Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Nhìn lại sự kiện 30 năm Liên Xô tan rã: Sức sống của những bài học mất còn thể chế

17 Tháng Mười Hai, 2021

(TG) –Tròn 30 năm trước, sự sụp đổ của một phần của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX là một sự kiện đặc biệt gây chấn động toàn thế giới, làm thay đổi căn bản trật tự thế giới, là một tổn thất hết sức to lớn và nặng nề của những người cộng sản trong quá trình hiện thực hóa học thuyết Mác – Lêninvào con đường phát triển của đất nước. Mặc dù vậy, con đường phát triển của đất nước từ Việt Nam và tiến lên phía trước và không gì cản được.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Ảnh minh họa

Một tấn bi kịch lớn nhất thế kỷ XX: Chủ nghĩa xã hội thất bại trên chính ngay quê hương của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Sự sụp đổ của một phần hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã khiến giới chính trị tư sản và chủ nghĩa đế quốc tin chờ vào hiệu ứng “đô-mi-nô” về cái gọi là “sự sụp đổ định mệnh” toàn hệ thống của chủ nghĩa xã hội và ngóng đợi về thời khắc “vàng”: đó là“chiến thắng không cần chiến tranh”của thế giới tư sản (!).

Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa xã hội thế giới ra sao?

Nhưng, 30 năm qua, lịch sử của chủ nghĩa xã hội lại đi những lối mà chính trật tự tư sản cũng không thể ngờ.

SỰ ĐỨT GÃY NGOÀI MONG MUỐN CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC VỀ CHUỖI SỤP ĐỔ “ĐÔ-MI-NÔ” CỦA TOÀN BỘ HỆ THỐNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Mùa thu năm 1991 là thời điểm “sai lầm của lịch sử” với đổ vỡ của Liên bang Xô-viết, một quốc gia thống nhất đã từng tồn tại, phát triển hùng mạnh trong suốt ba phần tư thế kỷ, nhưng đồng thời là thời khắc nhân loại chứng thựcsự đứt gãycủa “hiệu ứng đô-mi-nô triệt để” tưởng tượng nào đó,trái với mong muốn của chủ nghĩa tư bản về chuỗi sụp đổ tất yếu mang tính dây chuyền của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.

Vì sao như vậy? Có thể hình dung vấn đề này trên ba phương diện chủ yếu:

Thứ nhất, những gì trái với quy luật lịch sử, tất yếu sẽ bị lịch sử đào thải.

Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu của nhân loại. Nhưng đi như thế nào?

Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu cho thấy, đây là sụp đổ của một mô hình cụ thể chứ không phải sự sụp đổ của một lý tưởng trên nền móng hệ thống lý luận. Hơn nữa, mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là nhữngmô hình đồng dạng phối cảnh, tới mức khó phân biệt bản sắc của các mô hình trong sự phát triển đa dạng của chủ nghĩa xã hội một cách tự nhiên. Vấn đề này hoàn toàn trái với sự chỉ dẫn của cả C. Mác và V. I. Lênin về tính thống nhất và đa dạng của chủ nghĩa xã hội. Nó vô hình chặt cụt mọi sự sáng tạo một cách độc lập trong việc hiện thực hóa chủ nghĩa Mác-Lênin ở các quốc gia khác nhau. Đó là sự thất bại to lớn về phương pháp luận và nặng nề về tổ chức thực tiễn. Lịch sử càng về cuối thế kỷ XX càng nghiêm khắc cảnh cáo sự vi phạm chết người này.

Mặt khác, một trong những nguyên nhân sai lầm dẫn đến sự sụp đổ ấy là do các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô vàĐông Âu mắc phải sai lầm chủ quan để cho quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong nội bộ Đảng, Nhà nước, làm cho cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, dao động, hoài nghi về những giá trị của chủ nghĩa xã hội, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, hạ thấp và đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hơn nữa, tất cả điều đó đặt dưới “ngọn cờ” dân chủ vô hạn độ, công khai vô giới hạn thì tan vỡ là không tránh khỏi.Một thể chế không biết tự bảo vệ mình một cách hợp quy luật và kiên định, không trước ắt sau sẽ vào tan rã và sụp đổ thì điều đó không lấy gì làm lạ cả.Qua thực tiễn càng cho thấy, lực lượng bên ngoài là tác nhân kích thích quan trọng, nhưng lực lượng “ngầm” bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước là “hạt nhân nòng cốt” cho sự “chuyển hóa”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa, làm cho Đảng Cộng sản bị phân hóa, rối loạn, tự mâu thuẫn, không thế kiểm soát được tình hình; không thể lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Các thế lực thù địch đã tìm mọi cách nhằm “gieo hạt giống thức tỉnh và hủy diệt chế độ Xô-viết” thông qua sách lược “mưa dầm thấm lâu”. Với chiêu bài “ngoại giao thân thiện”, các thế lực thù địch đẩy mạnh truyền bá tư tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền, luồn sâu, leo cao, từng bước can thiệp ngày càng sâu vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao và quốc phòng, an ninh của Liên Xô. Sức mạnh quốc gia phải đặt trên sự đoàn kết một khối vững chắc thì lại bị “băm nhỏ” một cách “dân chủ” vô lối và thảm hại.Chủ nghĩa ly khai hoành hành nằm ngoài sự kiểm soát một cách nguy kịch.Điều tệ hại này thúc đẩy nhanh chóng quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, làm cho nội bộ 15 nước cộng hòa và hệ thống chuyên chính vô sản đã được thiết lập khá vững chắc từ thời V.I. Lênin, từng bước biến đổi về nhận thức, chuyển hóa về tư tưởng, gây mất niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào đất nước và lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, đã rơi vào hỗn loạn và tan rã.

Vì thế, tất cả hành động diễn ra một cách mù quáng và trái quy luật như thế cho nên sự sụp đổ và tan rã đồng loạt ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu nhất định đều chung một con đường thất bại như nhau.

Thứ hai, nếu những ai khiến lịch sử trả giá thì họ phải trả giá cho lịch sử.

Cuộc chính biến tháng 8/1991 là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển đổi lệch hướng công cuộc cải tổ và công khai hóa do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô M. Goóc-ba-chốp khởi xướng từ tháng 3/1985.

Nhìn từ mọi góc độ, sự kiện gây chấn động lịch sử đó có rất nhiều cách lý giải. Nhưng tựu trung, đó vẫn là quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa, thẩm thấu từ bên trong và sự tấn công cấp tập, không khoan nhượng từ bên ngoài.

Có thể thấy, công cuộc cải tổ không những không chữa được những căn bệnh trầm kha của xã hội Xô-viết mà cuối cùng còn giúp thế lực hữu khuynh tận dụng triệt để trong việc kích động lực lượng phản kháng tác động đến phần lớn quần chúng đang mất dần niềm tin vào thể chế. Sự sụp đổ của Liên Xô không diễn ra ngay lập tức, mà đó là kết quả của một chương trình kinh tế và tư tưởng được lên kế hoạch kỹ càng. Câu khẩu hiệu “Cải tổ – Dân chủ – Công khai” đã thu hút sự quan tâm của giới trí thức, mà những người lúc đó không thể lý giải được ý nghĩa sâu xa của những từ trong câu khẩu hiệu này.

Hai năm sau khi lên nắm quyền và chỉnh đốn hàng ngũ đảng viên dưới quyền, M. Goóc-ba-chốp tuyên bố thay đổi toàn diện nhà nước Xô-viết và cho rằng “cải tổ là từ mang nhiều nghĩa và đầy hàm ý”, “cải tổ chính là một cuộc cách mạng”. Như vậy, Ban Lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô xác định nhiệm vụ không phải là cải cách dần dần, mà là thay đổi thông qua việc hủy hoại và cắt đứt tính kế thừa. Đây là điều cực kỳ nguy hiểm.

Để thúc đẩy chương trình cải cách, M. Goóc-ba-chốp đi đầu phong trào sửa đổi Hiến pháp Liên Xô, bao gồm việc thiết lập một vị trí tổng thống mới tập trung nhiều quyền lực hơn. Chính điều này đã hủy hoại uy tín của Đảng Cộng sản, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những giá trị chủ nghĩa xã hội, thổi bùng chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa ly khai tại các nước cộng hòa tự trị thuộc Liên bang Xô-viết, tạo điều kiện cho các phần tử bất đồng chính kiến, những kẻ cơ hội chính trị đủ mọi phe phái trỗi dậy, tập hợp thành các phong trào chống đối.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, người ta mới nhận ra rằng, kẻ thù đã lợi dụng nhiều khiếm khuyết, lỗ hổng trong Đảng Cộng sản và đã cài cắm vào xã hội một hệ thống tuyên truyền hoàn chỉnh cho các giá trị chủ nghĩa tự do, đẩy xã hội phát triển theo một vec-tơ khác chống chủ nghĩa xã hội. Điều này đặc biệt rõ trong giới trí thức khoa học xã hội, các đại diện của bộ phận này đã công khai vứt bỏ, đốt thẻ đảng, mà trước đây từng là ước mơ của họ, tuyên bố chủ nghĩa tư bản là “đỉnh cao của nền văn minh thế giới”, “thành trì của dân chủ, là miền đất hứa”(!). Điều đáng chú ý là, chính những người đã từng nỏ miệng tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản và “ăn theo”, thậm chí trở nên “vinh thân phì gia” nhờ đó phải bị trừng trị, giờ lại biến thành những kẻ đả kích, công phá mạnh nhất chủ nghĩa đó.

Mặt khác, các thế lực chống cộng phương Tây, nhất là Mỹ, luôn ấp ủ âm mưu chia rẽ các dân tộc trong Liên bang Xô-viết. Trong những năm tháng cải tổ, các nhà lãnh đạo Liên Xôlập lờ trước tình trạng mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc bùng lên dẫn đến phong trào ly khai đòi độc lập ở một số nước cộng hòa. Chính thái độ lập lờ đó đã đẩy nhanh sự sụp đổ của thể chế chính trị Xô-viết. Đối với Liên Xô, là điểm tận cùng trong hệ thống mà chiến dịch cải tổ đã đẩy tới tình trạng rệu rã, nếu chỉ cần một đòn nhẹ của “dân chủ”, “công khai”, nhưng thâm độc và được tính toán chính xác của kẻ thù, tấn công vào chỗ dễ tổn thương nhất thì cả hệ thống đó tan vỡ là điều tất yếu.

Có thể nói gọn rằng, sự tấn công của các thế lực thù địch luôn có tác động công phá làm chuyển hóa từ bên trong và khi bên trong suy yếu, bạc nhược và hủ mục, lại lơ là, mất cảnh giác… thì đổ vỡ và thất bại nhất loạt của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là điều không tránh khỏi.

Thứ ba, lịch sử cảnh giới và sự cảnh giới của lịch sử.

Có những điều mà cho tới tận bây giờ, ngay cả giới chính trị gia tư sản các nước vẫn không thể hiểu được, vì sao hiệu ứng “đô-mi-nô” về sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa đã không diễn ra như họ mong đợi. Và, vì sao hiệu ứng đó bị đứt gãy và dừng lại ở châu Âu?

Đất nước Xô-viết sụp đổ và các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã để lại muôn vàn hậu quả cho chính đất nước họ, cho các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đối với lịch sử của chủ nghĩa xã hội, trong nhiều hậu quả, có rất nhiều hệ lụy cực kỳ nghiêm trọng và hết sức nặng nề.

Lịch sử của chủ nghĩa xã hội lên tiếng cảnh giới:Không thể tiếp tục đi con đường xã hội chủ nghĩa kiểu Liên Xô và các nước Đông Âu!

Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn thâm độc, phương cách tinh vi nhằm thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Các thế lực thù địch mặc sức hoành hành.Cùng với các lực lượng “ngầm” chống phá, chúng từng bước can thiệp sâu, gây mâu thuẫn trong nội bộ để làm tha hóa, biến chất chế độ cộng sản; đồng thời, cổ xúy và tiếp sức cho các phe phái đối lập nổi lên chống phá cách mạng, tiến tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

Không nghi ngờ gì, chiến lược “diễn biến hòa bình” đã góp phần vào sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.

Trái lại, trong khi đó, một số nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới như Trung Quốc, Việt Nam vẫn tiếp tục đứng vững và phát triển. Cái gọi là hiệu ứng “đô-mi-nô” về sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa bị đứt gãy ở chính chỗ này!

Và, ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt nước tự giải phóng khỏi xích xiềng của hệ thống thuộc địa và đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1945, sau khi giành độc lập, Việt Nam vừa kháng chiến, vừa kiến quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau này, năm 1949, cách mạng Trung Quốc và năm 1959, cách mạng Cuba giành được thắng lợi và đều đi tới chủ nghĩa xã hội… Điều này càng làm nổi bật tính đa dạng về phương pháp của giai cấp vô sản ở các nước trong việc tuân theo những quy luật phổ biến của chủ nghĩa xã hội; đồng thời khéo áp dụng chúng, cân nhắc các đặc điểm vốn có của nước mình và tương ứng với điều đó là biết xác định những hình thức và phương pháp cụ thể thực hiện chủ nghĩa xã hội. Cùng thời gian, chúng ta đã chứng kiến các dạng quá độ lên chủ nghĩa xã hội thể hiện dưới các “mô hình”, với những “đặc sắc” khác nhau, tiềm tàng sức sống và người ta ngày càng thừa nhận điều đó bằng các minh chứng: Chủ nghĩa xã hội “đặc sắc Trung Quốc”, chủ nghĩa xã hội có “bản sắc Việt Nam”. Đó chính làhiện thân của tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội;và đó cũng chính lànguồn gốc và sức sống của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hiện nay.

Với tư cách là một thế giới quan và phương pháp luận khoa học, học thuyết Mác – Lênin vẫn không ngừng đổi mới và phát triển; còn với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động thực tiễn, chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi những người cộng sản phải luôn biết vận dụng sáng tạo để đi tới thành công.

Vì thế, qua sự đổ vỡ nhưng không theo “hiệu ứng đô-mi-nô”, lịch sử của chủ nghĩa xã hội càng xác tín rằng,nếu sự thất bại của chủ nghĩa xã hội là con đường chung của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các quốc gia xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu thì sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội phải, luôn và càng là con đường riêng của mỗi nước đi lên chủ nghĩa trên cơ sở sự phát triển độc lập, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênintrên địa bàn của mỗi nước.

Đó chính làhiện thân của sự đòi hỏi về trung thành, độc lập và sáng tạo xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác-Lênin, ở mỗi nước, trong thời đại ngày nay.

Và, vì thế, không thể có “hiệu ứng đô-mi-nô” nào về sự sụp đổ tất yếu mang toàn hệ thống xã hội chủ nghĩa, như sự mong đợi đầy ảo mộng của chủ nghĩa tư bản.

LIÊN XÔ SỤP ĐỔ VÀ SỰ TRỪNG PHẠT CỦA LỊCH SỬ

Thật trớ trêu, Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo, Liên Xô tan rã mà không thông qua một cuộc chiến tranh nào.Chính các Đảng Cộng sản cầm quyền, trước hết và chủ yếu là Đảng Cộng sản Liên Xô, lại để mất quyền lãnh đạo, làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh sụp đổ và tan rã. Và cũng thật trớ trêu, những thủ đoạn mỵ dân, “công khai hóa” của giới lãnh đạo Liên Xô, bằng cuộc bỏ phiếu ngày 17/3/1991, đã “đánh lừa” 76% số người dân Liên Xô hăm hở bày tỏ sự ủng hộ việc duy trì Liên bang, mà không hề biết rằng, họ đang bỏ phiếu ủng hộ cho Liên Xô sụp đổ!

Nhìn sâu hơn, quá trình hủy hoại này diễn ra không giống một cuộc xung đột giai cấp, mà là sự thay đổi âm thầm trong nhận thức và tư tưởng của xã hội. Đặc biệt, vào thời gian cuối, sự sụp đổ của Liên Xô diễn ra hết tốc lực, trong khi giai đoạn đầu “cải tổ” là một cuộc “cách mạng về nhận thức” được che đậy bằng một thuật ngữ rất mỹ miều là “công khai hóa”. “Công khai hóa” đã dần dần phá hủy toàn bộ nguyên tắc và nền tảng vốn đã hình thành từ trước đó rất lâu.

Có thể hình dung tình hình Liên Xô lúc bấy giờ trên bốn phương diện chính yếu:

Một là,do đường lối lãnh đạo mang tính chủ quan, duy ý chí; cùng với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp làm cho sản xuất trì trệ, đời sống của nhân dân không được cải thiện, sự thiếu dân chủ và công bằng đã làm tăng thêm sự bất mãn trong xã hội.

Gần 20 năm sau khi Liên Xô sụp đổ, đã có nhiều người viết về nguyên nhân vì sao Liên Xô sụp đổ một cách có hệ thống, nhiều công trình nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng, sự sụp đổ của Liên Xô có nguyên nhân sâu xa là do những sai lầm, khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết, một chế độ xã hội đã đạt những thành tựu vĩ đại, đóng góp to lớn cho sự phát triển của nhân loại, góp phần quyết định cứu loài người khỏi thảm họa phát-xít, nhưng đã trở nên trì trệ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Cuộc cải tổ sai lầm ở Liên Xô do M. Goóc-ba-chốp đề xướng là nhân tố trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Liên Xô.

Những nhận định đó hoàn toàn xác đáng.

Vào đầu thời kỳ cải tổ, việc đầu tiên mà M.Goóc-ba-chốp và ê-kíp của ông ta làm là đẩy hệ thống điều hành vào trạng thái bất ổn định. Rối loạn hệ thống sẽ có những hậu quả khôn lường. Điều đó dẫn tới tình trạng trì trệ, khủng hoảng về kinh tế, xã hội. Trong khi đó, mục tiêu củachiến tranh kinh tế – tài chínhcủa Mỹ chống Liên Xô lúc đó là khai thác được càng nhiều tài nguyên càng tốt, làm tê liệt chức năng điều hành nền tài chính quốc gia, ngăn cản Liên Xô tiếp cận khoa học công nghệ, phục vụ cho một “chiến lược gây căng thẳng”. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, hàng loạt biện pháp, chiến dịch đã được tiến hành nhằm vào những hướng phát triển kinh tế then chốt ở Liên Xô. Trong khi nền kinh tế Liên Xô vốn đã có nhiều vấn đề về phát triển, thì sự tác động vào nền kinh tế, phương thức phá hoại có chủ ý trong lĩnh vực tài chính, khiến kinh tế Liên Xô bị phá vỡ có tính hệ thống và lâm vào nguy ngập hoàn toàn.

Sự chao đảo, sai lầm về đường lối chính trị trong thực hiện dân chủ hóa đến công khai, dư luận đa nguyên hóa, buông lỏng xây dựng lực lượng vũ trang, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản,… là nguyên nhân từng bước làm suy giảm nghiêm trọng sức mạnh quân sự của Liên Xô. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô không thể bảo vệ nổi chính mình.

Hai là,khi tiến hành cải tổ, phạm phải sai lầm trên nhiều mặt làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng, cộng thêm với sự chia rẽ, đầu hàng, phản bội của những kẻ cơ hội chính trị trong giới chóp bu chính trị đã dẫn tới sự tan vỡ không tránh được.

Công cuộc cải tổ làm xã hội bất ổn. Nhằm thích ứng với cải tổ hơn nữa, M. Goóc-ba-chốp tiếp tục phạm sai lầm nguy hiểm khi tung ra cái gọi là “tư duy chính trị mới” thực chất là xóa nhoà ý thức hệ tư tưởng, tạo ra “diễn biến hoà bình” ngay trong lòng xã hội Xô viết và Đảng Cộng sản Liên Xô.

Các nhân tố của “tư duy chính trị mới” đã trở thành nền tảng để cải tổ chính sách quân sự và đối ngoại. Những quan điểm sai lầm đó được phương Tây chào đón nhiệt thành. Có thể thấy rõ, trong “tư duy chính trị mới” này, bao hàm những nguồn gốc phá hoại nền quốc phòng và nền an ninh, đối ngoại của Nhà nước Xô- viết, phá hoại về chính trị và tư tưởng.

Các nhà lãnh đạo Liên Xô đều đã từng nhận những chỉ dẫn của Mỹ và cùng với M. Goóc-ba-chốp thực hiện thành công đường lối phản bội nhân danh cải tổ để tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Tháng 2/1992, phát biểu tại Nghị viện I-xra-en, M. Goóc-ba-chốp tuyên bố: Tất cả những gì tôi làm với Liên Xô, tôi đã làm(1). Năm 1999, tại Trường Đại học Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, M. Goóc-ba-chốp tự thú nhận: Mục tiêu của toàn bộ đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản(2).

Ba là, vấn đề đặc biệt là sai lầm khi thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng, từ bỏ quyền lãnh đạo cao nhất của Đảng. Nói cách khác, sự phản bội lớn nhất của M. Goóc-ba-chốp là thủ tiêu vai trò của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với xã hội, cổ vũ hình thành các tổ chức chính trị đối lập, thực hiện đa nguyên, đa đảng.

Bất kỳ một âm mưu nào nhằm vào Đảng thì nhất định sẽ ảnh hưởng xấu đến vận mệnh quốc gia. Việc xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô được hợp pháp hoá bằng sự xoá bỏ Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô, cũng đồng nghĩa với việc gạt bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô ra khỏi nền tảng chính trị quốc gia, để sau đó không lâu, chính ngôi nhà Xô-viết sụp đổ.

Cái gọi là cải tổ kinh tế ngay từ đầu đã thất bại, tiêu cực xã hội ngày càng tăng cao, được lý giải như là một thứ “học phí” của quá trình cải tổ. Nhân cơ hội này, họ làm phức tạp hóa tình hình và tiếp tục sai lầm, đẩy mạnh cải cách chính trị với sự thổi phồng khẩu hiệu công khai hóa, dân chủ hóa. Người ta chứng thực rằng, chỉ cần thêm bớt vào điều đó một chút xuyên tạc thô bạo lịch sử đất nước với sự phản bội theo quy mô to lớn ít thấy trong lịch sử thì rõ ràng tất cả những điều đó mang lại sự xáo trộn khủng khiếp về tư tưởng. Trong nhiều trường hợp, nó còn là sự xuyên tạc lịch sử của đất nước và Đảng.

Mặt khác, do không vượt lên được so với các đối thủ phương Tây trong chiến tranh lạnh về hiệu suất cũng như thành quả lao động, không kiên quyết đấu tranh bài trừ những căn bệnh vốn bắt rễ và âm thầm lây lan trong giới cầm quyền như nạn tham nhũng, bè phái, hưởng nhiều đặc lợi vượt giới hạn, sùng bái chủ nghĩa hình thức, xa rời hay diễn giải sai lệch theo kiểu xu thời những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lại không có phương án nào khả dĩ để đối phó với trào lưu dân tộc chủ nghĩa đang sinh sôi, nảy nở và biến tướng từng ngày… nên vai trò của Nhà nước Xô-viết ngày càng suy giảm tiềm lực và vị trí của mình trong nước và trên trường quốc tế.

Bốn là,sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước có tác động không nhỏ làm cho tình hình trở nên thêm rối loạn, nằm ngoài vòng kiểm soát.

Chính vì chương trình phá hoại từng bước về chính trị mà kinh tế Liên Xô gặp phải khủng hoảng nặng nề nhất. Để lật đổ Liên Xô, các thế lực thù địch ở phương Tây, đặc biệt là Mỹ, đặt ra nhiệm vụ hàng đầu là cần phải lũng đoạn được cơ quan đầu não, đó là Đảng Cộng sản Liên Xô. Và một loạt chiến dịch, từ kinh tế, chính trị, thông tin, tuyên truyền đã được lên kịch bản và thực hiện ráo riết.

Có một điều cần nhắc lại: Vì sao quá trình sụp đổ của Liên Xô lại diễn ra vào những năm 1985 – 1991?

Theo giới nghiên cứu, vào thời điểm này, phương Tây đang đứng trước một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Đối với Mỹ, các nhà nghiên cứu của chính nước Mỹ khẳng định, cuộc chạy đua vũ trang đã trở thành “trò ngu xuẩn” đối với chính Mỹ và không thể giành được chiến thắng trước Liên Xô. Theo dự đoán của họ, nếu đến giữa năm 1990 không xảy ra những thay đổi căn bản thì nước Mỹ sẽ có một sự bùng nổ lớn về chính trị và xã hội. Lối thoát duy nhất đối với giới cầm quyền Mỹ là “phá tan Liên Xô từ bên trong”.

Nắm bắt tình thế có một không hai đó, phương Tây tác động mạnh vào chiến dịch cải tổ sai lầm của Liên Xô, thông qua các chiến dịch tài trợ cho các trung tâm chống phá Liên Xô. Chính một nhà khoa học Mỹ, ngày 12/5/1994, viết rằng, từ năm 1985 đến năm 1992, Mỹ chi tới 90 tỷ USD cho việc thúc đẩy “’tiến trình dân chủ hóa” ở Liên Xô(3). Chỉ riêng chi cho công việc tình báo phá hoại Liên Xô, giới tư bản độc quyền Mỹ và giới lãnh đạo của các nước tư bản khác thừa nhận tiêu tốn tới 5 nghìn tỷ USD cho việc thúc đẩy những hoạt động gạt bỏ, chế ngự, lật đổ và tiêu diệt “huyền thoại” Liên Xô đang đe dọa họ.

Cùng với chiến tranh tâm lý, các thế lực thù địch với Liên Xô đã tiến hành cuộcchiến về tổ chức. Nhiều nhân vật then chốt trong Ban lãnh đạo Liên Xô trước đây đã từng học ở nước ngoài, nay đã tha hoá biến chất và được cài sâu vào những vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Những năm 1988 – 1989, họ “tuồn” một lượng đáng kể “các nhà dân chủ” tham gia chính quyền, có thể can thiệp vào cơ cấu điều hành; và đây là một thành công của phương Tây trong âm mưu làm sụp đổ Liên Xô. Nhóm này đã “kết thành tổ kén” phục kích rất sâu và rất cao trong Đảng Cộng sản Liên Xô và là chỗ dựa cho lực lượng phản cách mạng.

Toàn bộ công cuộc “cải tổ” diễn ra trước đó đã trở thành khúc dạo đầu cho những gì được hoàn thành vào tháng 8-1991. Và, khi Đảng Cộng sản Liên Xô giải thể, sẽ kéo theo Liên Xô sụp đổ vô phương cứu chữa.

Sự thất bại luôn có thể xảy ra, thậm chí ngay ở đỉnh cao của sự thành công, thậm chí cả sự chói lọi của vòng nguyệt quế, nếu mất cảnh giác và không biết tự bảo vệ mình!

SỨC SỐNG CỦA NHỮNG BÀI HỌC THẤT BẠI TỪ ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ

Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu không đánh dấu sự kết thúc của chủ nghĩa xã hội; trái lại, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội thời kỳ mới là một minh chứng cho sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội.

Mặc dù vây, có thể nói,chừng nào còn các Đảng Cộng sản với mục tiêu xã hội chủ nghĩa trên thế giới thì những bài học kinh nghiệm lịch sử xương máu của Đảng Cộng sản Liên Xô và sự tan rã của Liên bang Xô-viết và các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu mãi mãi còn nguyên vẹn. Đó chính là sức sống bất diệt của những bài học lịch sử thất bại: Nếu coi thường hoặc lãng quên chúng, nhất là những thất bại, dù khi đang đứng trên đỉnh cao những thắng lợi lịch sử của những người cộng sản Xô-viết, thì cũng sẽ bị trả giá.

Với nhãn quan chính trị chiến lược, hai năm trước khi chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, ngày 24/8/1989, tại Hội nghị Trung ương 7, khóa VI, Đảng ta nhìn nhận và cảnh báo nghiêm khắc 6 nguy cơ của Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản và công nhân ở những nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, gồm:Một là,thực hiện đa nguyên chính trị;hai là,dân chủ quá trớn không giới hạn;ba là,vừa không coi trọng củng cố, nâng cao chất lượng lãnh đạo, vừa hạ thấp vai trò lãnh đạo của đảng;bốn là,để tuột khỏi tay sự lãnh đạo đối với các phương tiện thông tin đại chúng;năm là,có khuynh hướng phủ nhận những thành tựu vĩ đại của chủ nghĩa xã hội;sáu là,đặt quá nhiều hy vọng vào việc mở cửa với phương Tây.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Với tầm nhìn chiến lược đó, cảnh giới những nguy cơ “diễn biến hòa bình”, vượt qua chặng đường hơn ba thập niên với bao nhiêu bão táp chống phá, tấn công từ bên ngoài, nguy cơ tự thoái hóa, suy thoái và phá hoại từ bên trong, Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa vẫn đứng vững và phát triển. Nhưng, chúng ta không được phép lơ là và lãng quên mối họa sinh tử này. Vì chủ nghĩa đế quốc với chiến lược công khai “chiến thắng không cần chiến tranh” không bao giờ từ bỏ âm mưu và hành động tiêu diệt các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.

Với tư cách là một Đảng cầm quyền, Đảng của chúng ta càng không mơ hồ và được phép lãng quên những bài học sinh tử đó về sự sụp đổ của chế độ xã hội ở Liên Xô và một số nước Đông Âu.

Bài học trước hết,làcần đặc biệt chăm lo vị thế và tư cách vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân và chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc: nắm lấy công tác tư tưởng chính trị, xây dựng hệ thống chính trị từ Đảng, Nhà nước đến các đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh, thật sự trung thành và tin cậy về chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng… là công việc có ý nghĩa thành bại.

Lịch sử hơn 91 năm của Đảng cho tới nay cho thấy, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là công tác chính trị tư tưởng và tổ chức luôn là những nhiệm vụ cấp bách, nóng bỏng và mang tầm chiến lược. Sai lầm về đường lối, chệch hướng về tư tưởng chính trị và lệch lạc về tổ chức sẽ đưa tới sai lầm, rạn vỡ, có khi không cứu vãn nổi.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Đại hội XIII của Đảng

Đặc biệt, trước tình hình mới, phải luôn đề cao cảnh giác trước những tác động xấu từ bên ngoài và kịp thời ngăn chặn sự suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa từ bên trong. Tháng 1-2021, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời… một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu… một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo đó, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 các khóa XI, XII, quyết sách của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII: Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Trong đó, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút ý chí chiến đấu và tình cảm đồng chí, đồng bào; thậm chí phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc, tình trạng “cát cứ”, “sứ quân”… chủ nghĩa cơ hội, phản bội…

Đặc biệt hiện nay, sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trên phương diện này là vô cùng chuẩn xác và mang tầm chiến lược.

Tiếp tục đổi mới cơ chế vận hành tập trung dân chủ của toàn bộ hệ thống chính trị, lấy Quốc pháp làm đầu, Đảng cương làm cốt, sự tín nhiệm của Nhân dân làm động lực và sự cương tỏa kiểm soát. Nắm chắc công tác tổ chức, chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chiến lược, người đứng đầu hệ thống chính trị các cấp bảo đảm: trung thành, bản lĩnh, trí tuệ, trong sạch, liêm sỉ, vì Dân và kỷ luật. Bảo vệ nghiêm nhặt chính trị nội bộ. Ngăn chặn và thải loại kiên quyết những người tiêu cực, phe nhóm, tham nhũng; trừng phạt nghiêm khắc những người xâm hại sự đoàn kết thống nhất của Đảng, tha hóa, thoái hóa về chính trị, nhất là tệ ăn cắp quyền lực, tức tệ “đạo vị”, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh; thải loại và trừng trị những kẻ mưu đồ lợi ích nhóm, rắp mưu bè phái, cát cứ trong Đảng, trừng trị sự bất tuân kỷ luật, đứng trên hoặc đứng ngoài pháp luật và ngoảnh mặt với Nhân dân.

Hơn lúc nào hết, lúc này, cần ghi xương khắc cốt rằng, nếu sự thoái hóa, biến chất, tự chuyển hóa diễn ra tại trung tâm quyền lực của Đảng, của hệ thống chính trị thì nguy cơ tan vỡ đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ tính bằng tháng, bằng năm. Đây là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ không tránh khỏi. Đảng Cộng sản Liên Xô và các “phiên bản” Đông Âu đã cảnh báo nghiêm khắc rõ điều này.

Bài học thứ hai,với tư cách là “đứa con nòi của giai cấp lao động” cầm quyền mọi quyền lực, mọi nguồn lực của đất nước và chịu trách nhiệm trước Nhân dân, phải chăm lo cơ sở chính trị – xã hội của mình: Dân là gốc nước, thuận theo lòng dân, được Nhân dân ủng hộ…

Kinh nghiệm lịch sử từ sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô và đổ vỡ của Liên bang Xô-viết càng cho thấy rõ, việc thâu tóm được mọi quyền lực và mọi nguồn lực quốc gia không khó bằng nắm được và thuận theo lòng dân. Những ai không nắm được lòng dân, không hành động theo quy luật nhất định thất bại, ngay khi đang nắm quyền lực.

Với tư cách là “đứa con nòi” của nhân dân lao động, hơn lúc nào hết, Đảng ta luôn thấu hiểu và hành động theo phương châm: “Ý Dân là ý trời”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn và “Việc nhân nghĩa cốt ở yên Dân”, như tiền nhân truyền lại. Vì, “Dân là Dân nước, nước là Nước dân”. Đó cơ sở là pháp lý và cũng là đạo lý phải quán xuyến toàn bộ công việc lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Lòng Dân là Quốc bảo Việt Nam.

Trái điều đó, nhất định sẽ thất bại.

Bài học thứ ba, từ bài học xương máu qua thất bại của Đảng Cộng sản Liên Xô, từ sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, phải chủ động vượt qua chính mình, nắm chắc pháp luật để cầm quyền, vì lợi ích tối cao của đất nước, vì hạnh phúc của Nhân dân và vì sự trường tồn của dân tộc.

Thực tiễn lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta chứng thực rằng, sai lầm và khuyết điểm rất khó tránh, nhưng điều nguy hiểm nhất là không dám thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là không có quyết tâm chính trị để tránh sai lầm, khắc phục khuyết điểm.Do đó, hơn bao giờ hết, giữ vững vô điều kiệnnguyên tắc tập trung dân chủtrong toàn bộ đời sống và hoạt động của Đảng; đồng thời kiên quyếtnắm chắc pháp luật để lãnh đạo, cầm quyền. Pháp luật của Nhà nước và Điều lệ, cương lĩnh của Đảng là hai nhân tố rường cột cầm quyền. Thiếu dân chủ và dân chủ biến tương là “bà đỡ” của thói nịnh bợ, luồn lọt, dân túy, cơ hội; buông lỏng kỷ cương là điều kiện tốt cho chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa đầu hàng nảy nòi và phát tác trong Đảng, nhất là ở các cơ quan lãnh đạo cấp cao. Đó là điều cấm kỵ trong toàn bộ công tác tổ chức và cán bộ.

Đồng thời, quét sạch tận gốc các chứng bệnh: độc đoán, chuyên quyền, tệ trù dập, trấn áp những ý kiến khác với mình; thói coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, nạn độc quyền chân lý; trân trọng đối thoại và nâng niu mọi sự phản biện trong khuôn khổ của Đảng và pháp luật của Nhà nước; bảo vệ vô điều kiện sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, chống mọi sự đặc quyền đặc lợi, trước hết trong đội ngũ người đứng đầu các cấp của hệ thống chính trị; đổi mới cơ chế giám sát quyền lực của Nhân dân một cách đồng bộ, thống nhất và thực tế bằng pháp luật.

Quốc pháp, Đảng cương và lòng Dânlà những nhân tố căn bản bảo đảm, kiểm soát và quyết định khuôn khổ toàn bộ hoạt động của Đảng và hệ thống chính trị.

Toàn bộ hoạt động của Đảng tiếp tục vì lợi ích tối thượng của đất nước, quyền lợi vô giá của dân tộc và hạnh phúc thiêng liêng và bất khả xâm phạm của Nhân dân. Đó là cương lĩnh chính trị đồng thời là cương lĩnh hành động của Đảng lúc này và trong tương lai.

Nhị Lê
Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Mục lục

  • 1 Bối cảnh
    • 1.1 Sự nổi lên của phong trào cộng sản
    • 1.2 Áp lực từ phương Tây
    • 1.3 Sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn Kết tại Ba lan
    • 1.4 Mikhail Gorbachev
  • 2 Dự đoán về sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết
  • 3 Khởi đầu sụp đổ
  • 4 Quá trình diễn biến
    • 4.1 Ba Lan
    • 4.2 Hungary
    • 4.3 Đông Đức
    • 4.4 Tiệp Khắc
    • 4.5 Bulgaria
    • 4.6 Romania
    • 4.7 Albania
    • 4.8 Nam Tư
  • 5 Hội nghị thượng đỉnh Malta
  • 6 Trình tự thời gian bầu cử ở Đông Âu từ 1989-1991
  • 7 Ở châu Á
    • 7.1 Mông Cổ
  • 8 Sự sụp đổ của Liên Bang Xô viết
  • 9 Ảnh hưởng của Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu
    • 9.1 Các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trên thế giới
      • 9.1.1 Châu Phi
      • 9.1.2 Trung Đông
      • 9.1.3 Châu Á
      • 9.1.4 Mỹ Latinh
      • 9.1.5 Châu Đại Dương
    • 9.2 Các nước khác
  • 10 Nguyên nhân của sự sụp đổ hệ thống chủ nghĩa xã hội
    • 10.1 Theo các chuyên gia phân tích quốc tế
    • 10.2 Theo các chuyên gia phân tích trong nước
      • 10.2.1 Nguyên nhân chính trị
      • 10.2.2 Nguyên nhân kinh tế
      • 10.2.3 Sự chống phá của các thế lực thù địch nước ngoài
      • 10.2.4 Sự suy thoái của truyền thông, báo chí Liên Xô
      • 10.2.5 Sự phản bội của Mikhail Sergeyevich Gorbachyov và những thành phần cơ hội
  • 11 Xem thêm
  • 12 Chú thích
  • 13 Tham khảo

Bối cảnh

Bản đồ (timeline) sự sụp đổ của các nhà nước XHCN ở các nước Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô

Sự nổi lên của phong trào cộng sản

Ý tưởng của chủ nghĩa xã hội đã đạt được giữa các tầng lớp công nhân của thế giới từ thế kỷ 19, lên đến đỉnh điểm trong thế kỷ 20 khi một số quốc gia hình thành đảng cộng sản của riêng họ. Thông thường, chủ nghĩa xã hội không được ưa chuộng bởi tầng lớp cầm quyền cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỉ 20; do vậy, ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa bị đàn áp và điều này đã được thực hành ngay cả ở các nước thực hiện chế độ đa đảng.

Cuộc cách mạng Bolshevik năm 1917 đã chứng kiến sự lật đổ một nhà nước dân tộc Nga trước đó cùng với chế độ quân chủ. Những người Bolshevik bao gồm các dân tộc của Nga đã lập ra Liên Xô trong suốt giai đoạn sau đó.

Trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, phong trào Cộng sản đã trỗi dậy tại nhiều nơi trên thế giới (ví dụ như ở Vương quốc Nam Tư thì nó đã phát triển phổ biến tại các đô thị trong suốt những năm 1920). Điều này dẫn đến một loạt các cuộc thanh trừng ở nhiều nước để dập tắt phong trào.

Sau thế chiến II, một loạt các quốc gia cộng sản chủ nghĩa đã ra đời ở châu Á và Đông Âu, tiêu biểu là CHND Trung Hoa. Các Đảng Cộng sản được thành lập ngày càng nhiều ở khắp nơi trên thế giới.

Khi phong trào cộng sản đã vào một giai đoạn phát triển phổ biến trên khắp Đông Âu, hình ảnh của họ cũng đã bắt đầu mờ nhạt đi. Khi các nhóm chính trị đối lập tăng cường các chiến dịch của họ để chống lại phong trào cộng sản, họ đã dùng đến bạo lực (bao gồm cả vụ đánh bom và giết người) để đạt được mục tiêu của họ: điều này dẫn phần lớn dân chúng trước đây ủng hộ Đảng Cộng sản đã mất sự quan tâm đến ý thức hệ này. Một sự hiện diện của Đảng Cộng sản vẫn được duy trì nhưng mất đi vai trò trước kia của nó.

Áp lực từ phương Tây

Sau thế chiến thứ II, mặc dù là nước thắng trận nhưng Liên bang Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô) bị thiệt hại nặng nề về người và của, đặc biệt là vấp phải sự chống phá của các phe đối lập nói chung và các nước tư bản nói riêng. Các nước tư bản đứng đầu là Mỹ, thực hiện chiến lược "toàn cầu chống XHCN" bằng những hành động cô lập kinh tế-chính trị, cũng từ đây thế giới bước vào thời kì "chiến tranh lạnh. Mỹ đưa ra lệnh "cấm vận" đối với Liên Xô, khiến tình hình nước này đã khó khăn nay càng trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó, Mỹ thành lập "Khối Bắc Đại Tây Dương" (gọi tắt là NATO) để bao vây chính trị, tạo thế lực đồng minh chống XHCN. Để thoát khỏi áp lực nặng nề đó, Liên Bang Xô Viết đã thành lập "Khối quân sự Warszawa", tạo đối trọng với NATO và thành lập "Hội đồng tương trợ kinh tế" nhằm giải quyết tình trạng cô lập kinh tế của các nước phương Tây và Mỹ.[cần dẫn nguồn]

Sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn Kết tại Ba lan

Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Ba Lan trong năm 1980 đã dẫn đến sự hình thành của tổ chức công đoàn độc lập, Công đoàn Đoàn kết, do Lech Wałęsa lãnh đạo, dần dần đã trở thành một lực lượng chính trị đối lập. Ngày 13 tháng 12 năm 1981, sau khi Công đoàn Đoàn kết thể hiện rõ tư tưởng đối lập với chính phủ, Thủ tướng Ba Lan Wojciech Jaruzelski bắt đầu trấn áp Công đoàn Đoàn kết bằng cách tuyên bố thiết quân luật ở Ba Lan, đình chỉ hoạt động và tạm thời bắt giam tất cả các nhà lãnh đạo của tổ chức này.

Mikhail Gorbachev

Mặc dù một số quốc gia khối Đông đã nỗ lực cải cách kinh tế và chính trị, từ những năm 1950 (ví dụ Cách mạng Hungary năm 1956 và Mùa xuân Prague năm 1968), Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư tối cao Liên Xô năm 1985 với những chính sách cải cách xu hướng mở cửa, tự do hóa. Vào giữa những năm 1980, một thế hệ trẻ của Liên Xô xuất hiện, do Gorbachev lãnh đạo, đã bắt đầu ủng hộ những cải cách mới nhằm thoát khỏi tình trạng phát triển trì trệ dưới thời tổng bí thư Brezhnev. Sau nhiều thập kỷ, Liên Xô hiện đang phải đối mặt với một giai đoạn trì trệ kinh tế nghiêm trọng và cần cải tiến công nghệ cũng như vay vốn phương Tây để bù đắp cho sự lạc hậu ngày càng tăng. Các chi phí để duy trì quân sự, KGB, trợ cấp cho nước ngoài, vv.. khiến nền kinh tế bao cấp của Liên Xô ngày càng lâm vào trì trệ.

Những dấu hiệu đầu tiên của cuộc cải cách lớn là vào năm 1986 khi Gorbachev đưa ra chính sách glasnost (chính sách công khai hóa và minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của các cơ quan nhà nước và tự do thông tin và ngôn luận) và chính sách perestroika (chính sách cải cách chính trị và kinh tế) ở Liên Xô, để nhấn mạnh việc chống tham nhũng trong đội ngũ lãnh đạo Liên Xô và sự cần thiết của việc tái cơ cấu nền kinh tế. Vào mùa xuân năm 1989, Liên Xô không chỉ trải qua cuộc tranh luận truyền thông sôi nổi mà còn tổ chức các cuộc bầu cử đa ứng cử đầu tiên trong Đại hội nhân dân mới thành lập. Trong khi chính sách glasnost bề ngoài ủng hộ sự cởi mở và phê phán chính trị, những điều này chỉ được phép trong một phạm vi hẹp do nhà nước quyết định. Công chúng trong khối Đông vẫn phải chịu giám sát chính trị bởi các lực lượng cảnh sát.

Gorbachev kêu gọi các chính quyền Trung ương và chính quyền ở Đông Nam Âu áp dụng chính sách perestroika và glasnost ở các quốc gia của họ. Tuy nhiên, trong khi các nhà cải cách ở Hungary và Ba Lan được khuyến khích áp dụng bởi lực lượng tự do lan rộng từ khối phía đông, các nước khối Đông khác vẫn còn hoài nghi công khai và thể hiện sự ác cảm trong cải cách này. Những người tin rằng những sáng kiến cải cách của Gorbachev sẽ không trụ được lâu bao gồm các nhà cộng sản Erich Honecker của Đông Đức, Todor Zhivkov của Bulgaria, Gustáv Husák của Tiệp Khắc và Nicolae Ceauşescu của Romania đã lờ đi những lời kêu gọi thay đổi.[8] "Khi người hàng xóm của bạn dán giấy tường mới nó không có nghĩa là bạn cũng phải làm theo", đó là tuyên bố của một thành viên bộ chính trị Đông Đức.[9]

Nhìn lại nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô và bài học chống ” Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay

24/03/2021
Share
Facebook
Email
Print
Viber
Pinterest
Linkedin
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Sự sụp đổ của mô hình XHCN ở Liên Xô đầu những năm 90 của thế kỷ XX là một sự kiện nổi bật, làm thay đổi căn bản cục diện chính trị thế giới, là một tổn thất đặc biệt to lớn của những người cộng sản.

Sự kiện đó đã để lại nhiều bài học quý giá cho chúng ta, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở nước ta hiện nay.

Trong nửa sau của thế kỷ XX, trên thế giới đã hình thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, đủ sức kiềm chế mọi hành động đơn phương, hiếu chiến chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc. Nhờ đó mà hàng trăm dân tộc bị nô dịch, áp bức đã vùng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, làm suy sụp chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới.

Các nước XHCN mà đứng đầu là Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, ghi dấu ấn trong lịch sử văn minh nhân loại. Nhưng thật trớ trêu, một số Đảng Cộng sản cầm quyền, trước hết và chủ yếu là Đảng Cộng sản Liên Xô, lại để mất quyền lãnh đạo, làm cho hệ thống XHCN hùng mạnh được họ dẫn dắt sụp đổ, tan rã. Cần lưu ý rằng, Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo, Liên Xô tan rã mà không phải do một cuộc chiến tranh với chủ nghĩa đế quốc.

Năm 2005, trong Thông điệp Liên bang, Tổng thống Nga Putin cho rằng: “Liên Xô tan rã là tai họa chính trị nghiêm trọng nhất của thế kỷ XX. Đối với nhân dân Nga, đó là một bi kịch thực sự”.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Từ một siêu cường, Đảng cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo sau 74 năm

Một đảng do Lênin sáng lập. Một Đảng từng lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng Nga, xây dựng thành công Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên. Một đảng từng lãnh đạo nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước, bảo vệ thắng lợi thành quả cách mạng.

Một đảng đã lãnh đạo chiến thắng phát xít Đức trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cống hiến to lớn cho thắng lợi của thế giới trong chiến tranh thế giới thứ hai. Một đảng giành được nhiều thành tựu rực rỡ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội… Vì sao lại mất địa vị cầm quyền sau 74 năm? Đó là câu hỏi mà cho đến hôm nay vẫn còn mang ý nghĩa thời sự đối với những người cộng sản trên thế giới.

nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở liên xô là do…

Đã có rất nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về nguyên nhân Liên Xô tan rã. Nhưng tựu chung lại, các công trình nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô là sự kiện chính trị phức tạp do nhiều nguyên nhân tổng hợp gây nên. Bao gồm nhân tố trong và ngoài nước (bao gồm cả “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch), trong và ngoài Đảng, nhân tố lịch sử và hiện thực, nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị, nhân tố văn hóa, tư tưởng và cả nhân tố xã hội…

Thế nhưng, là rường cột của đất nước và nhân dân Liên Xô, là cốt thép của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, sự thoái hóa và biến chất trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô chính là một nhân tố chủ yếu dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của “toà thành trì” kiên cố, vĩ đại này.

Liên Xô tan rã cơ bản là do những sai lầm nghiêm trọng về chiến lược của Đảng Cộng sản Liên Xô, trước hết là trong công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp chiến lược. Ngay từ những năm 80 của thế kỷ XX, ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đã không tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ chủ chốt.

Các phần tử cơ hội, thực dụng về kinh tế và chính trị nắm giữ những trọng trách trong ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đã phản bội lý tưởng XHCN và lợi ích dân tộc, phản bội tư tưởng của V.I.Lênin về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo và làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô, làm cho lực lượng vũ trang bị “phi chính trị hóa”.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô 1988

Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Xô (từ 28-6 đến 1-7-1988), Gorbachev đã báo cáo về “Tình hình thực hiện nghị quyết Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô và nhiệm vụ đi sâu cải tổ”, trong đó đưa ra phương án cải tổ với mục tiêu xây dựng “CNXH dân chủ nhân đạo”.

Điều này về thực chất là phủ nhận triệt để chủ nghĩa Mác – Lênin, áp dụng thể chế chính trị TBCN, thực hiện đa đảng qua cái gọi là “phân chia lại quan hệ quyền lực giữa Đảng với Xô viết”, giải tán 23 ban trực thuộc Trung ương Đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô với tư cách Đảng cầm quyền. Hội nghị này là bước ngoặt cơ bản thay đổi thể chế chính trị của Liên Xô.

Trong báo cáo tại Đại hội XXVIII của Đảng Cộng sản Liên Xô (7-1990), Gorbachev công khai bài xích nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều lệ Đảng do Đại hội thông qua chính thức xóa bỏ nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động của Đảng. Ngày 24-8-1991, Gorbachev tự ý tuyên bố giải tán Ban Chấp hành Trung ương Đảng và từ chức Tổng bí thư.

Ngày 29-8-1991, với tư cách là Tổng thống Liên Xô, Gorbachev ra lệnh giải thể các cơ quan chính trị và từ 1-9-1991 chấm dứt các hoạt động của Đảng trong quân đội, làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa”. Ngày 25-12-1991, Gorbachev tuyên bố từ chức Tổng thống và bàn giao nút bấm toàn bộ kho vũ khí hạt nhân cho B.Elsin, đánh dấu sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô.

Sự thoái hóa của Đảng Cộng sản Liên Xô là do các đảng viên, trước hết và chủ yếu là các đảng viên giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt ở cấp cao, chưa đủ độ chín muồi về mặt chính trị, chưa thực sự giác ngộ về giai cấp, về lý tưởng cộng sản.

Những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi ích của Đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hóa, suy đồi về đạo đức, lối sống…

Việc nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô có ý nghĩa rất to lớn đối với các Đảng Cộng sản trên thế giới, nhất là đối với Đảng Cộng sản cầm quyền như Đảng ta.

Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh chúng ta đang quyết liệt tiến hành đấu tranh đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Qua đó chúng ta càng thấy rõ hơn sự nguy hiểm của tình trạng suy thoái trong cán bộ, đảng viên và vai trò, ý nghĩa quan trọng của cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở nước ta hiện nay. Đảng ta xác định, việc ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái này là nhiệm vụ vừa cơ bản lâu dài, vừa có ý nghĩa cấp bách trước mắt.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XII quyết định ban hành Nghị quyết “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, trong đó đã vạch rõ những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” (chỉ rõ 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ); nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng…

Nghị quyết chỉ rõ: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

Đại tá, PGS, TS Đinh Ngọc Hoa, PGĐ Học viện Chính trị CAND
2.5 / 5 ( 12 bình chọn )
NGUỒNVùng bưng 6 xã
  • TAGS
  • liên xô
  • sụp đổ
  • tự chuyển hóa
  • tự diễn biến
Share
Facebook
Email
Print
Viber
Pinterest
Linkedin
Bài trướcLễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Bài tiếp theoTriển lãm chuyên đề “Ngày hội non sông”
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

30 năm Liên Xô sụp đổ và bài học cho Việt Nam - Bài 1: Khi Đảng Cộng sản tự xóa bỏ chính mình

  • 27-10-2021 07:45:00
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

L.T.S: Chỉ còn ít ngày nữa là đến thời điểm tròn 30 năm Liên bang Xô viết sụp đổ, đánh dấu bằng buổi tối mùa đông lạnh giá 25-12-1991, lá cờ đỏ búa liềm từ đỉnh tháp Kremli sau 74 năm tung bay đã phải hạ xuống, thay vào đó là lá cờ ba sắc. Sự kiện được coi là cơn địa – chính trị chấn động thế kỷ XX này đã làm thay đổi sâu sắc thời đại chúng ta đang sống và để lại rất nhiều bài học đắt giá về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nhân dịp này, trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc loạt bài “30 năm Liên Xô sụp đổ và bài học cho Việt Nam” hi vọng góp phần phân tích, rút ra những điều thiết thực để tiếp tục thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên định thực hiện thắng lợi con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Trước khi thực hiện loạt bài này ít lâu, chúng tôi có dịp đến công tác tại Liên bang Nga và một vài nước thuộc Liên Xô. Trong chuyến đi ấy, có cảm xúc rất đặc biệt khi đến những địa danh như Điện Kremli, nơi lá cờ Liên bang Xô viết bị hạ xuống hay trước tòa nhà Duma Quốc gia Nga, nơi xe tăng từng xuất hiện cho thấy sự nguy hiểm của “phi chính trị hóa” quân đội.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Khi ấy, một câu hỏi cứ văng vẳng trong chúng tôi: Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô do Lênin sáng lập, từng lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng, xây dựng thành công Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên lại tan rã? Vì sao một đảng từng lãnh đạo nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, đánh bại phát-xít Đức trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại và đóng góp to lớn cho thắng lợi của thế giới trong Chiến tranh thế giới thứ hai lại mất địa vị cầm quyền sau 74 năm với bao trang sử vẻ vang?

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Chúng tôi đã tìm thấy phần nào câu trả lời chính từ những nhà báo tiền bối ở Báo Quân đội nhân dân.

Ngày 22-4-1990, hơn một năm trước ngày Liên Xô sụp đổ hoàn toàn, Thiếu tướng Trần Công Mân, Tổng Biên tập Báo Quân đội nhân dân trong bài viết “Cuộc chiến đấu chưa kết thúc” đã đưa ra cảnh báo chính xác khi xuất hiện trào lưu ở Liên Xô và nhiều nước XHCN, nhiều người né tránh, không nhắc đến Đảng Cộng sản, đến CNXH. Nêu ra và cũng tự trả lời, ông khẳng định niềm tin mãnh liệt vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tương lai của CNXH.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Không riêng ông, những nhà lãnh đạo lớn của đất nước ta từ ngày đó đã nhìn thấy “tử huyệt” dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và nhìn rõ Đảng ta, đất nước ta, nhân dân ta cần phải làm gì.

Tháng 4-1992, đồng chí Nguyễn Phú Trọng (nay là Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã có bài viết hết sức sâu sắc với tựa đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản. Đồng chí chỉ ra 5 nguyên nhân chủ yếu: Không xác lập đúng đắn sự lãnh đạo của Đảng, buông lơi công tác xây dựng Đảng; phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê nin là nền tảng tư tưởng của Đảng; Coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ;xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ;Từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Thật ra, sai lầm, sự chệch hướng đã diễn ra từ khá lâu. Nguyên nhân đến từ sự thay đổi lãnh đạo và đường hướng chiến lược của Đảng Cộng sản Liên Xô, được đánh dấu bằng Đại hội XX tháng 2-1956. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khrushchev đã trình bày một báo cáo bí mật mang tên "Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó", trong đó quy chụp, thêu dệt rất nhiều vấn đề và hạn chế hệ thống Đảng và Nhà nước Xô viết cho lãnh tụ quá cố Joseph Stalin.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Người dân Litva (nước thành viên của Liên Xô) tụ tập ở thủ đô Vilnius vào ngày 12-1-1990 để đòi tách khỏi Liên Xô. Litva là nước cộng hòa Xô viết đầu tiên tuyên bố độc lập.

Đồng thời, trong báo cáo chính trị chính thức của một Đại hội Đảng sau này cũng đề ra những sách lược mới nhằm "chung sống hòa bình", "thi đua hòa bình" và "quá độ hòa bình" với chủ nghĩa tư bản. Đây là một sự đảo ngược 180 độ trong quan điểm và chiến lược của Đảng Cộng sản Liên Xô so với chính họ trước đây, hay còn gọi là "xét lại".

Các nhà phân tích cao cấp của CIA trong báo cáo mang mã hiệu SRS-1 thực hiện không lâu sau sự kiện Đại hội XX đã cho rằng, ekip của Nikita Khrushchev hành động như vậy là để đập bỏ hoàn toàn di sản của thời đại Stalin, nhằm xây dựng một hệ thống mới của riêng họ. Trong những kỳ Đại hội Đảng tiếp theo, ekip của Tổng Bí thư Khrushchev tiếp tục sa đà trên con đường xét lại, đến Đại hội XXII năm 1961, họ còn xác định "nguy cơ chủ nghĩa tư bản hồi phục ở Liên Xô đã không còn", "Liên Xô sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong 20 năm", xây dựng "đảng toàn dân", "nhà nước toàn dân".

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev (giữa) đang nói chuyện với cư dân Vilnius, Litva, vào ngày 11-1-1990 trong một nỗ lực làm chậm lại quá trình ly khai của nước cộng hòa này.

Đây thực chất đều là những tính toán không có cơ sở và là sự đoạn tuyệt với học thuyết Marxist-Leninist chính thống về Đảng. Đó là một cuộc khủng hoảng đường lối chưa từng có trong lịch sử cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô.

Nikita Khrushchev buộc phải từ chức Tổng Bí thư vào năm 1964, nhưng sự hỗn loạn mà ekip của ông ta tạo ra đã được gieo mầm. Những cán bộ trẻ tuổi của Đảng Cộng sản Liên Xô vào những năm ấy như Mikhail Gorbachev, Alexander Yakovlev, Eduard Shevardnadze...đều đã bị tác động rất mạnh và có những chuyển biến về tư duy, quan điểm bởi cuộc xét lại của Khrushchev.

Lịch sử sau này định danh họ là "những đứa con của Đại hội XX". Chính những nhân vật này, khoảng 30 năm sau, khi trở thành những rường cột của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, đã một lần nữa tiếp tục cuộc cải tổ mà Nikita Khrushchev năm xưa còn dang dở. Cuộc cải tổ ở Liên Xô từ năm 1987 trở đi đã ngày càng xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội Marx- Lenin, kết cục tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô, tan rã Liên bang Xô viết là điều tất yếu.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Mikhail Gorbachev, người nắm giữ cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1985 đã chính thức phát động công cuộc cải tổ. Ban đầu, sự nghiệp này nhận được sự hưởng ứng và đồng thuận rất lớn trong đảng và trong xã hội sau khi Liên Xô đã phải trải qua một thập kỷ trì trệ.

Tuy nhiên, Mikhai Gorbachev cũng như nhiều "đứa con của Đại hội XX" khác, những cải cách của ông ta dần rời xa những vấn đề mang tính chất nguyên tắc. Từ năm 1987, ekip Gorbachev không ngừng sử dụng các thủ thuật chính trị để nhằm làm chia sẽ đảng, cô lập hóa nhóm người chống đối lại những cải tổ của họ.

Tại Đại hội Đại biểu Nhân dân bất thường lần thứ III giữa tháng 3-1990, họ đã thông qua nghị quyết mang tên Thiết lập chức vị tổng thống và sửa đổi bổ sung Hiến pháp Liên Xô. 7 điều trong Hiến pháp Liên Xô bị sửa đổi, trong đó nghiêm trọng nhất là Điều 6.

Từ "Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và là hạt nhân của chế độ chính trị, nhà nước và xã hội Liên Xô" bị sửa thành "Đảng Cộng sản Liên Xô, các chính đảng khác và công đoàn, đoàn thanh niên, đoàn thể xã hội và phong trào quần chúng khác, thông qua đại biểu của mình bầu vào Xô viết đại biểu nhân dân và các hình thức khác tham gia vạch ra chính sách của nhà nước Xô viết, công việc quản lý nhà nước và xã hội".

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Ảnh 1: Binh lính Xô viết đang kiểm tra các vũ khí tịch thu từ một tổ chức dân quân địa phương ở Kaunas, Litva vào ngày 26-3-1990. Tổng thống Gorbachev ra lệnh cho các công dân Litva giao nộp vũ khí cho giới chức Liên Xô.
Ảnh 2: Một người biểu tình Litva chạy phía trước một xe tăng của quân đội Liên Xô khi lực lượng này nỗ lực giành quyền kiểm soát đối với đài Phát thanh và Truyền hình Litva.
Ảnh 3: Một người biểu tình đang tranh cãi với một quân nhân Liên Xô vào cuối ngày 20-8-1991 khi chiếc xe thiết giáp này án ngữ lối vào trung tâm Moscow.
Ảnh: AFP; Ảnh 4: Xe tăng Liên Xô đỗ gần một lối vào điện Kremlin trên quảng trường Đỏ sau khi xảy ra vụ đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Gorbachev vào ngày 19-8-1991. Cuộc đảo chính vấp phải sự kháng cự của Boris Yeltsin, khi đó là lãnh đạo của nước cộng hòa Xô viết Nga.
Ảnh 5: Một đám đông của phe “dân chủ” bu lấy một xe thiết giáp chở quân của phe đảo chính. Vài người còn trèo lên xe này để cản trở nó tiến về quảng trường Đỏ, vào ngày 19-8-1991.

Thay đổi này đồng nghĩa với hành động thủ tiêu địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với nhà nước và xã hội về mặt luật pháp, chấp nhận đa nguyên, đa đảng chính trị trong nước.

Xét trên lập trường của chủ nghĩa Lenin, đây là sự phản bội quyết định nhất. Trước đó, tháng 2-1986, sau hơn một năm Gorbachev được bầu làm Tổng Bí thư, Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ 27. Sau đó không lâu, Gorbachev đưa ra khẩu hiệu “Dân chủ hóa tính công khai, dư luận đa nguyên hóa” và lấy đó làm bước đột phá mở ra cơ chế cải cách.

Trong báo cáo đọc tại phiên họp Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19, Gorbachev đưa ra phương châm chủ yếu của cải tổ thể chế chính trị Liên Xô không chỉ là đề xướng vấn đề dân chủ hóa tính công khai và dư luận đa nguyên hóa. Mà là phải loại bỏ vấn đề Đảng Cộng sản Liên Xô là hạt nhân của thể chế chính trị Liên Xô. Là vấn đề phải chuyển trung tâm quyền lực nhà nước từ trong tay Đảng Cộng sản sang Xô-viết.

Thể chế đa đảng và thể chế dân chủ nghị viện, ý thức hệ đa nguyên chính thức trở thành phương châm chỉ đạo của Đảng khi Đại hội đại biểu lần thứ 28 (Đại hội cuối cùng trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô trước khi Liên Xô tan rã) thông qua tuyên bố có tính cương lĩnh “tiến tới Xã hội chủ nghĩa dân chủ hóa nhân đạo”.

Từ đây, hàng loạt các tổ chức chống phá được thành lập, phát triển và thực hiện cuộc đấu tranh với Đảng Cộng sản Liên Xô. “Sửa đổi Hiến pháp chỉ vẻn vẹn một năm, đã có khoảng 20 chính đảng cấp Liên bang, có hơn 500 chính đảng cấp nước cộng hòa. Hầu hết trong đó trở thành lực lượng chính trị cuối cùng thúc đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô bị hạ bệ và giải tán” – Kusov, Phó chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Nga.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Ảnh trái: Tổng thống Liên Xô Gorbachev phát biểu trong một đoạn băng thu ngày 19-8-1991, ngày thứ 2 ông bị lực lượng đảo chính giam giữ. Ông ta bị thay thế bằng Gennady Yanayev.
Ảnh phải: Tổng thống Gorbachev có mặt tại trụ sở Quốc hội Liên Xô ngay sau khi thoát khỏi tình trạng bị quản thúc trong cuộc đảo chính tháng 8-1991.

Được sự cổ vũ của phương châm dân chủ hóa tính công khai và thể chế đa nguyên, đa đảng của Gorbachev, tinh thần dân tộc chủ nghĩa và khuynh hướng ly khai ở các nước cộng hòa thuộc Liên Xô ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ. Tổ chức Đảng ở các nước này cũng ngày càng xa rời trung ương.

Từ năm 1989, Đảng Cộng sản của một số nước cộng hòa như Latvia, Litva, Estonia… đã yêu cầu tách khỏi hoặc độc lập với Đảng Cộng sản Liên Xô. Ngày 7 tháng 12 năm 1989, Đảng Cộng sản Litva đã tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô và từ bỏ yêu sách của mình để có một "vai trò lãnh đạo" hiến pháp trong chính trị. Lần đầu tiên ở Liên Xô, Đảng Cộng sản cầm quyền của Litva chính thức độc lập khỏi sự kiểm soát của Moscow.

Và cũng chỉ một năm sau Đảng Cộng sản đã mất quyền lực hoàn toàn trong các cuộc bầu cử quốc hội đa đảng, Vytautas Landsbergis trở thành tổng thống phi Cộng sản đầu tiên của Litva kể từ khi bị sáp nhập vào Liên Xô.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Quốc kỳ búa liềm của Liên Xô tung bay trên nóc điện Kremlin vào tối Thứ Bảy, ngày 21-12-1991. Vào tối 25-12 năm đó, lá cờ này được hạ xuống lần đầu tiên và được thay bằng quốc kỳ Nga. Liên Xô chính thức giải thể vào ngày 26-12-1991.

Về sau, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tự giải tán trước sự thúc ép của Gorbachev. Kết quả là các tòa nhà làm việc, trung tâm chính trị xã hội, cơ sở nghiên cứu cùng nhiều công trình khác của Đảng Cộng sản Liên Xô đều bị nhà cầm quyền Nga niêm phong và tịch thu.

Tổ chức đảng ở Nga và các nước cộng hòa Liên Xô nhanh chóng bị giải tán hoặc bị cấm hoạt động. Đảng Cộng sản Liên Xô với gần 20 triệu đảng viên đã đánh mất địa vị cầm quyền sau 74 năm. Điều đáng nói là các đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô dường như đã “buông xuôi” , không hề tiến hành bất cứ một hoạt động phản đối quy mô lớn nào nhằm bảo vệ tổ chức đảng của mình.

Mất đảng tất yếu dẫn đến mất nước. Ngày 25-12-1991, Gorbachev đến Phủ Tổng thống ở Điện Kremli chuẩn bị đơn từ chức. 19 giờ, Gorbachev lên Đài truyền hình trung ương và Đài CNN (Mỹ) đọc thư gửi nhân dân Liên Xô và toàn thế giới, tuyên bố từ chức, ngừng mọi hoạt động của mình với chức vụ Tổng thống Liên Xô. Liên bang Xô – viết chính thức tan rã.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Một gia đình ở Moscow theo dõi Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev đọc diễn văn từ chức trên truyền hình nhà nước vào ngày 25-12-1991, khi mà Liên Xô trên thực tế đã tan rã từ trước đó, do các nước thành viên đã lần lượt tách ra.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

30 năm sau cơn địa chấn chính trị lớn nhất thế kỷ XX ấy, tháng 5 vừa qua, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bài viết quan trọng: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

Tổng Bí thư nhận định: “…Từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá.

Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác”.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Hai em bé lem luốc nhìn ra ngoài cửa sổ ở một khu khai thác mỏ than đá và sản xuất thép ở vùng Siberia trong thời kỳ kinh tế khó khăn trên diện rộng ở Liên Xô.

Song trên cơ sở phân tích toàn diện các khía cạnh lý luận và thực tiễn, Tổng Bí thư khẳng định: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Bài học xương máu từ sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô sau 30 năm nhìn lại càng cho thấy, nhân dân không hề từ bỏ chủ nghĩa xã hội mà sự phản bội mang tính chất quyết định của một số nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã tước đoạt đi chế độ xã hội chủ nghĩa ở đất nước này. Việc sửa đổi điều 6 Hiến pháp Liên Xô năm 1990 cũng do chính lực lượng này chủ trì, không một thế lực thù địch bên ngoài nào có khả năng thực hiện được điều này.

GS, TS Phạm Quang Minh, nguyên Hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng chỉ rõ rằng không thể có sự cáo chung của Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam. Bởi theo ông: “Cho đến nay, mẫu hình kinh tế-chính trị đổi mới ở Việt Nam là Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Từ góc độ chính trị, thể chế chính trị được xây dựng trên nguyên tắc dân chủ tập trung dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Quá trình dân chủ hóa đang từng bước được thực hiện một cách tiệm tiến với các biểu hiện như thực hiện phê bình và tự phê bình trong Đảng, đấu tranh với các biểu hiện diễn biến và tự diễn biến, tham nhũng, thực hiện các cuộc chất vấn và bỏ phiếu tín nhiệm trong quốc hội, hình thành các tổ chức hội nghề nghiệp bảo vệ quyền lợi của nhân dân”.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Ảnh 1: Công dân Nga xếp hàng để mua thực phẩm khan hiếm, vào tháng 11-1991, chỉ một tháng trước khi siêu cường Liên Xô sụp đổ;
Ảnh 2: Kinh tế Liên Xô vào cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990 khủng hoảng nặng nề. Trong ảnh, các phụ nữ này đang đổi chai rượu vodka rỗng lấy tiền lẻ tại một điểm tái chế;
Ảnh 3: Trong giai đoạn này, không hiếm phụ nữ Liên Xô chấp nhận bán thân nuôi miệng. Trong ảnh là một cô gái 18 tuổi được cho là gái mại dâm, trên đường phố Moscow (Nga) vào cuối năm 1991;
Ảnh 4: Bà lão mua thịt gà tại quầy ngoài trời.

GS, TS. Lưu Văn Sùng, nguyên Viện trưởng Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh rút ra bài học: Xác định kiên định và tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, vì đây là nhân tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình thực hiện cải tổ, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định xóa bỏ Điều 6, Hiến pháp Liên Xô về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực chất, đó không chỉ là sự tước quyền lãnh đạo của Đảng về mặt pháp lý, thừa nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tạo điều kiện cho các lực lượng chính trị khác vươn lên đoạt quyền, mà còn là sự từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Vẫn theo GS, TS. Lưu Văn Sùng, cùng với đó, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, bởi chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ là nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn là cơ sở để xây dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội và nhờ đó mới có thể thực hiện được mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Ngược lại, nếu từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu dẫn đến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tiếp nhận hệ tư tưởng tư sản, như Goóc-ba-chốp đã thực hiện trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô trước đây.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Cung điện Mùa Đông ở Xanhpetecbua.

Phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội nói chung, nhất là đối với lực lượng vũ trang (quân đội và công an). Đảng phải lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp lực lượng vũ trang.

Bởi vì, nếu lực lượng vũ trang bị trung lập hóa, chỉ có trách nhiệm bảo vệ độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, không phụ thuộc vào đảng phái nào, thì thực chất là tước quyền lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang. Cách thức này đã được áp dụng ở Liên Xô thời kỳ cải tổ.

Trong hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc gia, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn gần 30 năm qua đã chứng minh đó là quan điểm đúng đắn. Thực tiễn cũng cho thấy, việc thực hiện công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây có sự chi phối và sao chép tư tưởng chính trị từ bên ngoài, vì vậy đã gây nên sự sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.

Công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa đổi mới, vừa ổn định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, sau đó đến đổi mới về chính trị. Công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây đã thực hiện một cách cấp thời, thiếu trình tự, cụ thể là: ban đầu đổi mới doanh nghiệp, rồi đến 100 ngày thực hiện tư nhân hóa, áp dụng nền dân chủ tư sản vào xã hội Xô-viết,... Kết cục, dẫn đến hỗn loạn và sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa” – GS, TS Lưu Văn Sùng phân tích.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Cung điện Mùa Hè ở nước Nga hôm nay - nơi còn lưu dấu vết vàng son của những cuộc cách mạng thời Xô viết.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

30 năm Liên Xô sụp đổ và bài học cho Việt Nam - Bài 4: Những vũ khí tư tưởng mang hàng triệu vi trùng

  • 30-10-2021 15:54:00

“Hàng triệu ấn phẩm mang vi trùng” là hình ảnh mà nhà văn Yury Boldarev đã nhắc đến khi nhìn lại những ngày Liên Xô sụp đổ. Những vũ khí tư tưởng ấy đã làm được điều mà nhiều quân đội châu Âu có trang bị tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được khi xâm lược Liên Xô vào những năm 1940.

>>Bài 1: Khi Đảng Cộng sản tự xóa bỏ chính mình

>> Bài 2: Khi “then chốt của then chốt” bị…gài chốt

>>Bài 3: Đỉnh cao lao dốc “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Nhưng trong Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đó, đã có những người không im lặng. Ngày 13-3-1988, báo “Nước Nga Xô viết” đăng bức thư có nhan đề “Tôi không thể từ bỏ các nguyên tắc” của bà Nina Andreeva, giảng viên Trường Đại học công nghệ Leningrad mang tên Lensovet. Bức thư lên án các tài liệu xuất hiện trên báo chí sau khi công bố chính sách “cải tổ”, bởi những tài liệu này chỉ trích xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là chính sách của Stalin. Bà còn phê phán trào lưu suy ngẫm lại lịch sử, chỉ rõ nó thực chất là dòng nước ngược nhằm bôi đen Liên Xô xã hội chủ nghĩa.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Nội dung bức thư “Tôi không thể từ bỏ các nguyên tắc” của bà Nina Andreeva đăng trên báo “Nước Nga Xô viết”.

“Cùng với tất cả người dân Liên Xô, tôi bày tỏ sự tức giận và phẫn nộ trước những vụ trấn áp diễn ra trong những năm 1930 và 1940 do lỗi của ban lãnh đạo đảng và nhà nước lúc bấy giờ. Nhưng, lương tri thì kiên quyết phản đối việc chỉ tô vẽ một màu cho các sự kiện trái ngược, hiện đã bắt đầu phổ biến ở một số cơ quan báo chí. Tôi ủng hộ lời kêu gọi của Đảng để bảo vệ danh dự và nhân phẩm của những người khai sáng chủ nghĩa xã hội. Tôi nghĩ rằng, chính từ những cương vị cấp Đảng này, chúng ta phải nhìn nhận vai trò lịch sử của tất cả các nhà lãnh đạo Đảng và đất nước, trong đó có Stalin”, bức thư có đoạn viết.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Đau lòng thay, thay vì phải ủng hộ ý kiến chỉ đúng “tim đen” của trào lưu “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” này, Bộ Chính trị lại triệu tập hội nghị khẩn cấp với mục tiêu xử lý “thế lực chống đối cải tổ”. Ngày 5-4-1988, báo Sự Thật đăng bài phản kích Nina Andreeva, rồi nhiều cơ quan báo chí khác đồng loạt phản kích. Không dừng ở đó, để “tát nước theo mưa”, báo chí còn xuyên tạc lịch sử Đảng, phủ định Cách mạng Tháng Mười, Chủ nghĩa Lênin và chính Lãnh tụ Lênin.

Thêm một bước sa lầy hơn, họ bãi bỏ môn học Chủ nghĩa Mác-Lênin trong nhà trường. Cơn lốc xét lại lịch sử ùa vào mọi trường học, thành phố, nông trường. Ngoài báo Đảng, xuất hiện thêm những tờ báo gọi là “vì dân”, “cấp tiến” như: Họa báo, Tia lửa và Tin tức Moscow, công khai tấn công, phỉ báng những tượng đài ý thức hệ Xô viết.

Một bộ máy thông tin đại chúng đồ sộ được sử dụng vì mục đích này. Cơ quan thông tin đối ngoại của Mỹ có hơn 8.000 nhân viên, xuất bản 12 tạp chí bằng 27 ngôn ngữ từ phương Tây nhằm vào các nước xã hội chủ nghĩa.

Các đài phát thanh bằng hàng chục thứ tiếng ngày đêm xuyên tạc và bôi đen Chủ nghĩa Mác- Lênin. Tất cả tạo thành làn sóng chống bao trùm lên đất nước Xô viết. Chúng cho rằng, đó là mưu sách “chiến thắng không cần đến chiến tranh”.

Khi đó, đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) đã từng có bài viết: “Chúng ta cần phá hoại sự ổn định của Liên Xô và các nước vệ tinh, làm nảy sinh sự bất hoà giữa nhân dân và chính phủ của họ...

Chúng ta cần hết sức cố gắng khoan sâu rạn nứt giữa những người lãnh đạo của tập đoàn cộng sản khiến cho họ bất mãn và nghi ngờ lẫn nhau. Chúng ta cần thổi bùng ngọn lửa của chủ nghĩa dân tộc, khuyến khích sự phục hồi tình cảm tôn giáo đằng sau bức màn sắt”.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Ảnh 1: Người dân và binh sĩ Hồng quân Liên Xô ăn mừng ngày Chiến thắng 9-5-1945 gần rạp Bolshoi tại thủ đô Moscow. Ảnh: Sputnik; Ảnh 2: Pháo hoa đêm 9-5-1945 bắn tại Quảng trường Đỏ mừng chiến thắng phát xít. Ảnh: Sputnik; Ảnh 3: Người dân Moscow tụ tập gần điện Kremlin ăn mừng chiến thắng phát xít. Ảnh: Sputnik.

Sự thực là những năm trước khi Liên Xô sụp đổ, các tờ báo, thậm chí cả đảng viên, cũng lợi dụng tự do dân chủ chĩa mũi dùi vào Đảng, đánh quỵ uy tín của Đảng.

Ngày 28-12-1987, bài xã luận trên Báo Sự thật cho biết: Liên Xô khi đó có trên 30.000 tổ chức đoàn thể phi chính thức. Những tổ chức này ngang nhiên tuyên truyền chống Cộng, hô hào thành lập đảng đối lập và công đoàn độc lập. Thay vì đem những thông tin định hướng xã hội, những tờ bào này luôn hô hào kích động “Tự do, dân chủ, nhân quyền”. Trong khi đó, Đảng để tuột mất truyền thông khỏi bàn tay của mình.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Gorbachev với tư cách Tổng Bí thư đã mở toang cánh cửa để phương Tây hóa, phân hóa Liên Xô là sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để thẩm thấu ý thức hệ. Hai đài phát thanh được thành lập ở Tây Âu nhằm vào Liên Xô, là đài Châu Âu Tự do và đài Tự do, hằng ngày phát thanh bằng 6 thứ tiếng, đưa tin về các sự kiện quốc tế, các sự kiện tại Liên Xô và các nước Đông Âu; tuyên truyền thành tựu, lối sống và giá trị quan của xã hội phương Tây.

Bên cạnh đó, đài BBC phát bằng 40 thứ tiếng, rồi đài Sóng điện Đức bằng 35 thứ tiếng. Bốn đài phát thanh này hằng ngày chĩa vào Liên Xô và Đông Âu, với trọng điểm là phủ định lịch sử cách mạng Liên Xô, phóng đại, thổi phồng những vấn đề xã hội của Liên Xô và các nước Đông Âu, kích động tâm lý bất mãn, hướng sự bất mãn này vào Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới
Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXVII, năm 1986. Ảnh: American Heritage.

Người ta tài trợ cho một số cơ quan nghiên cứu lập phương án đánh vào những tình cảm nhân dân Liên Xô dành cho Lãnh tụ Lênin và Stalin. Các tác phẩm chống Lênin và Stalin xuất hiện đầy rẫy trên các báo, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh... Họ kích động nhân dân Liên Xô, đề nghị mai táng thi hài Lênin.

Phương Tây còn ca tụng tư duy cải tổ của Gorbachev, nhằm làm suy yếu và hủy bỏ uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô, của chế độ xã hội chủ nghĩa, tuyên truyền cho cái gọi là cuộc sống tươi đẹp ở phương Tây và tính ưu việt của chế độ tư bản. Gorbachev không những mất cảnh giác, mà còn cổ vũ việc tiếp nhận ảnh hưởng từ phương Tây.

Tại cuộc họp của Bộ Chính trị năm 1985, Gorbachev đã nói: “Người Liên Xô phải tiếp xúc trực tiếp với người nước ngoài, đừng sợ, rồi mọi người sẽ thấy thế giới thật bao la, muôn màu muôn vẻ”.

Tháng 12-1988, Liên Xô ngừng gây nhiễu những đài phát thanh phương Tây vốn được coi là đài phản động, đồng thời chi 4 triệu rúp nhập khẩu... báo chí của phương Tây về bán công khai, điều này đã tiếp thêm sức tiến công của phương Tây vào Liên Xô.

Trước và sau những năm 1990, trào lưu tư tưởng vứt bỏ chủ nghĩa xã hội trong xã hội Liên Xô lên đến cao trào. Và không ít thế lực chính trị quyết định quay lưng với chủ nghĩa xã hội, đi thẳng đến chủ nghĩa tư bản.

Điều này hoàn toàn phù hợp với định nghĩa của phương Tây về cuộc tuyên truyền hữu hiệu nhất là “tuyên truyền để đối tượng đi theo hướng mà ta chỉ định nhưng lại làm cho đối tượng lầm tưởng rằng hướng đó là do đối tượng tự quyết định”.

Năm 1994, nhà văn Nga Yury Boldarev đã nhìn lại 6 năm bão táp trên trận địa tư tưởng ấy và chua chát nhận xét: “Trong 6 năm, báo chí đã thực hiện được mục tiêu mà quân đội châu Âu có trang bị tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được, khi xâm lược đất nước ta bằng lửa và kiếm vào những năm 1940. Quân đội đó có thiết bị kỹ thuật hàng đầu, nhưng thiếu một thứ. Đó là hàng triệu ấn phẩm mang vi trùng”.

Sau này, tháng 2-2012, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng từng phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” rằng: "Chính các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc đã tổng kết, có việc 100 máy bay chiến đấu không thực hiện nổi nhưng chỉ cần 10 sứ giả là có thể hoàn thành; một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước; ngày nay làn sóng điện thay thế các thanh gươm; cây bút là phương tiện đi vào trái tim, khối óc con người; 1 USD chi cho tuyên truyền thì có tác dụng ngang với 5 USD chi cho quốc phòng; kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo là 4 đòn đột phá, 4 mũi xung kích chọc thủng mặt trận tư tưởng chính trị”.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Ảnh 1: Phụ nữ Siberia ngồi trước nhà trong không khí ảm đạm. Ảnh 2: Quầy thu ngân tại một cửa hàng ở Moscow vào năm 1991, khi Liên Xô cận kề sự tan rã hoàn toàn. Ảnh 3: Bên trong một phòng bệnh nhân của một bệnh viện xuống cấp ở Moscow vào tháng 7/1991. Ảnh 4: Các nữ công nhân mỏ ở Novokuznetsk trong giờ giải lao. Không một nụ cười trên môi. Ảnh: Peter Turnley.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev phát động chính sách “cải tổ”, hai “công cụ hỗ trợ” rất quan trọng được các cố vấn của ông ta tham mưu, đề xuất sử dụng là thúc đẩy “đa nguyên ý kiến” và “công khai hóa” trong xã hội Xô viết. Lúc đầu cũng chỉ là “đa nguyên ý kiến”, chưa phải là đa đảng và “công khai hóa” trong lĩnh vực báo chí – xuất bản, chứ chưa chạm đến công khai, minh bạch trong quản lý xã hội, quản lý kinh tế…

Hai “công cụ hỗ trợ” này đã giúp Mikhail Gorbachev và ê-kíp của ông ta “bật đèn xanh” rất thoáng cho những phát biểu công kích Đảng và chế độ Xô viết, xuyên tạc lịch sử đất nước, bôi nhọ nhiều nhà lãnh đạo, người có công trong việc tạo lập, xây dựng và bảo vệ Nhà nước Liên bang Xô viết.

Trong điều kiện cải tổ, truyền hình, phát thanh, nhà xuất bản, báo chí Liên Xô dường như được “tự do” hoạt động, hàng loạt chương trình, ấn phẩm đủ thể loại được cho là “dũng cảm” mổ xẻ những trang “đen tối” của Đảng Cộng sản, Nhà nước và quân đội Xô viết.

Cùng với đó, đường phố, quảng trường, công viên, nhất là tại những đô thị lớn như thủ đô Moscow, thành phố Saint Petersburg, trở thành nơi tập hợp, thành diễn đàn của các phe nhóm chống Đảng Cộng sản Liên Xô. “Đa nguyên ý kiến” và “công khai hóa” lan rộng, thì các đảng chính trị mới đối lập với Đảng Cộng sản Liên Xô liên tiếp ra đời, tất cả đều đòi thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã được thể chế hóa trong Hiến pháp.

Một số cơ quan báo chí Liên Xô khi đó vẫn kiên định lập trường kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa xã hội và Nhà nước Liên bang Xô viết thì bị coi là “bảo thủ”, phải hứng chịu những cuộc công kích dữ dội, thậm chí lực lượng chống Đảng Cộng sản Liên Xô có những ngày tổ chức mua hầu hết số lượng báo chí xuất bản, dồn lại châm lửa đốt rụi tại các địa điểm công cộng.

Nhà báo Nguyễn Đăng Phát, Phóng viên thường trú Thông tấn xã Việt Nam tại Liên Xô/Nga giai đoạn 1989-1993, người chứng kiến những năm tồn tại cuối cùng của Liên bang Xô viết, Tổng Thư ký Hội Hữu nghị Việt-Nga, nhớ lại: “Dựa trên “tâm trạng xã hội” do chính sách đa nguyên ý kiến và công khai hóa khuấy động lên như vậy, hoạt động nghị trường trong khuôn khổ Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô và Xô viết Tối cao Liên Xô cũng sục sôi như không khí ngoài đường phố. “Nóng” nhất là những cuộc tranh cãi, những lời hô hào đòi bỏ Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô (về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô).

Rốt cuộc, Điều 6 bị xóa bỏ, Đảng Cộng sản Liên Xô trở thành một đảng “bình thường” như những chính đảng khác đã ra đời ồ ạt như nấm mọc sau cơn mưa… Từ đây, đường đến chỗ Liên bang Xô viết sụp đổ không còn xa nữa”.

Ngay sau khi Mikhail Gorbachev trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô vào năm 1985, Alexander Yakovlev, người được mệnh danh là “kiến trúc sư cải tổ”, “cha đẻ công khai hóa” của Liên Xô và “điệp viên có ảnh hưởng” của Mỹ, đã nhanh chóng được đề bạt làm Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương.

Dưới sự tác động và chỉ đạo của ông ta, nhiều tờ báo hàng đầu và có ảnh hưởng lớn của Liên Xô lúc đó đã được thay ban lãnh đạo bằng những người ủng hộ chính sách “cải tổ” do Gorbachev đưa ra.

Chính điều này đã tạo điều kiện cho truyền thông “trở mặt” và bắt đầu thao túng dư luận, nhằm thay đổi nhận thức và tư tưởng của mỗi người dân. Một số tờ báo và tạp chí “cấp tiến” quay sang đả kích và bôi nhọ chế độ xã hội chủ nghĩa, khiến nhận thức và tư tưởng của dân chúng bị lung lay.

Dưới sự điều khiển báo chí của Yakovlev, quá trình phá hoại Liên Xô vào cuối thập niên 1980 diễn ra không giống như một cuộc xung đột giai cấp, mà là sự thay đổi âm thầm trong nhận thức và tư tưởng của mỗi người. Được sử ủng hộ của Gorbachev, ông ta đã mặc sức phá hoại nền tảng văn hóa con người Xô viết bằng cách “giết dần giết mòn” nền tảng đó.

Sau khi chương trình “công khai hóa” bắt đầu có hiệu lực từ năm 1986, một số lượng lớn các tác phẩm văn hóa, vốn trước đây từng bị cấm xuất bản, đã được tung ra trước công chúng.

Ban đầu, người dân Liên Xô không biết tỏ thái độ thế nào với chính sách “công khai hóa”, cũng như đưa ra đánh giá như thế nào về những gì đang diễn ra. Mọi người chưa thể hình dung được những hậu quả cuối cùng sẽ ra sao khi bãi bỏ kiểm duyệt như vậy.

Người ta cho phép phát hành những tác phẩm công khai chỉ trích chính quyền Xô viết và mô hình chính quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó có những tác phẩm như: “Những đứa trẻ Arbat” của Rybakov, “Biến mất” của Trifonov, “Cuộc sống và số phận” của Grossman…

Cùng với các tác phẩm nghệ thuật, báo chí số ra theo kỳ cũng trở nên phổ biến, trong đó có “Luận chứng và sự kiện” (được đưa vào sách kỷ lục Guinness về số lượng phát hành lớn nhất thế giới với 30 triệu bản mỗi ngày), “Sự thật”, “Tin tức Moscow”, “Thế giới mới”, “Lao động”... Các chương trình truyền hình “Nhìn nhận”, “Trước và sau nửa đêm”, “Bánh xe thứ năm” trở nên rất nổi tiếng. Bảng xếp hạng các chương trình truyền hình cho thấy chúng chiếm những vị trí đầu tiên.

Qua những chương trình truyền hình này, khắp mọi nơi người ta bắt đầu bàn tán về sự không hoàn hảo của hệ thống xã hội chủ nghĩa, những ưu điểm của phương Tây, thậm chí còn xét lại lịch sử khi đề cập đến vai trò lãnh đạo của Stalin và tác hại của Cách mạng Tháng Mười đối với nước Nga. Tại thời điểm đó, thể hiện rõ nhất sự thay đổi nhanh chóng trong tư duy và nhận thức của người dân.

“Công khai hóa” đã dần dần phá hủy toàn bộ nguyên tắc và nền tảng vốn đã hình thành từ trước đó rất lâu. Báo chí bắt đầu đăng tải những bài viết theo chính sách “ngu dân” về đề tài lịch sử và kinh tế kiểu như: “Cả đời các bạn chỉ được nghe những điều giả dối, nhưng bây giờ chúng tôi sẽ nói ra cho các bạn toàn bộ sự thật”.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Bộ máy tuyên truyền của Liên Xô từng được coi là một trong những bộ máy hoạt động mạnh và có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền cũng cần được đổi mới phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển xã hội, trong đó có sự phát triển văn hóa quần chúng ở phương Tây.

Nếu Liên Xô không cản trở dòng nhạc mới và phong cách thời trang, mà ngược lại, nên củng cố và phát triển xu hướng này, thì nước này đã cho thấy rằng, không chỉ trong vũ trụ, mà còn trong những lĩnh vực này họ là người đi tiên phong trên thế giới. Liên Xô lẽ ra phải đi đầu trong mọi lĩnh vực, mặc dù chế độ Xô viết được coi là ở thời kỳ tốt nhất vào thời điểm đó.

Trong những thập niên từ 1960 đến 1980, nước này đã sản xuất ra những bộ phim hay nhất được đưa vào “Quỹ văn hóa thế giới vàng”. Thậm chí ngày nay, nhiều người vẫn say sưa và thích thú xem đi xem lại những bộ phim này. Nhưng cuối cùng, thời trang và âm nhạc phương Tây đã lấn át mọi thứ. Đối với thiếu niên Liên Xô, việc nghe nhạc trong nước hay mặc trang phục Liên Xô đi dạo sẽ làm mất đi thể diện của họ.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Phần lớn người dân Liên Xô lúc đó, do tác động của truyền thông báo chí với chính sách “công khai hóa”, nên muốn có cuộc sống “như ở phương Tây”. Và họ đã đạt được điều đó, nhưng rồi cuối cùng nhận ra rằng, những chiếc quần jean không phải là giá trị cơ bản trong cuộc sống. Các học thuyết, mà trước hết là chủ nghĩa Mác-Lênin, đã bị bỏ lại phía sau rất xa, thậm chí còn bị lãng quên.

“Học thuyết Mác-Lênin nhất định phải được phát triển có tính đến những thay đổi diễn ra trên thế giới, nhưng hiện không ai làm điều này và cũng không có những nhà tư tưởng như vậy để làm. Nhưng Lênin vẫn không ở lại phía sau chúng ta, mà là đang ở phía trước.

Rồi thời đại của Người chắc chắn sẽ quay trở lại sau bao năm bị lãng quên, cố tình im lặng về nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nước Nga này”, ông Grigory Trofimchuk, chuyên gia trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, quốc phòng và an ninh, Chủ tịch Hội đồng chuyên gia Quỹ nghiên cứu Á-Âu, nhận định.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng như thế nào đến phong trào cách mạng thế giới

Sinh thời, V.I. Lênin từng nêu một luận điểm nổi tiếng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta thì luôn đề cao giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.

Người căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”; “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng...”. Theo Người: “Tự vệ là bảo vệ lấy mình, lấy gia đình mình, rồi đến thành phố mình, nước mình”.

Trong giai đoạn hiện nay cũng như vừa qua, đã có nhiều biểu hiện trào lưu xét lại lịch sử, phủ nhận quá khứ hết sức nguy hiểm. Không phải ngẫu nhiên mà Đảng ta xác định một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” là: “Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”.

Chúng ta phải làm tốt hơn nữa việc giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, để lịch sử như tấm gương soi, giúp thế hệ sau soi vào cả quá khứ và hiện tại, tương lai với sự trân trọng, biết ơn, rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá.

Đối với báo chí, truyền thông, phải luôn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để phát huy tốt nhất vai trò là vũ khí tư tưởng sắc bén của Ðảng và Nhà nước, là cầu nối giữa Ðảng, Nhà nước với nhân dân, là phương tiện quan trọng tuyên truyền phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị, là diễn đàn để nhân dân tham gia quản lý xã hội, giám sát quyền lực.

Bài học của Đảng Cộng sản Liên Xô 30 năm mà như mới hôm qua. Mới đây nhất, trong Hội thảo khoa học “Báo chí với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” được tổ chức tại Hà Nội, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, đã nhấn mạnh: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị. Mỗi cơ quan báo chí phải là “pháo đài” chính trị tư tưởng vững chắc trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”.