần tục.
Tuy nhiên, do sự hạn chế về nhận thức, do sự chi phối của lập trường giai
cấp, và của những tư tưởng tôn giáo nên hầu hết các học thuyết triết học Ấn
Độ lại đi tìm nguyên nhân của sự khổ đau của con người không phải từ đời
sống kinh tế - xã hội mà ở trong ý thức, trong sự “vô minh”, sự “ham muốn”
của con người. Vì vậy “con đường giải thoát con người” đều mang sắc thái
duy tâm và yếm thế.
Trong quá trình vận động và phát triển, các hệ thống triết học Ấn Độ
không thoát ra khỏi sự chi phối của những tín điều tôn giáo, do đó nó có sự
đan xen với những quan niệm của tôn giáo. Các quan niệm triết học kể cả
quan niệm duy vật đều bị ẩn sau các nghi lễ huyền bí của kinh Veđa, các
quan niệm về hiện thực pha trộn các quan niệm huyền thoại, cái trần tục trực
quan xen lẫn cái ảo tưởng xa xôi, cái bi kịch của cuộc đời đan xen cái thần
tiên của cõi Niết Bàn.
Cùng với sự đan xen của các tín điều tôn giáo, trong phạm vi của triết

học, các quan niệm duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình trong triết
học Ấn Độ không được thực hiện một cách rạch ròi, tách bạch nhau mà
chúng thường đan xen vào nhau, xen kẽ lẫn nhau trong quá trình vận động
và phát triển. Chính vì thế, triết học Ấn Độ đã tạo nên vẻ đẹp thâm trầm,
huyền bí, uyển chuyển của triết học Phương Đông. Nhìn chung, lịch sử triết
học Ấn Độ là nền triết học lớn ở Phương Đông. Nó đã để lại nhiều tư tưởng
quý báu cho nhân loại.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Trung Quốc
Lịch sử triết học Trung Quốc thấm đượm tinh thần nhân văn, trong đó
Nho gia là một học thuyết tiêu biểu, đã coi con người là chủ thể của đối
tượng nghiên cứu, đã tách con người khỏi động vật và thần linh, và cho
rằng: “con người có khí, có sinh, có trí thì cũng có nghĩa, bởi vậy là vật quý
nhất trong thiên hạ) (Tuân Tử-Vương Chế). Nho gia thừa nhận vũ trụ là trời
- đất- người cùng một thể, người được xếp ngang hàng với trời - đất thành
một bộ “tam tài”. Như vây ngay từ buổi đầu, triết học Trung Quốc mà Nho
gia là tiêu biểu đã khẳng định rõ giá trị của con người, thể hiện tinh thần
nhân văn đậm nét và thấm nhuần tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”. Trên cơ sở
tư tưởng đó, những mệnh đề khác đã ra đời như: tâm, tính, tình, lý, khí,
lương tri, “thiên nhân cảm ứng”… nhưng suy cho cùng đều phục vụ cho giải
quyết vấn đề nhân sinh của con người và xã hội. Có thể nói trong tư tưởng
triết học Trung Quốc, Các loại liên quan đến con người như triết học nhân
sinh, triết học chính trị, triết học lịch sử đều phát triển còn triết học tự nhiên
có phần mờ nhạt.
Vấn đề trọng tâm của tinh thần nhân văn trong lịch sử triết học Trung
Quốc là vấn đề đạo đức xã hội và đạo đức con người. Họ luôn luôn tìm tòi,
xây dựng những nguyên lý, những chuẩn mực đạo đức để thích nghi trong
lịch sử và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhiều trường
phái tư tưởng đã đưa ra những nguyên tắc đạo đức cao nhất của mình và
chứng minh đó là hợp lý nhất: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho gia; Vô vi
của Đạo gia; Kiêm ái của Mặc gia; Công và Lợi của Pháp gia. Những

nguyên tắc đạo đức luôn gắn liền với tính đẳng cấp trong xã hội, coi nhẹ
thuộc tính tự nhiên của con người.
Triết học Trung Quốc thường đem luân thường đạo lý của con người
gán cho vạn vật trong trời đất, biến trời thành hoá thân của đạo đức rồi lấy
thiên đạo chứng minh cho nhân thế. Vũ trụ quan, nhân sinh quan, nhận thức
luận của nhà Nho đều thấm đượm ý thức đạo đức. Chuẩn mực đạo đức trở
thành đặc điểm nổi bật. Vì vậy, họ tranh luận xung quanh vấn đề thiện ác.
Họ liên hệ việc nhận thức thế giới khách quan với việc tu nhân, dưỡng tính
cá nhân. Thậm chí họ coi việc dưỡng tính cá nhân là cơ sở của việc nhận
thức thế giới khách quan, “người tận tâm thì biết được tính của mình, biết
được tính của mình thì biết được trời”. Vì vậy, trong mấy ngàn năm lịch sử,
các triết học đều theo đuổi cái vương quốc luân lý đạo đức, họ xem đạo đức
là cái “trời phú”. Bởi thế, họ xem việc thực hành đạo đức là hoạt động thực
tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã
hội. Có thể nói, đây là nguyên nhân triết học dẫn đến sự kém phát triển về
nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng ở Trung Quốc.
Mặt khác, triết học Trung Quốc đặc biệt chú ý đến sự hài hoà thống
nhất giữa các mặt đối lập. Các nhà triết học đều xem xét một cách biện
chứng sự vận động của vũ trụ, xã hội, nhân sinh, đều chú ý đến mặt đối lập
thống nhất của sự vật. Đa số họ đều nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa
các mặt đối lập, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải
quyết vấn đề. Đạo gia, nho gia, Phật giáo đều phản đối cái “thái quá”, “bất
cập”. Tính tổng hợp và tính quán xuyến của hàng loạt các phạm trù “Thiên
nhân hợp nhất”, “Tri hành hợp nhất”, “Thể dụng hợp nhất”, “Tâm vật dung
hợp”, “Cảnh và tình hợp nhất”… đã thể hiện sự hài hoà thống nhất của tư
tưởng triết học cổ đại Trung Quốc.
2. Những đặc điểm của lịch sử triết học Phương Tây
2.1. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại đã phản ánh cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, mà xét đến cùng là phản ánh

cuộc đấu tranh giữa phái chủ nô dân chủ tiến bộ xét trong điều kiện lịch sử
thời kỳ đó với phái chủ nô thượng lưu phản động.
Triết học Hy Lạp cổ đại cũng phản ánh cuộc đấu tranh của khoa học
chống thần học và tôn giáo. Các nhà khoa học đồng thời cũng là những
người vô thần. Họ đưa ra và bảo vệ những quan điểm về khoa học tự nhiên,
trong đó có học thuyết nguyên tử. Tuy chưa vạch ra hết nguồn gốc của thần
học và tôn giáo, nhưng những tư tưởng của họ đã góp phần to lớn vào cuộc
đấu tranh chống tư tưởng hữu thần của các nhà triết học duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật của Hy Lạp cổ đại mang tính mộc mạc và tự phát.
Đó là kết quả của khoa học tự nhiên còn ở thời kỳ nguyên thuỷ, mới phát
sinh và bắt đầu phát triển. Các tri thức khoa học do các nhà triết học duy vật
nêu ra hầu như chỉ là sự phỏng đoán về thế giới xung quanh, chưa có cơ sở
khoa học vững chắc, song đó là những phỏng đoán thiên tài. Rất nhiều
phỏng đoán của họ sau này đã được khoa học thừa nhận và mở ra cho các
nhà khoa học những con đường để đi đến chân lý và phát triển các khoa học.
Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thường dựa vào các sự vật, hiện
tượng cụ thể như nước, không khí, lửa để nêu lên bản nguyên của thế giới.
Tuy có nhà triết học đã đưa ra quan niệm trừu tượng hơn, song cũng chưa
thoát khỏi tính trực quan trong việc xác định bản nguyên của thế giới như
Đêmocrit chẳng hạn.
Một trong những đặc điểm cơ bản khác của triết học Hy Lạp cổ đại là
tính chất biện chứng sơ khai tự phát. Những nhà triết học Hy Lạp đầu tiên
của Hy Lạp cổ đại là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh và Aritxtôt-bộ
óc bách khoa nhất của các nhà triết học ấy cũng đã nghiên cứu những hình
thức căn bản nhất của tư duy biện chứng.
Xét về mặt lịch sử, tính biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại là một
thành tựu vĩ đại. Song nó vẫn là biện chứng “ngây thơ”. Ăngghen đã nhận
xét: “Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét thế giới tự nhiên, lịch sử loài
người, hay dùng hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta, thì trước nhất,
chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ

và những sự tác động qua lại, trong đó không có cái gì đứng nguyên, không
thay đổi, mà tất cả đều vận động, biến hoá, phát sinh và mất đi. Cái thế giới
quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan
của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêracrit trình
bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và cũng không tồn tại, vì mọi vật
đang trôi qua, mọi vật đều không ngừng biến hoá, mọi vật đều không ngừng
phát sinh và tiêu vong”. Nhưng cách nhìn ấy, dù cho nó có đúng đến thế nào
chăng nữa, tính chất chung của toàn bộ bức tranh về hiện tượng, vẫn không
đủ để giải thích những chi tiết hợp thành bức tranh toàn bộ và chừng nào
chúng ta chưa giải thích được các chi tiết ấy thì chúng ta chưa thể hiểu rõ
được bức tranh toàn bộ. Đó là hạn chế và sự thiếu sót lớn của triết học Hy
Lạp cổ đại.
2.2. Một số đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời trung cổ
Lịch sử phát triển của xã hội Tây Âu thời trung cổ là sự tiếp nối của sự
phát triển lịch sử xã hội loài người từ thời kỳ cổ đại. Tuy nhiên đây là cả giai
đoạn mà cả xã hội thống trị bởi hệ tư tưởng tôn giáo. Trong điều kiện đó,
chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thống. Cả xã hội chìm đắm và bị
ngưng trị bởi tư tưởng duy tâm, tôn giáo, thần học, và chủ nghĩa ngu dân. Vì
vậy, triết học phục tùng thần học, phương pháp suy luận hình thức, viển
vông. Tôn giáo áp đặt sự thống trị của mình lên triết học, tư tưởng khoa học
và tự do. Chủ nghĩa kinh viện không chấp nhận cái mới và sự tiến bộ.
Thời kỳ này đã diễn ra hai cuộc đấu tranh giữa hai phái triết học là phái
duy danh và phái duy thực, phản ánh cuộc đấu tranh không khoan nhượng
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Học thuyết duy danh gắn liền
với khuynh hướng duy vật trong việc thừa nhận sự vật có trước, khái niệm
có sau. Học thuyết duy thực xem cái chung là tồn tại độc lập, có trước, sinh
ra cái riêng và không phụ thuộc vào cái riêng. Trong cuộc đấu tranh dai dẳng
đó, các trào lưu triết học của phái duy danh đã đem đến một luồng sinh khí
mới. Đó là sự nhận thức thế giới thông qua kinh nghiệm, thực nghiệm, là sự
giải phóng và sự đề cao của thần học và sự tối tăm, trì trệ. Đây là mầm mống

chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và sự phát triển mới của triết
học và khoa học trong thời kỳ Phục hưng.
Một nội dung mà triết học Tây Âu thời trung cổ đề cập là vấn đề con
người. Xuất phát từ thế giới quan duy tâm, thần bí, họ xem con người là sản
phẩm của Thượng đế sang tạo ra. Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may
rủi của con người đều do Thượng đế xếp đặt. Trí tuệ con người thấp hơn trí
tuệ anh minh sáng suốt của Thượng đế. Do đó, triết học cũng hoàn toàn bất
lực trong việc cứu thoát con người. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc
sống, nhưng đành bằng lòng với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh
phúc vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Con người bị thủ tiêu ý chí đấu tranh để tự
giải thoát mình. Khi phương thức tư bản chủ nghĩa ra đời, khoa học và triết
học đã xác lập vị thế lịch sử tiên tiến của nó, thì con người mới có thể thoát
khỏi sự kìm hãm của triết học kinh viện và thế giới quan thần học trung cổ.
Mặc dù quá trình phát triển của triết học Tây Âu thời trung cổ rất phức
tạp, đầy mâu thuẫn, nhưng nó vẫn tuân theo quy luật phát triển kế thừa liên
tục của lịch sử và của các hình thái ý thức xã hội. Nó chuẩn bị những hạt
nhân hợp lý cho sự phục hồi chủ nghĩa duy vật cổ đại và phát triển với
những thành tựu rực rỡ trong thời kỳ Phục hưng.
2.3. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng
Triết học thời kỳ này là thế giới quan của triết học giai cấp tư sản đang
ở trong quá trình hình thành, phát triển. Sau “đêm trường trung cổ”, dưới sự
thống trị của thần học và triết học kinh viện, thời kỳ này chủ nghĩa duy vật
được khôi phục và phát triển. Sự khôi phục và phát triển đó lại gắn liền với
cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại thần học và triết học kinh viện.
Do tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với
chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, hơn nữa do ảnh hưởng rất lớn của thần học lúc
bấy giờ nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chưa triệt để, nó vẫn mang tính
hình thức phiếm luận. Tuy nhiên trong đó, tư tưởng duy vật vẫn giữ vai trò
chi phối.
Triết học thời kỳ này đặc biệt đề cao vai trò con người, quan tâm đến

việc giải phóng con người, mang lại quyền tự do cho con người.
Thời kỳ này triết học có bước phát triển mới, dựa trên cơ sở các thành
tựu khoa học tự nhiên. Tuy nhiên giữa triết học và khoa học tự nhiên vẫn
thống nhất chặt chẽ với nhau, chưa có sự phân chia rạch ròi. Trên cơ sở
những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, các nhà khoa học tự nhiên lại đi
đến những khái quát mới về mặt triết học. Các nhà khoa học tự nhiên đồng
thời là các nhà triết học.
Có thể nói triết học thời kỳ Phục hưng đã tạo ra một bước ngoặt trong
sự phát triển của triết học sau “đêm trường trung cổ”. Nó tạo tiền đề cho triết
học tiếp tục phát triển vào thời cận đại.
2.4. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại
Triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là sự phát triển tiếp tục các tư tưởng
triết học thời kỳ Phục hưng trong giai đoạn mới - giai đoạn cách mạng tư sản
và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên.
Đây là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa tâm,
của khoa học đối với tôn giáo. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là thế giới
quan của giai cấp tư sản cách mạng; là vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản
trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội, xác lập xã hội tư bản.
Do yêu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thời
kỳ này khoa học tự nhiên diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc và phát triển
một cách mạnh mẽ. Nhờ những thành tựu khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy
vật có một bước phát triển mới, nó có cơ sở khoa học vững chắc và được
chứng minh về chi tiết.
Do yêu cầu phát triển của khoa học tự nhiên, triết học thời kỳ này đặc
biệt chú ý đến những vấn đề nhận thức luận, về phương pháp nhận thức.
Cuộc đấu tranh của phái duy cảm với duy lý; giữa phương pháp quy nạp với
phương pháp diễn dịch đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm
các phương pháp nhận thức khoa học và góp phần thúc đẩy khoa học phát
triển.
Tiếp tục phát triển tư tưởng nhân đạo thời kỳ Phục hưng, thời kỳ này

các nhà triết học càng đề cao vị trí con người, giương cao ngọn cờ đấu tranh
giải phóng con người khỏi sự thống trị của phong kiến và giáo hội, mang lại
quyền tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho con người. Đây chính là vấn đề
bức xúc của cuộc cách mạng tư sản đặt ra và nó có sức cổ vũ mãnh mẽ quần
chúng đứng lên làm cách mạng.
Mặc dù thời kỳ này là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối với
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nhưng hầu hết các nhà duy vật vẫn rơi vào
phiếm thần luận, chỉ có một số ít nhà duy vật đi đến chủ nghĩa vô thần. Điều
này không chỉ do ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo mà còn do giai cấp tư sản
vẫn cần đến tôn giáo cho nên có lập trường thiếu triệt để.
Do thói quen trong nghiên cứu khoa học chuyên môn, tách biệt khỏi
các mối liên hệ chung, hơn nữa do sự thống trị của cơ học Niutơn, nên trong
thời kỳ này phương pháp tư duy siêu hình, máy móc vẫn giữ vai trò chi phối.
2.5 Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức nghiên cứu lịch sử của nhân loại, cũng như toàn
bộ quan hệ con người – tự nhiên theo quan niệm biện chứng. Vì vậy, quan
niệm biện chứng về hiện thực là đặc điểm hết sức quan trọng của triết học cổ
điển Đức. Trước những bước phát triển như vũ bão của khoa học và thực
tiễn ở Châu Âu từ cuối thế kỷ XVIII, đã cho thấy hạn chế của bức tranh cơ
học về thế giới. Các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện
chứng trong di sản triết học từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trở
thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng
tự nhiên và xã hội. Hêghen đã phát hiện ra và phân tích một cách hệ thống
những quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng nó trở
thành một phương pháp luận, một cách tư duy, quan niệm về tất thảy mọi sự
vật trong thế giới hiện thực. Phương pháp tư duy biện chứng của các nhà
triết học cổ điển Đức về sau được C.Mác cải biến duy vật, phát triển tiếp, trở
thành thành linh hồn của chủ nghĩa Mác.
Với cách nhìn biện chứng về toàn bộ hiện thực, nhiều nhà triết học cổ
điển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ những tri thức và thành tựu mà nhân

loại đã đạt được từ trước tới lúc bấy giờ. Tiếp thu những tinh hoa của siêu
hình học thế kỷ 17 trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hoá tri
thức của con người, các nhà triết học, nhất là Kant và Hêghen có ý đồ xây
dựng một hệ thống triết học vạn năng của mình, làm nền tảng cho toàn bộ
các khoa học và mọi lĩnh vực hoạt động khác của con người, khôi phục lại
quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học. Vì vậy, họ là những
bách khoa toàn thư, uyên bác không chỉ về tri thức triết học mà còn am hiểu
về khoa học tự nhiên, lịch sử, pháp quyền, tôn giáo… Dĩ nhiên quan niệm
này hiện nay không còn phù hợp, nhưng về phương diện lịch sử, nó đáp ứng
nhu cầu khoa học cần hệ thống hoá toàn bộ tri thức con người mà các nhà
siêu hình học là những người khởi sướng.
3. So sánh đặc điểm của triết học Phương Đông và triết học
Phương Tây
3.1 Sự giống nhau
C.Mác đã viết: Để hiểu rõ tư tưởng của một thời đại nào đó thì chúng ta
phải hiểu được điều kiện sinh hoạt vật chất của thời đại đó. Bởi vì, theo
C.Mác, tồn tại xã hội luôn quyết định ý thức xã hội, do đó nó phản ánh tồn
tại xã hội – những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Chính vì thế, các
trào lưu triết học Phương Đông và Phương Tây đều được nảy sinh trên
những điều kiện kinh tế - xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Xét trong
mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, thì triết học là một
yếu tố của kiến trúc thượng tầng, do đó các học thuyết triết học Đông – Tây
đều chịu sự quyết định của cơ sở hạ tầng và đến lượt nó cũng có vai trò hết
sức to lớn đối với cơ sở hạ tầng.
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều được hình thành, phát triển
trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm, giữa phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng. Thực chất cuộc đấu tranh này là một phần cuộc
đấu tranh tư tưởng của những giai cấp đối kháng trong xã hội. Những quan
niệm duy vật thường gần gũi và gắn liền với những lực lượng tiến bộ trong
xã hội và ngược lại những quan niệm duy tâm thường gần gũi và gắn liền

với lực lượng lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.
Triết học Phương Đông và Phương Tây có thể sử dụng những khái
niệm, phạm trù khác nhau nhưng đều phải bàn đến vấn đề cơ bản của triết
học, đồng thời đều tuân theo những phương pháp chung trong nhận thức thế
giới: Phương pháp biện chứng hoặc Phương pháp siêu hình.
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều bàn đến vấn đề con người
ở những khía cạnh khác nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau và qua những
thời kỳ lịch sử khác nhau đều có cách đánh giá khác nhau về con người
Các học thuyết triết học ở Phương Đông hay Phương Tây đều có
khuynh hướng chung là xâm nhập lẫn nhau, vừa có sự kế thừa giữa các học
thuyết, hoặc trong sự phát triển của học thuyết đó, vừa có sự đào thải, lọc bỏ
những quan niệm lạc hậu, hoặc những quan niệm không phù hợp với nhãn
quan của giai cấp thống trị.
Mỗi học thuyết trong triết học ở Phương Đông hay Phương Tây cũng
vậy, đều có những mặt tích cực và hạn chế của nó nhưng đã góp phần tạo
nên những giá trị văn minh nhân loại.
3.2 Sự khác nhau
Triết học thuộc thượng tầng kiến trúc, bị chi phối bởi cơ sở hạ tầng, tồn
tại xã hội. Vậy những điều kiện sinh hoạt vật chất của Phương Đông và
Phương Tây có điểm gì khác nhau? C.Mác đã chỉ ra những điểm đặc trưng
của xã hội truyền thống Ấn Độ nói riêng và Phương Đông nói chung, đó là
xã hội nông nghiệp với chế độ công xã nông thôn – chế độ đem lại cho mỗi
đơn vị nhỏ bé một cuộc sống cô lập, biệt lập. Cái xã hội truyền thống đó
mang tính chất thụ động, quân bình, ít thay đổi, kéo dài từ những thời hết
sức xa xưa cho đến 10 năm đầu của thế kỷ XIX. C.Mác đã dùng các khái
niệm “bất động”, “tĩnh” để chỉ xã hội Phương Đông. Khi phân tích các xã
hội Daminđari và Raiatvari, ông cho rằng dù chúng có xấu xa như thế nào đi
chăng nữa, chúng cũng là hai hình thức tư hữu về ruộng đất, cái mà xã hội
Châu Á đang rất khát khao. Xét về điều kiện xã hội, ở Phương Tây có chế độ
nô lệ đại quy mô điển hình như ở Hy Lạp và La Mã. Với quá trình xuất hiện

nhà nước ở Hy – La đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển, từ đó chế độ
thị tộc, bộ lạc được thanh toán nhanh, quan hệ sản xuất mới ra đời. Ở
Phương Đông, chế độ nô lệ có manh nha từ Nhà Ân (thế kỷ XIV Tr.CN),
đến thời Tây Chu (1027-770 Tr.CN) nhà nước mang tính chất nô lệ ra đời. Ở
đây nhà nước nô lệ không mang tính chất điển hình. Đến thời kỳ Xuân Thu -
Chiến Quốc thật sự là một giai đoạn lịch sử mà các học giả cho rằng “xã hội
đại loạn”, “người ăn thịt người” nhưng đông thời lại là thời kỳ “bách gia
tranh minh” và nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên chỉ ra đời sau khi
Tần Thuỷ hoàng thống nhất nước Trung Quốc. Ở Ấn Độ cũng vậy, nhà nước
chiếm hữu nô lệ ra đời với sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt và nỗi thống
khổ của người dân trong xã hội chính là cội nguồn cho sự ra đời của các
trường phái triết học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích khá chính xác về Phương Đông khi
Người cho rằng: Ở đó về cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội Phương
Tây thời trung cổ cũng như thời cận đại và đấu tranh giai cấp ở đó không
quyết liệt như ở Phương Tây (Hồ Chí Minh toàn tập – T1. NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 1995, Tr.465). Như vậy, với những điều kiện kinh tế - xã
hội khác nhau, triết học Phương Đông và Phương Tây tất yếu phải có những
đặc điểm khác nhau.
Triết học Phương Tây thường đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể
luận đến nhân sinh quan, nhận thức luận, logic học để từ đó tạo nên một hệ
thống hoàn chỉnh, chặt chẽ thì triết học Phương Đông lại đi ngược lại nghĩa
là từ nhân sinh quan đến thế giới quan. Nếu như các nhà triết học Hy – La cổ
đại thường đi tìm những yếu tố đầu tiên tạo nên thế giới như nước, lửa,
không khí… thì ở Phương Đông hai nhà tư tưởng lớn tiêu biểu là Khổng Tử
và Đức Phật lại không làm như vậy. Đứng trước xã hội loạn lạc thời Xuân
Thu, Khổng Tử đã đưa ra học thuyết Nhân – đường lối đức trị nhằm ổn định
trật tự xã hội lúc bấy giờ. Bởi vậy có người coi học thuyết của Khổng Tử là
học thuyết mang tính chất chính trị, xã hội – đạo đức chứ không phải là học
thuyết triết học, bởi lẽ nó hầu như không có phần bản thể luận hay vũ trụ

quan. Đến Mạnh Tử thời Chiến Quốc thì tình hình này hầu như không có gì
thay đổi. Mãi đến thời Tống sau này, khiếm khuyết đó mới được bổ sung
bằng những yếu tố thế giới quan, vũ trụ quan của Phật và Lão.
Phật giáo cũng vậy, đầu tiên không phải đi vào xây dựng vũ trụ quan
hay bản thể luận mà đối với Phật giáo vấn đề cấp bách là cứu khổ của chúng
sinh. Bởi vậy, Phật giáo đưa ra phương pháp, biện pháp để cứu khổ, kêu gọi
chúng sinh hãy thấm nhuần và làm theo Tứ Diệu Đế. Có ý kiến cho rằng,
Phật giáo không bao giờ bàn đến những vấn đề siêu hình trừu tượng.
Như vậy, hai học thuyết cơ bản của Phương Đông là Nho giáo và Phật
giáo đều đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan, trái ngược với triết học
Phương Tây. Có thể nói, nếu triết học Phương Tây đi từ gốc đến ngọn thì
triết học Phương Đông hầu như đi từ ngọn đến gốc.
Nếu ở Phương Tây triết học thường gắn liền với những thành tựu khoa
học, đặc biệt là khoa học tự nhiên và nhà triết học thường là nhà khoa học,
nhà bác học thì ở Phương Đông triết học thường gắn liền với tôn giáo. Triết
học Ấn Độ và triết học Trung Quốc ngay từ đầu đã quyện lẫn với tôn giáo.
Triết học Ấn Độ biểu hiện rõ nét hơn triết học Trung Quốc. Xã hội Ấn Độ
ngay từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thần quyền đã ngự trị trên vương triều.
Tình trạng này kéo dài không dưới bốn nghìn năm. Nói chung 9 trường phái
của triết học Ấn Độ hoặc ít nhiều đều bắt nguồn từ Kinh Vêđa, một bộ kinh
tối cổ xuất hiện khoảng giữa thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên. Kinh
Vêđa cũng là kinh điển của đạo Bà la môn – Tôn giáo có mặt sớm nhất ở Ấn
Độ xa xưa. Như vậy, kinh Vêđa buổi đầu xuất hiện với tư cách là tôn giáo
chứ không phải tư cách triết học. Tính triết học rõ nét khi kinh Vêđa được bổ
sung thêm phần Upanisad sau này. Như vậy, triết học Ấn Độ thoát thai từ
tôn giáo và sống dựa vào tôn giáo chứ không đẩy lùi tôn giáo như Phương
Tây. Kinh dịch xuất hiện từ thời Ân – Chu ở Trung Quốc cũng với tư cách là
tôn giáo nhiều hơn là triết học. Như vậy, triết học từ Dịch truyện cũng dựa
vào tôn giáo để tồn tại. Thời Hán, Đổng Trọng Thư đã giải quyết khôn khéo
mối quan hệ giữa tôn giáo – triết học – chính trị - đạo đức. Ông đã làm động

tác thống nhất giữa chính trị và đạo đức để rồi tôn giáo cả chính trị lẫn đạo
đức.
Mục đích của triết học Phương Tây là giải thích và cải tạo thế giới.
Điều này đã được C.Mác chỉ rõ: Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế
giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới. Còn mục
đích của triết học Phương Đông lại nhằm xây dựng một xã hội có trật tự kỷ
cương và hòa mục, nhân ái (Nho giáo); giải thoát cho con người (Phật giáo)
và làm cho con người hoà đồng với thiên nhiên (Đạo gia).
Về đối tượng giữa triết học Phương Tây và triết học Phương Đông có
điểm gì khác nhau? Đối tượng của triết học Phương Tây rất rộng, bao gồm
toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy nhưng nó lấy tự nhiên làm gốc, làm cơ sở.
Vì đối tượng nghiên cứu rộng như vậy nên phạm vi tri thức của nó cũng rất
rộng, bao gồm mọi lĩnh vực. Triết học Phương Tây lấy tự nhiên làm gốc nên
nó hơi ngả sang hướng ngoại, lấy bên ngoài giải thích bên trong. Điều đó
quy định tính chất của triết học Phương Tây là hơi ngả về duy vật. Khuynh
hướng trội này còn được chứng minh bởi nó đi từ thế giới quan đến nhân
sinh quan, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc. Điều đó đã được
chứng minh: trong 7 trường phái triết học thời Hy Lạp – La Mã cổ đại thì có
đến 5 trường phái là duy vật, chỉ có 2 trường phái là duy tâm (Platon,
Pithagore).
Trong khi đó, đối tượng của triết học Phương Đông lại là xã hội, cá
nhân con người, là cái tâm và cái nhìn chung nó lấy con người làm gốc.
Chính vì thế, vấn đề cơ bản của triết học, được triết học Phương Đông bàn
đến là vấn đề: Thiên – Địa – Nhân (trời đất và con người). Điều đó quy định
tri thức của triết học Phương Đông chủ yếu là về xã hội, chính trị, đạo đức,
tâm linh. Nếu triết học Phương Tây hơi nghiêng về hướng ngoại thì triết học
Phương Đông hơi nghiêng về hướng nội. Nếu triết học Phương Tây lấy
ngoài giải thích trong thì triết học Phương Đông lại lấy trong giải thích
ngoài. Nếu triết học Phương Tây hơi ngả về Duy vật thì triết học Phương
Đông hơi ngả về Duy tâm. Trong triết học Ấn Độ cổ đại có 9 trường phái thì

đến 8 trường phái duy tâm, chỉ còn lại một trường phái duy vật là Lokayata,
điều này được lý giải bởi triết học Ấn Độ đi từ nhân sinh quan đến thế giới
quan.
Triết học Phương Đông từ thời xa xưa đã thiên về đạo đức. Học thuyết
Nhân của Khổng Tử đã ngự trị suốt mấy nghìn năm trong lịch sử Trung Hoa
là học thuyết đạo đức – chính trị. Phàn Trì hỏi thầy về chữ Nhân, Khổng Tử
trả lời: Yêu người. Tiếp đó Phàn Trì lại hỏi về trí tuệ, Khổng Tử trả lời: hiểu
về con người. Như vậy, nội dung học thuyết của Khổng Tử là học thuyết về
đạo đức nhân văn. Phật giáo ở Ấn Độ cũng vậy, luôn khuyên con người phải
khuyến thiện, làm phước, lời nói phải ngay thẳng, chân chính… Mặc dù,
Pháp gia ở Trung Quốc lại chú trọng đến tài năng, trí tuệ, nhưng nhìn chung
triết học Phương Đông có khuynh hướng chung là thiên về đạo đức. ngược
lại, khuynh hướng chung của triết học Phương Tây là tuyệt đối hoá trí tuệ,
đặc biệt là thời kỳ ánh sáng (thế kỷ XVII-XVIII) người ta đã xem trí tuệ như
đôi đũa thần kỳ của nàng tiên trong truyện Lọ Lem có thể đem lại cho nhân
loại mọi thứ trên đời.
Triết học Phương Tây thiên về trí tuệ phù hợp với sự phát triển của Chủ
nghĩa tư bản, dựa trên nguyên tắc của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vị lợi,
phát huy tính phiến diện này đến đỉnh cao trong nền kinh tế thị trường. Cho
nên cùng với nó là sự suy thoái về đạo đức là dĩ nhiên. Mà sự suy thoái về
đạo đức ở Phương Tây là từ biểu hiện tan giã gia đình. Trong lúc đó, ở
Phương Đông đạo đức lại được củng cố ngay từ gia đình. Cho nên tinh thần
cộng động, họ hàng đặt Nghĩa lên trên Lợi luôn đè bẹp sự trỗi dậy của chủ
nghĩa cá nhân theo kiểu Phương Tây.
Về phương tiện, phương pháp nhận thức giữa triết học Phương Tây và
triết học Phương Đông có điểm gì khác nhau? Nếu triết học Phương Tây hơi
ngả về tư duy duy lý, phân tích, mổ xẻ thì triết học Phương Đông hơi ngả về
trực giác. Phương pháp tư duy duy lý đã tạo ra những điều kiện cho sự phát
triển của khoa học kỹ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà các nước Phương
Tây hoặc Phương Tây hóa có nền khoa học công nghệ đứng đầu thế giới.

Nhưng xét ở góc độ triết học, phương pháp này có mặt yếu của nó. Như
chúng ta đã biết, quá trình nhận thức, quá trình đi đến chân lý cuối cùng là
vô hạn. Theo Lênin, con người không thể nắm bắt giới tự nhiên một cách
đầy đủ như là chỉnh thể trong tính “chỉnh thể trực tiếp” của giới tự nhiên; tất
cả những cái mà con người có thể nhận thức được là đi gần mãi đến đó bằng
cách tạo ra những trừu tượng, những khái niệm, những quy luật – một bức
tranh khoa học về vũ trụ.
Phương pháp trực giác là sự cảm nhận hay thể nghiệm, đó là đặc điểm
nổi bật của phương thức tư duy của triết học Phương Đông. Cảm nhận (hay
thể nhận) tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật
ăn khớp, khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó
nắm vững bản thể. Đặc biệt là các nhà tư tưởng triết học Trung Quốc đều
quen với những phương thức tư duy trực giác. Nho gia chủ trương “phản
tĩnh cầu nội”, Đạo gia chăm chút “toả vong”, Phật học có phép “đốn ngộ”,
Lý học đề xướng “Trí lương tri”…
Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái “tâm”,
coi “tâm” là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”, rất ít đi sâu
phân tích quá trình tác động của “tâm”. Vì vậy trong các tác phẩm triết học
của họ thường rời rạc, phần ám thị nhiều hơn, thiếu sự chứng minh chu đáo.
Mặt khác, cũng phải thấy rằng, các triết gia Phương Đông đi sâu nhấn
mạnh tính chỉnh thể hợp nhất của các khái niệm và phạm trù, không tìm hiểu
sự khác biệt về bản chất giữa chúng, chỉ nắm chỉnh thể ở cảm nhận. Như
vậy, nếu dùng quan điểm chỉnh thể để nắm sự vật thì phương thức tư duy
trực giác “gặp sự vật là hiểu nội dung” tỏ ra quan trọng, còn phương thức đi
từ phân tích nội hàm và ngoại diên của khái niệm dẫn đến suy luận logic lại
thừa.
Sự sáng tạo phương thức tư duy trực giác đương nhiên là sự sáng tạo trí
tuệ siêu phàm của tư tưởng triết học Phương Đông, nhưng do thiếu sự luận
chứng và phân tích cho nên các khái niệm, phạm trù thường là trực giác,
thiếu suy tính logic, do thiếu phương pháp cần thiết để xây dựng một hệ

thống lý luận khoa học. Nhưng phương pháp trực giác lại đạt đến cái mà tư
duy duy lý phân tích, mổ xẻ không bao giờ có được. Nó là phương thức phù
hợp với đối tượng vận động.
Thực ra hai phương pháp trội của hai nền triết học này có mối liên hệ
mật thiết với nhau, không tách rời nhau và bổ sung cho nhau. Nếu không có
phân tích, mổ xẻ thì làm sao mà hiểu được sự vật, hiện tượng. Nhưng nếu
cho nó là tuyệt đối duy nhất thì lại là sai lầm. Đối với nhiều lĩnh vực,
phương pháp phân tích tỏ ra rất yếu ớt, hạn chế trong khi đó phương pháp
trực giác lại tỏ ra khá thích hợp. Bởi vậy, tuỳ từng lĩnh vực, đối tượng mà
phương pháp nào là nổi trội nhưng cũng không loại trừ hoàn toàn phương
pháp khác.
Một điểm khác nhau có tính phương pháp luận giữa hai nền triết học
Đông Tây là ở chỗ: triết học Phương Tây tách rời chủ thể và khách thể, chủ
quan và khách quan, người nhận thức và đối tượng nhận thức. Trong khi đó,
triết học Phương Đông lại cho rằng, muốn hiểu đối tượng thì phải hoà vào
đối tượng. Con người phải hài hoà với thiên nhiên.
Ngày nay một số bậc học giả cho rằng khuynh hướng trội của Phương
Tây là hướng ngoại, chủ động tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến,
cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tư
duy, cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể… còn khuynh hướng trội của Phương
Đông là hướng nội, bị động, trực giác huyền bí, hoà hợp, quân bình, thống
nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng hợp, minh triết, trực giác, tôn giáo, tâm
lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ… thiết nghĩ đây là một
vấn đề lớn cần phải được phân tích và lý giải.
KẾT LUẬN
Will Durant – Nhà triết gia, sử gia đã viết: “Chúng ta sẽ ngạc nhiên nếu
được biết các món nợ tinh thần của chúng ta đối với Ai Cập và Phương
Đông, nợ về các phát minh hữu ích cũng như về tổ chức chính trị, kinh tế, về
khoa học, văn chương, triết học, tôn giáo. Hiện nay Châu Á tràn trề một sinh
lực mới, càng ngày càng mau đuổi kịp Châu Âu và chúng ta có thể đoán

được rằng vấn đề quan trọng của thế kỷ XX sẽ là sự xung đột giữa Đông và
Tây; vậy thì viết sử mà có óc hẹp hòi theo truyền thống cũ, bắt đầu bằng sử
Hy Lạp, chỉ chép vài hàng về sử Châu Á… thì là thiển cận, thiếu hiểu biết,
hậu quả có thể tai hại. Tương lai ở phía Thái Bình Dương và chúng ta phải
hướng cặp mắt và trí óc về phía đó”. Đúng thật vậy, có một thời gian dài,
chúng ta chỉ nghiên cứu triết học Phương Tây, chính vì thế chúng ta không
nhận thức được những giá trị của triết học Phương Đông. Không thấy được
sự khác nhau giữa đặc điểm triết học Phương Đông và Phương Tây.
Ngày nay, các trào lưu triết học Phương Đông vẫn còn ảnh hưởng rất
lớn trong xã hội Phương Đông hiện đại, đặc biệt là Nho giáo và Phật giáo.
Các nhà tư tưởng đang tìm mọi cách để khai thác những yếu tố tích cực của
triết học Phương Đông, để góp phần tạo nên nguồn lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Các trào lưu của triết học Phương Tây hiện đại ngày
nay phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn khách quan của xã hội tư bản hiện
đại. Trong đó chủ nghĩa duy lý là động lực tạo nên nền văn minh hiện đại,
còn chủ nghĩa phi duy lý lấy nhân tố con người để “tự cai trị” trong một xã
hội ngày càng bị duy lí hoá đe doạ cuộc sống của con người. Hai xu hướng
triết học đó lại được tăng cường bởi triết học tôn giáo. Chúng không hoàn
toàn đối lập nhau một cách tuyệt đối mà dựa vào nhau, bổ sung cho nhau để
23
đáp ứng sự tồn tại và phát triển của con người trong thế giới Phương Tây
hiện đại. Nhưng trong thực tế, xã hội tư bản hiện đại đã sản sinh ra những cá
nhân vị kỷ, tình trạng bạo lực… đe doạ sự bất ổn trong xã hội. Và hiện nay,
các nhà tư tưởng Phương Tây đang quay về nghiên cứu Phương Đông để
học tập cái hay, cái đẹp của Phương Đông, đúng như dự đoán của sử gia
người Pháp Y.Michelet: “Người nào đã từng hành động hoặc ham muốn quá
nhiều, hãy uống cạn ly rượu đầy sức sống và tươi trẻ này. Ở Phương Tây cái
gì cũng chật hẹp. Hy Lạp nhỏ bé làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do Thái khô
khan làm cho tôi khó thở. Hãy để cho tôi hướng về Châu Á cao cả và
Phương Đông thâm trầm trong giây lát”.

Là những chủ nhân của đất nước, chúng ta phải có nhiệm vụ nghiên
cứu những giá trị của triết học Phương Đông và Phương Tây, đặc biệt là triết
học Phương Đông. Bởi lẽ chính lịch sử tư tưởng Việt Nam ảnh hưởng khá
sâu sắc những học thuyết triết học Phương Đông như Nho giáo, Phật giáo,
Đạo gia. Những học thuyết đó trong lịch sử đã bị “Việt Nam hoá” và là
những thành tố tạo nên bề dày của bản sắc văn hoá Việt Nam. Để từ đó phát
huy nội lực, phát huy những giá trị truyền thống trong sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước./

tiểu luận cao học Sự giống nhau và khác nhau giữa triết học phương đông cổ đại và triết học phương tây cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.71 KB, 17 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn hóa nhân loại nói
chung và tư tưởng triết học nói riêng, triết học phương Đông và triết học
phương Tây có nhiều nội dung phong phú,đa dạng. Những giá trị của nó đã để
lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử loài người. Triết học
phương Đông và triết học phương Tây không thể thoát ly những vấn đề chung
của lịch sử triết học. Mặc dù vậy giữa triết học phương Đông và triết học
phương Tây vẫn có những đặc điểm đặc thù của nó. Nghiên cứu về triết học
phương Đông và triết học phương Tây, đặc biệt là so sánh sự khác nhau của
nó là một vấn đề phức tạp nhưng cũng rất bổ ích, vì qua đó ta có thể hiểu biết
sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn hóa của nhân loại. Mặt khác bản
sắc văn hóa Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi nền triết học phương Đông,
do đó nghiên cứu những đặc điểm của triết học phương Đông trong mối quan
hệ với triết học phương Tây, đặc biệt là những tư tưởng nhân văn cao đẹp sẽ
giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc văn hóa Việt Nam. Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề
“Sự giống nhau và khác nhau giữa triết học phương Đông cổ đại và triết
học phương Tây cổ đại” làm đề tài nghiên cứu trong tiểu luận của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Phân tích đặc điểm của lịch sử triết học phương Đông và phương Tây
qua đó rút ra những đặc điểm giống và khác nhau giữa chúng để hiểu sâu sắc
hơn lịch sử hai nền triết này.
III. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu đặc điểm của lịch sử triết học phương
Đông và phương Tây cổ đại.
IV. Kết cấu đề tài
Tiểu luận gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó nội dung
gồm có hai chương.

1




PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI VÀ PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI
I. Đặc điểm của triết học phương Đông cổ đại
1.1. Những đặc điểm cơ bản của triết học Ấn Độ cổ đại
Từ trong hoàn cảnh và truyền thống Vêda, triết học Ấn Độ cổ đại đã
hình thành và phát triển. Chính Upanisat – tác phẩm Vêda xuất hiện muộn
nhất đã thể hiện những triết lý sâu sắc của người Ấn Độ. Những triết lý này
tạo thành một mạch suối ngầm phát sinh ra nhiều dòng chảy tư tưởng triết học
tôn giáo của Ấn Độ. Upanisat cố lý giải những vấn đề về bản thể - nhân sinh,
sự sống – cái chết có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tinh thần của người
dân Ấn Độ nói riêng, của nhiều dân tộc phương Đông nói chung.
Dù cùng được hình thành từ trường phái triết học Vêda, nhưng các
trường phái triết học Ấn Độ cổ đại luôn xung đột lẫn nhau và sự xung đột này
lại kéo dài đến hết thời Trung đại. Tùy thuộc vào việc có thừa nhận hay không
trường phái triết học của Vêda mà các trường phái triết học được chia thành
hệ thống chính thống và không chính thống. Hệ thống triết học chính thống
bao gồm 6 trường phái thừa nhận uy quyền của Vêda là Vêdanta, samkhuya,
mimansa, yoga, niaja và vaisesica; hệ thống triết học không chính thống bao
gồm 3 trường phái không thừa nhận uy quyền của Vêda là Nokhayiata, jaina
và đạo phật.
Mặc dù có nhiều trường phái triết học khác nhau nhưng nhìn chung
triết học Ấn Độ có những đặc điểm cơ bản sau:
1.1.1. Do chịu ảnh hưởng của tinh thần Vêda mà triết học Ấn Độ không
thể phân chia rõ rang thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm hay
phương pháp biện chứng hay phương pháp siêu hình như triết học phương
Tây mà chủ yếu được chia thành các hệ thống chính thống và không chính
thống. Trong các trường phái triết học cụ thể có sự đan xen giữa chủ nghĩa

2


duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình với nhau.
1.1.2. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng tôn giáo mà triết học
Ấn Độ cổ đại thường là một bộ phận lý luận quan trọng tạo nên nội dung giáo
lý của các tôn giáo lớn. Tuy nhiên tôn giáo Ấn Độ không có xu hướng hướng
ngoại để tìm kiếm sức mạnh nơi thượng đế mà có xu hướng hướng nội đi sâu
tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần để phát hiện sức mạnh của cá nhân con
người. Vì vậy triết học Ấn Độ cổ trung đại mang đậm tính chất duy tâm chủ
quan và thần bí.
1.1.3. Triết học Ấn Độ đặt ra nhiều vấn đề song nó rất quan tâm đến việc
giải quyết những vấn đề thuộc lĩnh vực nhân sinh nhằm tìm kiếm con đường
giải thoát chúng sinh ra khỏi thực tế khắc nghiệt của cuộc sống do chế độ
đẳng cấp tạo ra.
1.2. Đặc điểm của triết học Trung Quốc Cổ đại
Triết học Trung Quốc là một hệ thống đồ sộ bao quát nhiều vấn đề triết
học. Nhưng nó chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề do thực tiễn đạo đức
chính trị xã hội của thời đại đặt ra.
Triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc biệt là
vấn đề nguồn gốc, số phận, bản tính của con người.
Trung Quốc cổ đại chính là thời kỳ lịch sử từ thế kỷ thứ VIII đến thế
kỷ thứ II trước công nguyên (Tr.CN) mà theo cách phân lỳ lịch sử truyền
thống gọi là thời Xuân thu (770 – 481 Tr. CN) và thời Chiến Quốc (480 –
221 Tr. CN) cũng gọi là thời Chu mạt; về lịch sử văn hóa và tư tưởng cũng
còn được gọi là thời “Tiên Tần”. Từ giai Đường, Tống, Nguyên, Minh,
Thanh là giai đoạn lịch sử phong kiến Trung Hoa, cũng còn gọi là giai
đoạn trung đại của lịch sử tư tưởng Trung Hoa.
Trung Hoa cổ đại là thời kỳ tan rã suy tàn của một mô hình kinh tế xã hội cũ theo truyền thống thị tộc. Đó là mô hình kinh tế “Tỉnh điền” của

nhà Chu.
3


Sự tan rã này có nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Đó là việc sử dụng công cụ bằng sắt và dùng bò kéo xe. Điều này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc khai khẩn đất hoang và dẫn thủy nhập điền trong
công việc thủy lợi. Hàng loạt những nghề mới ra đời và phát triển nhanh
chóng như luyện kim, đúc, rèn kim loại, mộc, xây cất, thuộc da, gốm….sự
phát triển của các ngành nghề này không hoàn toàn phụ thuộc vào quyền sở
hữu ruộng đất của nhà nước . Nhưng sự phát triển tất yếu dẫn tới sự hình
thành sở hữu tư nhân. Đồng thời sự suy yếu của thế lực chính trị nhà Chu đã
khiến cho các thế lực địa phương thực hiện chiếm của công làm của tư . Điều
đó càng thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời của sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất ở thời kỳ cổ đại Trung Hoa. Lực lượng kinh tế tư hữu ra đời là một thế
lực đối chọi với chế độ sở hữu đất đai nhà Chu. Tương ứng với cơ sở kinh tế
mới đó là những lực lượng chính trị mới, đó là thế lực địa chủ ở các địa
phương. Xu hướng chính trị mới của các thế lực này là thâu tóm quyền lực,
tập trung uy quyền và mở rộng sự thống trị lật đổ triều đại nhà Chu. Hệ quả
xã hội của xu hương này thật tàn khốc, những cuộc nội chiến kéo dài diễn ra.
Thời Xuân thu có 438 cuộc chiến phát lẫn nhau giữa các thế lực chính trị, đó
là “Ngũ bá đồ vương”, sang thời Chiến Quốc có “ thất bá tranh hùng”. Những
cuộc chiến tranh như vậy đã làm đảo lộn các thiết chế nghi lễ truyền thống
nhà Chu, làm xã hội ở tình trạng loạn lạc phá hoại sức sản xuất ghê gớm.
Đương thời Khổng Tử đã tham rằng: Vua không ra đạo vua, bề tôi không làm
đúng đạo bề tôi, cha chẳng ra đạo cha, con chẳng làm đúng đạo làm con, còn
Mạnh Tử thì nhận xét: đánh nhau tranh thì giết người thây chất đầy thành,
đánh nhau giành đất thì giết người thây chất đầy đồng.
Chính trong sự biến động sôi động ấy của xã hội, hàng loạt vấn đề xã
hội về triết học đã được đặt ra buộc các nhà tư tưởng đương thời phải quan

tâm, một loạt các trường phái triết học ra đời, mỗi trường phái đưa ra một kế
sách quản lý xã hội, tạo nên một không khí sôi động trong đời sống tinh thần
của xã hội Trung Hoa. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “ Bách gia chư tử”.
4


Chính trong hoàn cảnh xã hội đó đã nảy sinh những nhà tư tưởng lớn, hình
thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh. Triết học Trung Quốc về
cơ bản có những đặc điểm sau:
1.2.1. Đây là nền triết học đặc biệt quan tâm đến các vấn đề chính trị,
đạo đức. Bởi đây là thời kỳ đảo lộn của xã hội lúc bầy giờ nên triết học đã đặc
biệt quan tâm, suy tư, tìm cách lý giải và tìm ra những triết lý và biện pháp
nhằm khắc phục hiện tượng xã hội biến động trong lịch sử chính trị cai trị của
các triều đại.. Từ đó làm xuất hiện nhiều học thuyết chính trị tư tưởng, đạo
đức khác nhau như nho gia, Mặc gia, Pháp gia. Ngay cả những học thuyết mà
theo tôn chỉ mục đích của nó là xa rời chính trị nhưng thực tế vẫn bàn về
chính trị và đạo đức như phái đạo gia của Lão tử và Trang Tử thời cổ đại. Học
thuyết Âm dương – Ngũ hành vốn là học thuyết của của chủ trương luận và
những vấn đề nguyên lý biến đổi của trời đất, vạn vật cũng được vận dụng để
lý giải những vẫn đề chính trị, đạo đức của xã hội, con người.
Mặc dù phong phú, đa dạng nhưng nhìn chung các học thuyết triết học
tập trung vào các vấn đề: làm thế nào để thống nhất đất nước; làm thế nào để
ổn định xã hội và các chuẩn mực đạo đức mà con người phải tuân thủ. Tùy
theo lập trường chính trị khác nhau mà có cách giải đáp khác nhau về một vấn
đề chính trị đạo đức. Do đó nó tạo nên tính vừa phong phú và vừa sâu sắc của
triết học Trung Hoa cổ đại. Chẳng hạn đó là vấn đề triết lý về bản tính con
người, Khổng Tử và Mạnh Tử theo xu hướng khẳng định bản tính thiện của
con người. Ngược lại Tuân Tử và Hàn Phi Tử lại chủ trương biện luận về bản
tính bất thiện của con người, còn Lão Tử và Trang Tử lại đưa ra luận thuyết
về bản tính người như thế là điểm xuất phát cho tư duy triết lý về những

phương cách coi trọng giáo dục hay pháp trị trong đạo trị nước của các học
thuyết khác nhau.
Triết học Trung Hoa lấy triết học nhân sinh làm hạt nhân. Một loạt triết
học về con người được đề cập sâu sắc.

5


Quan niệm về bản chất con người, đường đời, số phận, quan hệ chính
trị, rường mối, chuẩn mực đạo đức, đạo làm người. Để lại nhiều triết lý về
đạo làm người nhưng có hạn chế trong việc vượt ra thế giới để chinh phục.
Điều này cắt nghĩa cho khoa học kỹ thuật của Trung Quốc không phát triển.
Để lại triết lý về học: Nhân nghĩa – trí – học; tu thân- tề gia – trị quốc, học để
làm quân tử, nhưng người quân tử không biết sản xuất.
1.2.2. Triết học Trung Hoa không có sự phân biệt rạch ròi giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, không có đấu tranh biện chứng giữa các
thuyết triết học. Điều này tạo nên đặc điểm tính thiếu triệt để, tính thiếu nhất
quán. Chẳng hạn, trong phái Nho gia, thế giới quan của Khổng Tử dao động
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa chủ nghĩa vô thần và chủ
nghĩa hữu thần. Một mặt ông xem trời là giới tự nhiên, có sự vận hành của tự
nhiên, ông nói “Trời nói lên tất cả”, bốn mùa vận hành, trăm vật sinh ra.
Nhưng mặt khác ông lại cho rằng trời một lực lượng vô hình chi phối vận
mệnh của xã hội và con người, “sống chết có mệnh, giàu sang tại trời”. Ông
chủ trương thờ phụng quỷ thần, kính trọng quỷ thần, nhưng lại xa lánh quỷ
thần, “quỷ thần thì đáng kính nhưng chớ có gần”.
1.2.3. Trong quá trình phát triển của mình, các trường phái triết học
Trung Hoa không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những tư
tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh
hưởng ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong kinh dịch.
II. Những đặc điểm của triết học phương Tây cổ đại

2.1. Những đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Triết học Hy lạp cổ đại diễn ra trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến
lâu dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp
đầu tiên trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ.

6


Hy lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần
đất liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và
Tiểu Á.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh
chóng phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị
văn hóa. Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con
người có dịp bay bổng, đẻ thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là
chiếc nôi của nền văn minh Châu Âu và của cả nhân loại. Đúng như Ph.
Ănghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp,
không có nghệ thuật và khoa học Hy lạp, không có chế độ nô lệ thì không có
đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy lạp và đế quốc La
Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp không diễn ra một
cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh túy
của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm
mống của tri thức khoa học.
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca thần thoại. Thần thoại không chỉ là
nơi để con người tưởng tượng diễn giải các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí, mà
còn là nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn
mặt của đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đầu tiên để tư duy triết học

ra đời và từng bước triết học tách ra khỏi thần thoại, tự mình để tư duy về tự
nhiên, đại đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường,
lịch pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước
phương Đông và nhiều vùng đất khác.
Như vậy có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một
tất yếu, đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. Các Mác viết:
“Các nhà triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm
7


của thời đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất
và khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ: Triết học thời kỳ tiền
Xôcrat (thời kỳ sơ khai), Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh), Triết
học thời kỳ Hy Lạp hóa.
2.1.2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại và
là một trong những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới. Nền triết học
này có những đặc điểm sau:
2.1.2.1. Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và
phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị . Nó là công cụ lý luận để giai
cấp này duy trì trật xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình.
2.1.2.2. Trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ
ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật - duy tâm, siêu hình – biện chứng,
vô thần – hữu thần. trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật
Đêmôcrit và trào lưu duy tâm của Platôn, trường phái siêu hình của Páclêmít
và trường phái biện chứng của Hêraclit.
2.1.2.3. Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên
để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức

tranh về thế giới như một hình ảnh chính thể thống nhất mọi sự vật, hiện
tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư duy lý luận còn thấp nên khoa học tự
nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự
vật mà nó mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng tể để dựng nên bức tranh tổng
quát về thế giới. Vì vậy các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự
nhiên, họ quan sát, tổng hợp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận
triết học .
2.1.2.4. Triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất
phác. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng nâng cao
nghệ thuật hùng biện để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân
8


lý. Họ đã phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng chưa trình bày
chúng như một hệ thống lý luận chặt chẽ.
2.1.2.5. Triết học Hy Lạp đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con
người. Cố lý giải vấn đề khác nhau về quan hệ giữa tinh thần và thể xác, về
đời sống chính trị đạo đức của họ. Dù có nhiều bất đồng song nhìn chung các
triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.

9


CHƯƠNG II SỰ GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU CỦA TRIẾT
HỌC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI VÀ PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI
1. Giống nhau
Cả triết học phương Đông và phương Tây đều là những tư tưởng nội
dung thể hiện quan niệm của con người về tự nhiên, xã hội và con người.
Cả triết học phương Đông và phương Tây đều được hình thành và phát
triển trên những điều kiện lịch sử tương ứng.

Cả triết học phương Đông và phương Tây đều đề cập đến các lĩnh vực
căn bản của triết học như đều có những quan niệm về thế giới, con người,
chính trị, xã hội.
2. Khác nhau
Thứ nhất, đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong
mối quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một
nguyên tắc thiên nhân hợp nhất . Cụ thể là: Triết học Trung Quốc là nền triết
học có truyền thống lịch sử lâu đời nhất, hình thành cuối thiên niên kỷ II đầu
thiên niên kỷ I Tr. CN. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát
triển của những quan điểm của nhân dân Trung Hoa về tự nhiên, xã hội và
quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ
trụ trong hệ thống lớn trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy
con người chứa đứng tất cả những tính chất, những huyền bí của vũ trụ bao la.
Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các khuynh hướng duy tâm của Mạnh
Tử thì cho rằng vũ trụ vạn vật đều tồn tại tron ý thức chủ quan và trong ý
niệm đạo đức trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm vạn vật đều có
đầy đủ trong ta, ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn
nữa. Ông dạy mọi người không phải đi tìm chân lý ngoài thế giới khách quan
mà chỉ càn suy xét ở trong tâm ‘tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy, theo
ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên ổn, không
có gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: Vũ trụ ở trong lòng ta,
10


lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ, kinh dịch thì biết đến
cùng cá tính của con người thì cũng có thể biết đến cá tính của vạn vật, trời
đất, trời có chín phương, con người có chín khiếu. Ở phương Đông khuynh
hướng duy vật chưa rõ ràng, đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là
kết quả của quá trình khái quát những kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân
dân Trung Hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết

Âm dương, tuy nhiên nó còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và
có quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học
này đã bộc lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của
mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hóa của sự vật hiện
tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Ở Ấn Độ, tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên
niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I Tr. CN, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại,
tôn giáo giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên,
có nguồn gốc từ những tôn giáo tối cổ của nhân loại. Ở Ấn Độ nguyên tắc
thiên nhiên hợp nhất lại có màu sắc riêng như: Xu hướng chính của
Upanishad là nhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm tôn giáo trong kinh Vêda
về cái gọi là tinh thần sáng tạo tối cao, sáng tạo và chi phối thế giới này. Để
trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao nhất là căn nguyên của tất cả mà khi nhận
thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát
được linh hồn khỏi sự lo âu khổ não của đời sống trần tục và ràng buộc của
thế giới này là tinh thần vũ trụ tối cao Brahman, là thực thể duy nhất, có trước
nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới này đều nảy sinh ra
và nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại, Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng
sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ xung quanh cái tồn tại thực
sự, là khách thể. Còn Átman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là cái có thể
mô hình hóa, là chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con
người mà thôi. Linh hồn con người chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của
tinh thần tối cao. Vì Átman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể xác con người ở
11


đời sống trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là
cái khác với linh hồn vũ trụ, khác với ngồn sống không có sinh, không có diệt
vong của vũ trụ. Vậy nên kinh Vêda nối con người với vũ trụ bằng cầu khẩn,
cúng tế, bắt chước hòa điệu của vũ trụ bằng lễ nghi, hành lễ hình thức ở bên

ngoài. Còn kinh Upanishad quay vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất
cá nhân với vũ trụ bằng tri thức thuần túy kinh nghiệm. Đối với phương Tây
lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, chúa tể
để nghiên cứu chinh phục vũ trụ - thế giới khách quan. Và cũng chính từ thế
giới khách quan nên dẫn đến hướng nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau: Từ
thế giới quan triết học thiên nhân hợp nhất là cơ sở quyết định nhiều đặc điểm
khác nhau của triết học phương Đông như lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu chủ yếu, tính chất hướng nội, hầu như nghiên cứu thế giới cũng là
để làm rõ con người và vấn đề bản thể luận trong triết học phương Đông bị
mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết học phương Tây lại đặt trọng tâm nghiên cứu
vào thế giới, tính chất hướng ngoại, còn vấn đề con người chỉ được nghiên
cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên phương Tây bàn đậm nét về bản
thể luận của vũ trụ. Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người, phương
Đông cũng quan niệm khác phương Tây. Ở phương Đông, người ta đặt trọng
tâm nghiên cứu mối quan hệ con người với người và đời sống tâm linh, ít
quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện
hay ác theo lập trường của giai cấp thống trị cho nên nghiên cứu con người
không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị con người, không thấy
quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất. Ở phương Tây họ lại ít
quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao cái tự nhiên, mặt sinh vật
trong con người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức, không chú ý
đến nguyên nhân kinh tế xã hội, cái gốc để giải phóng con người.
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới
dạng thuần túy, mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác, cái
nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có
12


những triết gia với những tác phẩm độc lập. Và có những thời kỳ người ta đã
lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung hoa đan xen

với chính trị lý luận, còn triết học Ấn Độ lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật.
Nói chung ở phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đắng sau các khoa học.
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một môn khoa học độc lập
với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết
học và thời kỳ trung cổ là điển hình, khoa học muốn tồn tại phải khoác áo tôn
giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ 3, lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về
chất có tính vạch ra ở các thời điểm mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen
kẽ. Ở Ấn Độ cũng như Trung Quốc, các trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ
nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ thứ VIII-V Tr.CN đến thế kỷ
XIX). Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay
đi sâu vào từng chi tiết như: Nho tiền Tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở
nhân – lễ - chính danh, nhưng có cải biên về quan điểm hay một hệ thống nào
đó để hoàn thiện và phát triển nó hơn là vạch ra những sai lầm và không đặt
ra mục đích tạo ra thứ triết học mới. Do vậy nó không mâu thuẫn với các học
thuyết đã được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và
dẫn đến cuộc đấu tranh trong các trường phải không gay gắt và cũng không
triệt để. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến quá kéo dài và bảo
thủ, kết cấu kinh tế giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên nhau. Ngược
lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên
cạnh các trường phải cũ lại có những trường phái mới được ra đời có tính chất
vạch thời đại như thời cổ đại bên cạnh trường phái cú lại có những trường
phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại như thời cổ đại bên cạnh trường
phái Talet, Hêraclit...đến Đêmocrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh,
Hà lan, triết học cổ điển Đức và hơn nữa cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn.

13



Thứ tư, sự phân chia trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng,
siêu hình không rõ nét. Sự phân chia xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội
dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu
kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu tinh nhất quán,
thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông
cũng không mạch lạc như phương Tây. Ngược lại triết học phương Tây thì sự
phân chia các trường phái rõ nét hơn và các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ
ràng như duy vật chất phác, thô sơ đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện
chứng.
Thứ năm, hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cũng khác so
với triết học phương Tây ở 3 mảng:
Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”,
“vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo, sắc, hình,
vạn pháp hay ngũ hành: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ....Để nói về bản chất của vũ
trụ, đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ thì phương
Tây dùng phạm trù khách thể - chủ thể, con người với tự nhiên, vật chất với ý
thức, tồn tại với tư duy. Còn phương Đông lại dùng tâm - vật, năng - sở, lí –
khí, hình – thần. Trong đó hình thần là những phạm trù xuất hiện sớm và
dùng nhiều nhất.
Nói về tính chất, sự biến đổi của thế giới: Phương Tây dùng thuật ngữ
;biện chứng”, siêu hình, thuộc tính vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu
tranh cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh,
biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, cái tĩnh làm
gốc là vì phương Đông được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải
mang tính nhịp điệu.
Khi diễn đạt về mối liên hệ các sự vật hiện tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ”, “quy luật”. Còn phương
Đông dùng thuật ngữ “đạo”, “lý”, “mệnh”, “thần”, cũng xuất phát từ thế giới
quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy luật,
14



tính xoắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi...Có nhịp điệu là hài hòa
âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ của các xoắn ốc.
Thứ sáu, tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều
nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng
hơn về giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề có
liên quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên
dẫn đến hai phương pháp tư duy khác nhau. Phương Tây đi từ cụ thể đến khái
quát cho nên là tư duy tất định – tư duy vật lý chính xác, nhưng lại không gói
được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể
bằng các ẩn dụ triết học với những câu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính
xác nhưng lại hiểu cách nào cũng được.

15


KẾT LUẬN
Triết học là một hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản
nguyên thủy được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Nhưng triết học đầu
tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII đến VI Tr. CN ở Ấn Độ cổ
đại, Trung Quốc cổ đại, Hy Lạp cổ và La Mã cổ đại và ở các nước khác. Theo
quan điểm của Mác xit, triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết
về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con
người với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Như vậy triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh
của tồn tại xã hội và đặc biệt là sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn
với phương Tây cả về điều kiện tự nhiên, địa lý dân số mà hơn cả là phương
thức sản xuất của phương Đông là phương thức sản xuất nhỏ còn phương Tây
là phương thức sản xuất của tư bản do vậy mà cái phản ánh ý thức cũng khác:

văn hóa phương Đông mang đậm tính chất cộng đồng còn văn hóa phương
Tây mang tính cá thể. Chính vì vậy mà nền triết học của phương Đông cổ đại
và phương Tây cổ đại bên cạnh những điểm tương đồng lại có rất nhiều khác
biệt.
Trong khuôn khổ một bài tiểu luận thì việc nghiên cứu sự giống và khác
nhau của hai nền triết học này chưa thực sự sâu sắc. Vì vậy, em rất mong
được sự tham gia góp ý của các thầy cô để bài tiểu luận của mình được hoàn
chỉnh hơn.

16


MỤC LỤC

17



tiểu luận triết học sự khác biệt giữa triết học phương đông và phương tây

Bạn đang xem: tiểu luận triết học sự khác biệt giữa triết học phương đông và phương tây Tại Tác Giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.8 KB, 20 trang )

Đang xem: Tiểu luận triết học sự khác biệt giữa triết học phương đông và phương tây

MỞ ĐẦU
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại
nói chung và tư tưởng triết học nói riêng, triết học Phương Đông và triết học
Phương Tây có nhiều nội dung phong phú, đa dạng. Những giá trị của nó đã
để lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử loài người. Triết
học Phương Đông và triết học Phương Tây không thể thoát ly những vấn đề
chung của lịch sử triết học. Mặc dù vậy, giữa triết học Phương Đông và triết
học Phương Tây vẫn có những đặc điểm đặc thù của nó. Nghiên cứu về triết
học Phương Đông và triết học Phương Tây, đặc biệt là so sánh sự khác nhau
của nó là một vấn đề phức tạp, nhưng cũng rất lý thú, vì qua đó ta có thể
hiểu biết sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn hoá của nhân loại. Mặt
khác, bản sắc văn hoá Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi nền triết học
Phương Đông, do đó nghiên cứu những đặc điểm của triết học Phương Đông
trong mối quan hệ với đặc điểm của triết học Phương Tây, đặc biệt là những
tư tưởng nhân văn trong thời khai sáng sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc
hơn bản sắc văn hoá Việt Nam. Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề “Sự giống nhau
và khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây” làm đề
tài nghiên cứu trong bài tiểu luận của mình
PHẦN NỘI DUNG
1. Những đặc điểm của lịch sử triết học phương Đông
1.1. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Ấn Độ
So với các nền triết học khác, triết học Ấn Độ là một trong những trào
lưu triết học ra đời và phát triển rất sớm. Nó được hình thành từ cuối thiên
niên kỷ thứ hai, đầu thiên niên kỷ thứ nhất, trước công nguyên và vận động
phát triển trong lịch sử. Với thời gian hàng ngàn năm, nền triết học Ấn Độ
đã tạo nên một vóc dáng đồ sộ, chứa đựng những tư tưởng quý báu của nhân
loại. Tính đồ sộ của nó không chỉ ở qui mô, số lượng các tác phẩm, ở sự đa
dạng của các trường phái mà còn ở sự phong phú trong cách thể hiện và đặc
biệt là sự sâu rộng về nội dung phản ánh. Tính đồ sộ của triết học Ấn Độ thể
hiện ở sự đa dạng các trường phái triết học. Chỉ riêng 9 trường phái triết học
tiêu biểu ở thời kỳ cổ đại và sự phân hoá của nó trong lịch sử triết học cũng

đã nói lên qui mô và sự phức tạp của nó. Tính đồ sộ của nó còn thể hiện ở sự
phong phú về nội dung thể hiện. Có thể nói các trường phái triết học đều đề
cập đến hầu hết các vấn đề lớn của triết học như: bản thể luận, nhận thức
luận, phép biện chứng và đặc biệt là vấn đề con người với đời sống tâm linh
và con đường giải thoát của nó…
Trong quá trình giải quyết những nội dung phong phú đó, đa số các
trường phái triết học Ấn Độ đều dựa vào tri thức đã có trong kinh Veđa, lấy
các tư tưởng của kinh Veđa làm điểm xuất phát, các luận điểm triết học về
sau thường dựa vào các luận thuyết ở triết học đã có trước. Vì vậy, các nhà
triết học sau thường không đặt ra mục đích tạo ra một triết học mới, mà bổn
phận của họ là chỉ để bảo vệ, lý giải cho hoàn thiện thêm các quan niệm ban
đầu, còn việc tìm ra những sai lầm thường bị coi nhẹ thậm chí không được
đặt ra.
Triết học Ấn Độ đặc biệt chú ý tới vấn đề con người. Hầu hết các
trường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề “nhân sinh” và tìm con
đường “giải thoát” con người khỏi nỗi khổ trầm luân trong đời sống trần tục.
Tuy nhiên, do sự hạn chế về nhận thức, do sự chi phối của lập trường giai
cấp, và của những tư tưởng tôn giáo nên hầu hết các học thuyết triết học Ấn
Độ lại đi tìm nguyên nhân của sự khổ đau của con người không phải từ đời
sống kinh tế – xã hội mà ở trong ý thức, trong sự “vô minh”, sự “ham muốn”
của con người. Vì vậy “con đường giải thoát con người” đều mang sắc thái
duy tâm và yếm thế.
Trong quá trình vận động và phát triển, các hệ thống triết học Ấn Độ
không thoát ra khỏi sự chi phối của những tín điều tôn giáo, do đó nó có sự
đan xen với những quan niệm của tôn giáo. Các quan niệm triết học kể cả
quan niệm duy vật đều bị ẩn sau các nghi lễ huyền bí của kinh Veđa, các
quan niệm về hiện thực pha trộn các quan niệm huyền thoại, cái trần tục trực
quan xen lẫn cái ảo tưởng xa xôi, cái bi kịch của cuộc đời đan xen cái thần
tiên của cõi Niết Bàn.
Cùng với sự đan xen của các tín điều tôn giáo, trong phạm vi của triết

học, các quan niệm duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình trong triết
học Ấn Độ không được thực hiện một cách rạch ròi, tách bạch nhau mà
chúng thường đan xen vào nhau, xen kẽ lẫn nhau trong quá trình vận động
và phát triển. Chính vì thế, triết học Ấn Độ đã tạo nên vẻ đẹp thâm trầm,
huyền bí, uyển chuyển của triết học Phương Đông. Nhìn chung, lịch sử triết
học Ấn Độ là nền triết học lớn ở Phương Đông. Nó đã để lại nhiều tư tưởng
quý báu cho nhân loại.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Trung Quốc
Lịch sử triết học Trung Quốc thấm đượm tinh thần nhân văn, trong đó
Nho gia là một học thuyết tiêu biểu, đã coi con người là chủ thể của đối
tượng nghiên cứu, đã tách con người khỏi động vật và thần linh, và cho
rằng: “con người có khí, có sinh, có trí thì cũng có nghĩa, bởi vậy là vật quý
nhất trong thiên hạ) (Tuân Tử-Vương Chế). Nho gia thừa nhận vũ trụ là trời
– đất- người cùng một thể, người được xếp ngang hàng với trời – đất thành
một bộ “tam tài”. Như vây ngay từ buổi đầu, triết học Trung Quốc mà Nho
gia là tiêu biểu đã khẳng định rõ giá trị của con người, thể hiện tinh thần
nhân văn đậm nét và thấm nhuần tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”. Trên cơ sở
tư tưởng đó, những mệnh đề khác đã ra đời như: tâm, tính, tình, lý, khí,
lương tri, “thiên nhân cảm ứng”… nhưng suy cho cùng đều phục vụ cho giải
quyết vấn đề nhân sinh của con người và xã hội. Có thể nói trong tư tưởng
triết học Trung Quốc, Các loại liên quan đến con người như triết học nhân
sinh, triết học chính trị, triết học lịch sử đều phát triển còn triết học tự nhiên
có phần mờ nhạt.
Vấn đề trọng tâm của tinh thần nhân văn trong lịch sử triết học Trung
Quốc là vấn đề đạo đức xã hội và đạo đức con người. Họ luôn luôn tìm tòi,
xây dựng những nguyên lý, những chuẩn mực đạo đức để thích nghi trong
lịch sử và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhiều trường
phái tư tưởng đã đưa ra những nguyên tắc đạo đức cao nhất của mình và
chứng minh đó là hợp lý nhất: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho gia; Vô vi
của Đạo gia; Kiêm ái của Mặc gia; Công và Lợi của Pháp gia. Những

nguyên tắc đạo đức luôn gắn liền với tính đẳng cấp trong xã hội, coi nhẹ
thuộc tính tự nhiên của con người.
Triết học Trung Quốc thường đem luân thường đạo lý của con người
gán cho vạn vật trong trời đất, biến trời thành hoá thân của đạo đức rồi lấy
thiên đạo chứng minh cho nhân thế. Vũ trụ quan, nhân sinh quan, nhận thức
luận của nhà Nho đều thấm đượm ý thức đạo đức. Chuẩn mực đạo đức trở
thành đặc điểm nổi bật. Vì vậy, họ tranh luận xung quanh vấn đề thiện ác.
Họ liên hệ việc nhận thức thế giới khách quan với việc tu nhân, dưỡng tính
cá nhân. Thậm chí họ coi việc dưỡng tính cá nhân là cơ sở của việc nhận
thức thế giới khách quan, “người tận tâm thì biết được tính của mình, biết
được tính của mình thì biết được trời”. Vì vậy, trong mấy ngàn năm lịch sử,
các triết học đều theo đuổi cái vương quốc luân lý đạo đức, họ xem đạo đức
là cái “trời phú”. Bởi thế, họ xem việc thực hành đạo đức là hoạt động thực
tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã
hội. Có thể nói, đây là nguyên nhân triết học dẫn đến sự kém phát triển về
nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng ở Trung Quốc.
Mặt khác, triết học Trung Quốc đặc biệt chú ý đến sự hài hoà thống
nhất giữa các mặt đối lập. Các nhà triết học đều xem xét một cách biện
chứng sự vận động của vũ trụ, xã hội, nhân sinh, đều chú ý đến mặt đối lập
thống nhất của sự vật. Đa số họ đều nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa
các mặt đối lập, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải
quyết vấn đề. Đạo gia, nho gia, Phật giáo đều phản đối cái “thái quá”, “bất
cập”. Tính tổng hợp và tính quán xuyến của hàng loạt các phạm trù “Thiên
nhân hợp nhất”, “Tri hành hợp nhất”, “Thể dụng hợp nhất”, “Tâm vật dung
hợp”, “Cảnh và tình hợp nhất”… đã thể hiện sự hài hoà thống nhất của tư
tưởng triết học cổ đại Trung Quốc.
2. Những đặc điểm của lịch sử triết học Phương Tây
2.1. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại đã phản ánh cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, mà xét đến cùng là phản ánh

cuộc đấu tranh giữa phái chủ nô dân chủ tiến bộ xét trong điều kiện lịch sử
thời kỳ đó với phái chủ nô thượng lưu phản động.
Triết học Hy Lạp cổ đại cũng phản ánh cuộc đấu tranh của khoa học
chống thần học và tôn giáo. Các nhà khoa học đồng thời cũng là những
người vô thần. Họ đưa ra và bảo vệ những quan điểm về khoa học tự nhiên,
trong đó có học thuyết nguyên tử. Tuy chưa vạch ra hết nguồn gốc của thần
học và tôn giáo, nhưng những tư tưởng của họ đã góp phần to lớn vào cuộc
đấu tranh chống tư tưởng hữu thần của các nhà triết học duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật của Hy Lạp cổ đại mang tính mộc mạc và tự phát.
Đó là kết quả của khoa học tự nhiên còn ở thời kỳ nguyên thuỷ, mới phát
sinh và bắt đầu phát triển. Các tri thức khoa học do các nhà triết học duy vật
nêu ra hầu như chỉ là sự phỏng đoán về thế giới xung quanh, chưa có cơ sở
khoa học vững chắc, song đó là những phỏng đoán thiên tài. Rất nhiều
phỏng đoán của họ sau này đã được khoa học thừa nhận và mở ra cho các
nhà khoa học những con đường để đi đến chân lý và phát triển các khoa học.
Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thường dựa vào các sự vật, hiện
tượng cụ thể như nước, không khí, lửa để nêu lên bản nguyên của thế giới.
Tuy có nhà triết học đã đưa ra quan niệm trừu tượng hơn, song cũng chưa
thoát khỏi tính trực quan trong việc xác định bản nguyên của thế giới như
Đêmocrit chẳng hạn.
Một trong những đặc điểm cơ bản khác của triết học Hy Lạp cổ đại là
tính chất biện chứng sơ khai tự phát. Những nhà triết học Hy Lạp đầu tiên
của Hy Lạp cổ đại là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh và Aritxtôt-bộ
óc bách khoa nhất của các nhà triết học ấy cũng đã nghiên cứu những hình
thức căn bản nhất của tư duy biện chứng.
Xét về mặt lịch sử, tính biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại là một
thành tựu vĩ đại. Song nó vẫn là biện chứng “ngây thơ”. Ăngghen đã nhận
xét: “Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét thế giới tự nhiên, lịch sử loài
người, hay dùng hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta, thì trước nhất,
chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ

và những sự tác động qua lại, trong đó không có cái gì đứng nguyên, không
thay đổi, mà tất cả đều vận động, biến hoá, phát sinh và mất đi. Cái thế giới
quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan
của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêracrit trình
bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và cũng không tồn tại, vì mọi vật
đang trôi qua, mọi vật đều không ngừng biến hoá, mọi vật đều không ngừng
phát sinh và tiêu vong”. Nhưng cách nhìn ấy, dù cho nó có đúng đến thế nào
chăng nữa, tính chất chung của toàn bộ bức tranh về hiện tượng, vẫn không
đủ để giải thích những chi tiết hợp thành bức tranh toàn bộ và chừng nào
chúng ta chưa giải thích được các chi tiết ấy thì chúng ta chưa thể hiểu rõ
được bức tranh toàn bộ. Đó là hạn chế và sự thiếu sót lớn của triết học Hy
Lạp cổ đại.
2.2. Một số đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời trung cổ
Lịch sử phát triển của xã hội Tây Âu thời trung cổ là sự tiếp nối của sự
phát triển lịch sử xã hội loài người từ thời kỳ cổ đại. Tuy nhiên đây là cả giai
đoạn mà cả xã hội thống trị bởi hệ tư tưởng tôn giáo. Trong điều kiện đó,
chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thống. Cả xã hội chìm đắm và bị
ngưng trị bởi tư tưởng duy tâm, tôn giáo, thần học, và chủ nghĩa ngu dân. Vì
vậy, triết học phục tùng thần học, phương pháp suy luận hình thức, viển
vông. Tôn giáo áp đặt sự thống trị của mình lên triết học, tư tưởng khoa học
và tự do. Chủ nghĩa kinh viện không chấp nhận cái mới và sự tiến bộ.
Thời kỳ này đã diễn ra hai cuộc đấu tranh giữa hai phái triết học là phái
duy danh và phái duy thực, phản ánh cuộc đấu tranh không khoan nhượng
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Học thuyết duy danh gắn liền
với khuynh hướng duy vật trong việc thừa nhận sự vật có trước, khái niệm
có sau. Học thuyết duy thực xem cái chung là tồn tại độc lập, có trước, sinh
ra cái riêng và không phụ thuộc vào cái riêng. Trong cuộc đấu tranh dai dẳng
đó, các trào lưu triết học của phái duy danh đã đem đến một luồng sinh khí
mới. Đó là sự nhận thức thế giới thông qua kinh nghiệm, thực nghiệm, là sự
giải phóng và sự đề cao của thần học và sự tối tăm, trì trệ. Đây là mầm mống

chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và sự phát triển mới của triết
học và khoa học trong thời kỳ Phục hưng.
Một nội dung mà triết học Tây Âu thời trung cổ đề cập là vấn đề con
người. Xuất phát từ thế giới quan duy tâm, thần bí, họ xem con người là sản
phẩm của Thượng đế sang tạo ra. Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may
rủi của con người đều do Thượng đế xếp đặt. Trí tuệ con người thấp hơn trí
tuệ anh minh sáng suốt của Thượng đế. Do đó, triết học cũng hoàn toàn bất
lực trong việc cứu thoát con người. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc
sống, nhưng đành bằng lòng với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh
phúc vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Con người bị thủ tiêu ý chí đấu tranh để tự
giải thoát mình. Khi phương thức tư bản chủ nghĩa ra đời, khoa học và triết
học đã xác lập vị thế lịch sử tiên tiến của nó, thì con người mới có thể thoát
khỏi sự kìm hãm của triết học kinh viện và thế giới quan thần học trung cổ.
Mặc dù quá trình phát triển của triết học Tây Âu thời trung cổ rất phức
tạp, đầy mâu thuẫn, nhưng nó vẫn tuân theo quy luật phát triển kế thừa liên
tục của lịch sử và của các hình thái ý thức xã hội. Nó chuẩn bị những hạt
nhân hợp lý cho sự phục hồi chủ nghĩa duy vật cổ đại và phát triển với
những thành tựu rực rỡ trong thời kỳ Phục hưng.
2.3. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng
Triết học thời kỳ này là thế giới quan của triết học giai cấp tư sản đang
ở trong quá trình hình thành, phát triển. Sau “đêm trường trung cổ”, dưới sự
thống trị của thần học và triết học kinh viện, thời kỳ này chủ nghĩa duy vật
được khôi phục và phát triển. Sự khôi phục và phát triển đó lại gắn liền với
cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại thần học và triết học kinh viện.
Do tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với
chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, hơn nữa do ảnh hưởng rất lớn của thần học lúc
bấy giờ nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chưa triệt để, nó vẫn mang tính
hình thức phiếm luận. Tuy nhiên trong đó, tư tưởng duy vật vẫn giữ vai trò
chi phối.
Triết học thời kỳ này đặc biệt đề cao vai trò con người, quan tâm đến

việc giải phóng con người, mang lại quyền tự do cho con người.
Thời kỳ này triết học có bước phát triển mới, dựa trên cơ sở các thành
tựu khoa học tự nhiên. Tuy nhiên giữa triết học và khoa học tự nhiên vẫn
thống nhất chặt chẽ với nhau, chưa có sự phân chia rạch ròi. Trên cơ sở
những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, các nhà khoa học tự nhiên lại đi
đến những khái quát mới về mặt triết học. Các nhà khoa học tự nhiên đồng
thời là các nhà triết học.
Có thể nói triết học thời kỳ Phục hưng đã tạo ra một bước ngoặt trong
sự phát triển của triết học sau “đêm trường trung cổ”. Nó tạo tiền đề cho triết
học tiếp tục phát triển vào thời cận đại.
2.4. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại
Triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là sự phát triển tiếp tục các tư tưởng
triết học thời kỳ Phục hưng trong giai đoạn mới – giai đoạn cách mạng tư sản
và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên.
Đây là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa tâm,
của khoa học đối với tôn giáo. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là thế giới
quan của giai cấp tư sản cách mạng; là vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản
trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội, xác lập xã hội tư bản.
Do yêu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thời
kỳ này khoa học tự nhiên diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc và phát triển
một cách mạnh mẽ. Nhờ những thành tựu khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy
vật có một bước phát triển mới, nó có cơ sở khoa học vững chắc và được
chứng minh về chi tiết.
Do yêu cầu phát triển của khoa học tự nhiên, triết học thời kỳ này đặc
biệt chú ý đến những vấn đề nhận thức luận, về phương pháp nhận thức.
Cuộc đấu tranh của phái duy cảm với duy lý; giữa phương pháp quy nạp với
phương pháp diễn dịch đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm
các phương pháp nhận thức khoa học và góp phần thúc đẩy khoa học phát
triển.
Tiếp tục phát triển tư tưởng nhân đạo thời kỳ Phục hưng, thời kỳ này

các nhà triết học càng đề cao vị trí con người, giương cao ngọn cờ đấu tranh
giải phóng con người khỏi sự thống trị của phong kiến và giáo hội, mang lại
quyền tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho con người. Đây chính là vấn đề
bức xúc của cuộc cách mạng tư sản đặt ra và nó có sức cổ vũ mãnh mẽ quần
chúng đứng lên làm cách mạng.
Mặc dù thời kỳ này là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối với
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nhưng hầu hết các nhà duy vật vẫn rơi vào
phiếm thần luận, chỉ có một số ít nhà duy vật đi đến chủ nghĩa vô thần. Điều
này không chỉ do ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo mà còn do giai cấp tư sản
vẫn cần đến tôn giáo cho nên có lập trường thiếu triệt để.
Do thói quen trong nghiên cứu khoa học chuyên môn, tách biệt khỏi
các mối liên hệ chung, hơn nữa do sự thống trị của cơ học Niutơn, nên trong
thời kỳ này phương pháp tư duy siêu hình, máy móc vẫn giữ vai trò chi phối.
2.5 Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức nghiên cứu lịch sử của nhân loại, cũng như toàn
bộ quan hệ con người – tự nhiên theo quan niệm biện chứng. Vì vậy, quan
niệm biện chứng về hiện thực là đặc điểm hết sức quan trọng của triết học cổ
điển Đức. Trước những bước phát triển như vũ bão của khoa học và thực
tiễn ở Châu Âu từ cuối thế kỷ XVIII, đã cho thấy hạn chế của bức tranh cơ
học về thế giới. Các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện
chứng trong di sản triết học từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trở
thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng
tự nhiên và xã hội. Hêghen đã phát hiện ra và phân tích một cách hệ thống
những quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng nó trở
thành một phương pháp luận, một cách tư duy, quan niệm về tất thảy mọi sự
vật trong thế giới hiện thực. Phương pháp tư duy biện chứng của các nhà
triết học cổ điển Đức về sau được C.Mác cải biến duy vật, phát triển tiếp, trở
thành thành linh hồn của chủ nghĩa Mác.
Với cách nhìn biện chứng về toàn bộ hiện thực, nhiều nhà triết học cổ
điển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ những tri thức và thành tựu mà nhân

loại đã đạt được từ trước tới lúc bấy giờ. Tiếp thu những tinh hoa của siêu
hình học thế kỷ 17 trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hoá tri
thức của con người, các nhà triết học, nhất là Kant và Hêghen có ý đồ xây
dựng một hệ thống triết học vạn năng của mình, làm nền tảng cho toàn bộ
các khoa học và mọi lĩnh vực hoạt động khác của con người, khôi phục lại
quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học. Vì vậy, họ là những
bách khoa toàn thư, uyên bác không chỉ về tri thức triết học mà còn am hiểu
về khoa học tự nhiên, lịch sử, pháp quyền, tôn giáo… Dĩ nhiên quan niệm
này hiện nay không còn phù hợp, nhưng về phương diện lịch sử, nó đáp ứng
nhu cầu khoa học cần hệ thống hoá toàn bộ tri thức con người mà các nhà
siêu hình học là những người khởi sướng.
3. So sánh đặc điểm của triết học Phương Đông và triết học
Phương Tây
3.1 Sự giống nhau
C.Mác đã viết: Để hiểu rõ tư tưởng của một thời đại nào đó thì chúng ta
phải hiểu được điều kiện sinh hoạt vật chất của thời đại đó. Bởi vì, theo
C.Mác, tồn tại xã hội luôn quyết định ý thức xã hội, do đó nó phản ánh tồn
tại xã hội – những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Chính vì thế, các
trào lưu triết học Phương Đông và Phương Tây đều được nảy sinh trên
những điều kiện kinh tế – xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Xét trong
mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, thì triết học là một
yếu tố của kiến trúc thượng tầng, do đó các học thuyết triết học Đông – Tây
đều chịu sự quyết định của cơ sở hạ tầng và đến lượt nó cũng có vai trò hết
sức to lớn đối với cơ sở hạ tầng.
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều được hình thành, phát triển
trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm, giữa phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng. Thực chất cuộc đấu tranh này là một phần cuộc
đấu tranh tư tưởng của những giai cấp đối kháng trong xã hội. Những quan
niệm duy vật thường gần gũi và gắn liền với những lực lượng tiến bộ trong
xã hội và ngược lại những quan niệm duy tâm thường gần gũi và gắn liền

với lực lượng lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.
Triết học Phương Đông và Phương Tây có thể sử dụng những khái
niệm, phạm trù khác nhau nhưng đều phải bàn đến vấn đề cơ bản của triết
học, đồng thời đều tuân theo những phương pháp chung trong nhận thức thế
giới: Phương pháp biện chứng hoặc Phương pháp siêu hình.
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều bàn đến vấn đề con người
ở những khía cạnh khác nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau và qua những
thời kỳ lịch sử khác nhau đều có cách đánh giá khác nhau về con người
Các học thuyết triết học ở Phương Đông hay Phương Tây đều có
khuynh hướng chung là xâm nhập lẫn nhau, vừa có sự kế thừa giữa các học
thuyết, hoặc trong sự phát triển của học thuyết đó, vừa có sự đào thải, lọc bỏ
những quan niệm lạc hậu, hoặc những quan niệm không phù hợp với nhãn
quan của giai cấp thống trị.
Mỗi học thuyết trong triết học ở Phương Đông hay Phương Tây cũng
vậy, đều có những mặt tích cực và hạn chế của nó nhưng đã góp phần tạo
nên những giá trị văn minh nhân loại.
3.2 Sự khác nhau
Triết học thuộc thượng tầng kiến trúc, bị chi phối bởi cơ sở hạ tầng, tồn
tại xã hội. Vậy những điều kiện sinh hoạt vật chất của Phương Đông và
Phương Tây có điểm gì khác nhau? C.Mác đã chỉ ra những điểm đặc trưng
của xã hội truyền thống Ấn Độ nói riêng và Phương Đông nói chung, đó là
xã hội nông nghiệp với chế độ công xã nông thôn – chế độ đem lại cho mỗi
đơn vị nhỏ bé một cuộc sống cô lập, biệt lập. Cái xã hội truyền thống đó
mang tính chất thụ động, quân bình, ít thay đổi, kéo dài từ những thời hết
sức xa xưa cho đến 10 năm đầu của thế kỷ XIX. C.Mác đã dùng các khái
niệm “bất động”, “tĩnh” để chỉ xã hội Phương Đông. Khi phân tích các xã
hội Daminđari và Raiatvari, ông cho rằng dù chúng có xấu xa như thế nào đi
chăng nữa, chúng cũng là hai hình thức tư hữu về ruộng đất, cái mà xã hội
Châu Á đang rất khát khao. Xét về điều kiện xã hội, ở Phương Tây có chế độ
nô lệ đại quy mô điển hình như ở Hy Lạp và La Mã. Với quá trình xuất hiện

nhà nước ở Hy – La đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển, từ đó chế độ
thị tộc, bộ lạc được thanh toán nhanh, quan hệ sản xuất mới ra đời. Ở
Phương Đông, chế độ nô lệ có manh nha từ Nhà Ân (thế kỷ XIV Tr.CN),
đến thời Tây Chu (1027-770 Tr.CN) nhà nước mang tính chất nô lệ ra đời. Ở
đây nhà nước nô lệ không mang tính chất điển hình. Đến thời kỳ Xuân Thu –
Chiến Quốc thật sự là một giai đoạn lịch sử mà các học giả cho rằng “xã hội
đại loạn”, “người ăn thịt người” nhưng đông thời lại là thời kỳ “bách gia
tranh minh” và nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên chỉ ra đời sau khi
Tần Thuỷ hoàng thống nhất nước Trung Quốc. Ở Ấn Độ cũng vậy, nhà nước
chiếm hữu nô lệ ra đời với sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt và nỗi thống
khổ của người dân trong xã hội chính là cội nguồn cho sự ra đời của các
trường phái triết học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích khá chính xác về Phương Đông khi
Người cho rằng: Ở đó về cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội Phương
Tây thời trung cổ cũng như thời cận đại và đấu tranh giai cấp ở đó không
quyết liệt như ở Phương Tây (Hồ Chí Minh toàn tập – T1. NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 1995, Tr.465). Như vậy, với những điều kiện kinh tế – xã
hội khác nhau, triết học Phương Đông và Phương Tây tất yếu phải có những
đặc điểm khác nhau.
Triết học Phương Tây thường đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể
luận đến nhân sinh quan, nhận thức luận, logic học để từ đó tạo nên một hệ
thống hoàn chỉnh, chặt chẽ thì triết học Phương Đông lại đi ngược lại nghĩa
là từ nhân sinh quan đến thế giới quan. Nếu như các nhà triết học Hy – La cổ
đại thường đi tìm những yếu tố đầu tiên tạo nên thế giới như nước, lửa,
không khí… thì ở Phương Đông hai nhà tư tưởng lớn tiêu biểu là Khổng Tử
và Đức Phật lại không làm như vậy. Đứng trước xã hội loạn lạc thời Xuân
Thu, Khổng Tử đã đưa ra học thuyết Nhân – đường lối đức trị nhằm ổn định
trật tự xã hội lúc bấy giờ. Bởi vậy có người coi học thuyết của Khổng Tử là
học thuyết mang tính chất chính trị, xã hội – đạo đức chứ không phải là học
thuyết triết học, bởi lẽ nó hầu như không có phần bản thể luận hay vũ trụ

quan. Đến Mạnh Tử thời Chiến Quốc thì tình hình này hầu như không có gì
thay đổi. Mãi đến thời Tống sau này, khiếm khuyết đó mới được bổ sung
bằng những yếu tố thế giới quan, vũ trụ quan của Phật và Lão.
Phật giáo cũng vậy, đầu tiên không phải đi vào xây dựng vũ trụ quan
hay bản thể luận mà đối với Phật giáo vấn đề cấp bách là cứu khổ của chúng
sinh. Bởi vậy, Phật giáo đưa ra phương pháp, biện pháp để cứu khổ, kêu gọi
chúng sinh hãy thấm nhuần và làm theo Tứ Diệu Đế. Có ý kiến cho rằng,
Phật giáo không bao giờ bàn đến những vấn đề siêu hình trừu tượng.
Như vậy, hai học thuyết cơ bản của Phương Đông là Nho giáo và Phật
giáo đều đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan, trái ngược với triết học
Phương Tây. Có thể nói, nếu triết học Phương Tây đi từ gốc đến ngọn thì
triết học Phương Đông hầu như đi từ ngọn đến gốc.
Nếu ở Phương Tây triết học thường gắn liền với những thành tựu khoa
học, đặc biệt là khoa học tự nhiên và nhà triết học thường là nhà khoa học,
nhà bác học thì ở Phương Đông triết học thường gắn liền với tôn giáo. Triết
học Ấn Độ và triết học Trung Quốc ngay từ đầu đã quyện lẫn với tôn giáo.
Triết học Ấn Độ biểu hiện rõ nét hơn triết học Trung Quốc. Xã hội Ấn Độ
ngay từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thần quyền đã ngự trị trên vương triều.
Tình trạng này kéo dài không dưới bốn nghìn năm. Nói chung 9 trường phái
của triết học Ấn Độ hoặc ít nhiều đều bắt nguồn từ Kinh Vêđa, một bộ kinh
tối cổ xuất hiện khoảng giữa thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên. Kinh
Vêđa cũng là kinh điển của đạo Bà la môn – Tôn giáo có mặt sớm nhất ở Ấn
Độ xa xưa. Như vậy, kinh Vêđa buổi đầu xuất hiện với tư cách là tôn giáo
chứ không phải tư cách triết học. Tính triết học rõ nét khi kinh Vêđa được bổ
sung thêm phần Upanisad sau này. Như vậy, triết học Ấn Độ thoát thai từ
tôn giáo và sống dựa vào tôn giáo chứ không đẩy lùi tôn giáo như Phương
Tây. Kinh dịch xuất hiện từ thời Ân – Chu ở Trung Quốc cũng với tư cách là
tôn giáo nhiều hơn là triết học. Như vậy, triết học từ Dịch truyện cũng dựa
vào tôn giáo để tồn tại. Thời Hán, Đổng Trọng Thư đã giải quyết khôn khéo
mối quan hệ giữa tôn giáo – triết học – chính trị – đạo đức. Ông đã làm động

tác thống nhất giữa chính trị và đạo đức để rồi tôn giáo cả chính trị lẫn đạo
đức.
Mục đích của triết học Phương Tây là giải thích và cải tạo thế giới.
Điều này đã được C.Mác chỉ rõ: Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế
giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới. Còn mục
đích của triết học Phương Đông lại nhằm xây dựng một xã hội có trật tự kỷ
cương và hòa mục, nhân ái (Nho giáo); giải thoát cho con người (Phật giáo)
và làm cho con người hoà đồng với thiên nhiên (Đạo gia).
Về đối tượng giữa triết học Phương Tây và triết học Phương Đông có
điểm gì khác nhau? Đối tượng của triết học Phương Tây rất rộng, bao gồm
toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy nhưng nó lấy tự nhiên làm gốc, làm cơ sở.
Vì đối tượng nghiên cứu rộng như vậy nên phạm vi tri thức của nó cũng rất
rộng, bao gồm mọi lĩnh vực. Triết học Phương Tây lấy tự nhiên làm gốc nên
nó hơi ngả sang hướng ngoại, lấy bên ngoài giải thích bên trong. Điều đó
quy định tính chất của triết học Phương Tây là hơi ngả về duy vật. Khuynh
hướng trội này còn được chứng minh bởi nó đi từ thế giới quan đến nhân
sinh quan, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc. Điều đó đã được
chứng minh: trong 7 trường phái triết học thời Hy Lạp – La Mã cổ đại thì có
đến 5 trường phái là duy vật, chỉ có 2 trường phái là duy tâm (Platon,
Pithagore).
Trong khi đó, đối tượng của triết học Phương Đông lại là xã hội, cá
nhân con người, là cái tâm và cái nhìn chung nó lấy con người làm gốc.
Chính vì thế, vấn đề cơ bản của triết học, được triết học Phương Đông bàn
đến là vấn đề: Thiên – Địa – Nhân (trời đất và con người). Điều đó quy định
tri thức của triết học Phương Đông chủ yếu là về xã hội, chính trị, đạo đức,
tâm linh. Nếu triết học Phương Tây hơi nghiêng về hướng ngoại thì triết học
Phương Đông hơi nghiêng về hướng nội. Nếu triết học Phương Tây lấy
ngoài giải thích trong thì triết học Phương Đông lại lấy trong giải thích
ngoài. Nếu triết học Phương Tây hơi ngả về Duy vật thì triết học Phương
Đông hơi ngả về Duy tâm. Trong triết học Ấn Độ cổ đại có 9 trường phái thì

đến 8 trường phái duy tâm, chỉ còn lại một trường phái duy vật là Lokayata,
điều này được lý giải bởi triết học Ấn Độ đi từ nhân sinh quan đến thế giới
quan.
Triết học Phương Đông từ thời xa xưa đã thiên về đạo đức. Học thuyết
Nhân của Khổng Tử đã ngự trị suốt mấy nghìn năm trong lịch sử Trung Hoa
là học thuyết đạo đức – chính trị. Phàn Trì hỏi thầy về chữ Nhân, Khổng Tử
trả lời: Yêu người. Tiếp đó Phàn Trì lại hỏi về trí tuệ, Khổng Tử trả lời: hiểu
về con người. Như vậy, nội dung học thuyết của Khổng Tử là học thuyết về
đạo đức nhân văn. Phật giáo ở Ấn Độ cũng vậy, luôn khuyên con người phải
khuyến thiện, làm phước, lời nói phải ngay thẳng, chân chính… Mặc dù,
Pháp gia ở Trung Quốc lại chú trọng đến tài năng, trí tuệ, nhưng nhìn chung
triết học Phương Đông có khuynh hướng chung là thiên về đạo đức. ngược
lại, khuynh hướng chung của triết học Phương Tây là tuyệt đối hoá trí tuệ,
đặc biệt là thời kỳ ánh sáng (thế kỷ XVII-XVIII) người ta đã xem trí tuệ như
đôi đũa thần kỳ của nàng tiên trong truyện Lọ Lem có thể đem lại cho nhân
loại mọi thứ trên đời.
Triết học Phương Tây thiên về trí tuệ phù hợp với sự phát triển của Chủ
nghĩa tư bản, dựa trên nguyên tắc của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vị lợi,
phát huy tính phiến diện này đến đỉnh cao trong nền kinh tế thị trường. Cho
nên cùng với nó là sự suy thoái về đạo đức là dĩ nhiên. Mà sự suy thoái về
đạo đức ở Phương Tây là từ biểu hiện tan giã gia đình. Trong lúc đó, ở
Phương Đông đạo đức lại được củng cố ngay từ gia đình. Cho nên tinh thần
cộng động, họ hàng đặt Nghĩa lên trên Lợi luôn đè bẹp sự trỗi dậy của chủ
nghĩa cá nhân theo kiểu Phương Tây.
Về phương tiện, phương pháp nhận thức giữa triết học Phương Tây và
triết học Phương Đông có điểm gì khác nhau? Nếu triết học Phương Tây hơi
ngả về tư duy duy lý, phân tích, mổ xẻ thì triết học Phương Đông hơi ngả về
trực giác. Phương pháp tư duy duy lý đã tạo ra những điều kiện cho sự phát
triển của khoa học kỹ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà các nước Phương
Tây hoặc Phương Tây hóa có nền khoa học công nghệ đứng đầu thế giới.

Nhưng xét ở góc độ triết học, phương pháp này có mặt yếu của nó. Như
chúng ta đã biết, quá trình nhận thức, quá trình đi đến chân lý cuối cùng là
vô hạn. Theo Lênin, con người không thể nắm bắt giới tự nhiên một cách
đầy đủ như là chỉnh thể trong tính “chỉnh thể trực tiếp” của giới tự nhiên; tất
cả những cái mà con người có thể nhận thức được là đi gần mãi đến đó bằng
cách tạo ra những trừu tượng, những khái niệm, những quy luật – một bức
tranh khoa học về vũ trụ.
Phương pháp trực giác là sự cảm nhận hay thể nghiệm, đó là đặc điểm
nổi bật của phương thức tư duy của triết học Phương Đông. Cảm nhận (hay
thể nhận) tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật
ăn khớp, khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó
nắm vững bản thể. Đặc biệt là các nhà tư tưởng triết học Trung Quốc đều
quen với những phương thức tư duy trực giác. Nho gia chủ trương “phản
tĩnh cầu nội”, Đạo gia chăm chút “toả vong”, Phật học có phép “đốn ngộ”,
Lý học đề xướng “Trí lương tri”…
Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái “tâm”,
coi “tâm” là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”, rất ít đi sâu
phân tích quá trình tác động của “tâm”. Vì vậy trong các tác phẩm triết học
của họ thường rời rạc, phần ám thị nhiều hơn, thiếu sự chứng minh chu đáo.
Mặt khác, cũng phải thấy rằng, các triết gia Phương Đông đi sâu nhấn
mạnh tính chỉnh thể hợp nhất của các khái niệm và phạm trù, không tìm hiểu
sự khác biệt về bản chất giữa chúng, chỉ nắm chỉnh thể ở cảm nhận. Như
vậy, nếu dùng quan điểm chỉnh thể để nắm sự vật thì phương thức tư duy
trực giác “gặp sự vật là hiểu nội dung” tỏ ra quan trọng, còn phương thức đi
từ phân tích nội hàm và ngoại diên của khái niệm dẫn đến suy luận logic lại
thừa.
Sự sáng tạo phương thức tư duy trực giác đương nhiên là sự sáng tạo trí
tuệ siêu phàm của tư tưởng triết học Phương Đông, nhưng do thiếu sự luận
chứng và phân tích cho nên các khái niệm, phạm trù thường là trực giác,
thiếu suy tính logic, do thiếu phương pháp cần thiết để xây dựng một hệ

Xem thêm: Diện Tích Việt Nam Đứng Thứ Mấy Trên Thế Giới, Top 15 Quốc Gia Có Diện Tích Lớn Nhất Thế Giới

thống lý luận khoa học. Nhưng phương pháp trực giác lại đạt đến cái mà tư
duy duy lý phân tích, mổ xẻ không bao giờ có được. Nó là phương thức phù
hợp với đối tượng vận động.
Thực ra hai phương pháp trội của hai nền triết học này có mối liên hệ
mật thiết với nhau, không tách rời nhau và bổ sung cho nhau. Nếu không có
phân tích, mổ xẻ thì làm sao mà hiểu được sự vật, hiện tượng. Nhưng nếu
cho nó là tuyệt đối duy nhất thì lại là sai lầm. Đối với nhiều lĩnh vực,
phương pháp phân tích tỏ ra rất yếu ớt, hạn chế trong khi đó phương pháp
trực giác lại tỏ ra khá thích hợp. Bởi vậy, tuỳ từng lĩnh vực, đối tượng mà
phương pháp nào là nổi trội nhưng cũng không loại trừ hoàn toàn phương
pháp khác.
Một điểm khác nhau có tính phương pháp luận giữa hai nền triết học
Đông Tây là ở chỗ: triết học Phương Tây tách rời chủ thể và khách thể, chủ
quan và khách quan, người nhận thức và đối tượng nhận thức. Trong khi đó,
triết học Phương Đông lại cho rằng, muốn hiểu đối tượng thì phải hoà vào
đối tượng. Con người phải hài hoà với thiên nhiên.
Ngày nay một số bậc học giả cho rằng khuynh hướng trội của Phương
Tây là hướng ngoại, chủ động tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến,
cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tư
duy, cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể… còn khuynh hướng trội của Phương
Đông là hướng nội, bị động, trực giác huyền bí, hoà hợp, quân bình, thống
nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng hợp, minh triết, trực giác, tôn giáo, tâm
lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ… thiết nghĩ đây là một
vấn đề lớn cần phải được phân tích và lý giải.
KẾT LUẬN
Will Durant – Nhà triết gia, sử gia đã viết: “Chúng ta sẽ ngạc nhiên nếu
được biết các món nợ tinh thần của chúng ta đối với Ai Cập và Phương
Đông, nợ về các phát minh hữu ích cũng như về tổ chức chính trị, kinh tế, về
khoa học, văn chương, triết học, tôn giáo. Hiện nay Châu Á tràn trề một sinh
lực mới, càng ngày càng mau đuổi kịp Châu Âu và chúng ta có thể đoán

được rằng vấn đề quan trọng của thế kỷ XX sẽ là sự xung đột giữa Đông và
Tây; vậy thì viết sử mà có óc hẹp hòi theo truyền thống cũ, bắt đầu bằng sử
Hy Lạp, chỉ chép vài hàng về sử Châu Á… thì là thiển cận, thiếu hiểu biết,
hậu quả có thể tai hại. Tương lai ở phía Thái Bình Dương và chúng ta phải
hướng cặp mắt và trí óc về phía đó”. Đúng thật vậy, có một thời gian dài,
chúng ta chỉ nghiên cứu triết học Phương Tây, chính vì thế chúng ta không
nhận thức được những giá trị của triết học Phương Đông. Không thấy được
sự khác nhau giữa đặc điểm triết học Phương Đông và Phương Tây.
Ngày nay, các trào lưu triết học Phương Đông vẫn còn ảnh hưởng rất
lớn trong xã hội Phương Đông hiện đại, đặc biệt là Nho giáo và Phật giáo.
Các nhà tư tưởng đang tìm mọi cách để khai thác những yếu tố tích cực của
triết học Phương Đông, để góp phần tạo nên nguồn lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế – xã hội. Các trào lưu của triết học Phương Tây hiện đại ngày
nay phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn khách quan của xã hội tư bản hiện
đại. Trong đó chủ nghĩa duy lý là động lực tạo nên nền văn minh hiện đại,
còn chủ nghĩa phi duy lý lấy nhân tố con người để “tự cai trị” trong một xã
hội ngày càng bị duy lí hoá đe doạ cuộc sống của con người. Hai xu hướng
triết học đó lại được tăng cường bởi triết học tôn giáo. Chúng không hoàn
toàn đối lập nhau một cách tuyệt đối mà dựa vào nhau, bổ sung cho nhau để
23
đáp ứng sự tồn tại và phát triển của con người trong thế giới Phương Tây
hiện đại. Nhưng trong thực tế, xã hội tư bản hiện đại đã sản sinh ra những cá
nhân vị kỷ, tình trạng bạo lực… đe doạ sự bất ổn trong xã hội. Và hiện nay,
các nhà tư tưởng Phương Tây đang quay về nghiên cứu Phương Đông để
học tập cái hay, cái đẹp của Phương Đông, đúng như dự đoán của sử gia
người Pháp Y.Michelet: “Người nào đã từng hành động hoặc ham muốn quá
nhiều, hãy uống cạn ly rượu đầy sức sống và tươi trẻ này. Ở Phương Tây cái
gì cũng chật hẹp. Hy Lạp nhỏ bé làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do Thái khô
khan làm cho tôi khó thở. Hãy để cho tôi hướng về Châu Á cao cả và
Phương Đông thâm trầm trong giây lát”.

Là những chủ nhân của đất nước, chúng ta phải có nhiệm vụ nghiên
cứu những giá trị của triết học Phương Đông và Phương Tây, đặc biệt là triết
học Phương Đông. Bởi lẽ chính lịch sử tư tưởng Việt Nam ảnh hưởng khá
sâu sắc những học thuyết triết học Phương Đông như Nho giáo, Phật giáo,
Đạo gia. Những học thuyết đó trong lịch sử đã bị “Việt Nam hoá” và là
những thành tố tạo nên bề dày của bản sắc văn hoá Việt Nam. Để từ đó phát
huy nội lực, phát huy những giá trị truyền thống trong sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước./