Tại sao phải trợ cấp xuất khẩu
Ngày đăng:
25/11/2021
Trả lời:
0
Lượt xem:
126
Trợ cấp và các biện pháp đối kháng trong hệ thống các biện pháp phòng vệ thương mạiHiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng ra đời dựa trên Hiệp định về Giải thích và Áp dụng Điều khoản VI, XVI và XXIII đã được thảo luận trước đó tại Vòng đàm phán Tokyo. Không như phiên bản hiệp định trước đó, Hiệp định này quy định định nghĩa về trợ cấp và đưa ra khái niệm về trợ cấp riêng biệt - trong hầu hết các trường hợp, là trợ cấp áp dụng riêng đối với một doanh nghiệp, một ngành, một nhóm doanh nghiệp hoặc nhóm ngành trong phạm vi quyền hạn của các cơ quan có thẩm quyền cấp trợ cấp. Hiệp định đưa ra các nguyên tắc xác định trợ cấp riêng biệt. Hiệp định này quy định 3 loại trợ cấp. Thứ nhất là trợ cấp bị cấm gồm những khoản trợ cấp sau: khối lượng trợ cấp, theo luật hoặc trong thực tế, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, căn cứ vào kết quả xuất khẩu; khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng ngoại. Trợ cấp bị cấm là đối tượng của những vụ kiện giải quyết tranh chấp. Điểm nổi bật là lịch trình giải quyết của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) nhanh gọn, và nếu cơ quan này nhận thấy rằng khoản trợ cấp này là trợ cấp bị cấm, ngay lập tức phải thu hồi lệnh trợ cấp. Nếu phán quyết không được thực hiện trong thời gian quy định, thành viên khiếu nại được quyền áp dụng các biện pháp trả đũa.(Xem quy định cụ thể tại phần Giải quyết tranh chấp). Thứ hai là Trợ cấp có thể đối kháng. Hiệp định quy định rằng không một Thành viên nào thông qua việc sử dụng trợ cấp gây ra tác động có hại đến quyền lợi của Thành viên khác, như gây tổn hại cho một ngành sản xuất nội địa của một Thành viên khác, làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994 (đặc biệt là những quyền lợi có được từ những ưu đãi thuế quan có ràng buộc), và gây tổn hại nghiêm trọng đối với lợi ích của Thành viên khác. Thiệt hại nghiêm trọng sẽ được xem là tồn tại trong trường hợp tổng trị giá trợ cấp theo trị giá cho một sản phẩm vượt quá 5%. Trong trường hợp này, bên trợ cấp có nghĩa vụ chứng minh rằng những khoản trợ cấp đó không gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với bên khiếu nại.Những thành viên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi trợ cấp có thể đối kháng có thể đưa tranh chấp này lên cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra phán quyết có tồn tại tác động tiêu cực, bên trợ cấp phải thu hồi lại khoản trợ cấp hoặc xóa bỏ những tác động tiêu cực này. Loại thứ 3 là trợ cấp không thể đối kháng, có thể là trợ cấp không mang tính chất riêng biệt hoặc mang tính chất riêng biệt bao gồm hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu công nghiệp và hoạt động phát triển tiền cạnh tranh, hỗ trợ cho các vùng miền khó khăn, hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp, hay các quy định đặt ra. Nếu một thành viên cho rằng trợ cấp không thể đối kháng khác sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến ngành công nghiệp nội địa, thành viên đó có thể yêu cầu đưa ra phán quyết và khuyến cáo về vấn đề này. Một phần của hiệp định này liên quan đến việc áp dụng những biện pháp đối kháng đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp. Hiệp định đưa ra những quy chế về việc khởi tố các vụ đối kháng, về việc điều tra bởi các cơ quan có thẩm quyền cấp quốc gia và những quy định về chứng cứ để đảm bảo rằng tất cả những bên có quyền lợi có thể đưa ra thông tin và quan điểm của mình. Những quy định cụ thể về việc tính toán tổng số trợ cấp là cơ sở để xác định thiệt hại đối với ngành công nghiệp nội địa.Hiệp định quy định rằng tất cả các yếu tố kinh tế có liên quan sẽ phải được xem xét trong quá trình đánh giá tình trạng của ngành công nghiệp và mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và những thiệt hại suy đoán. Việc điều tra đối kháng phải dừng ngay khi mức trợ cấp nằm dưới mức tối thiểu (nhỏ hơn 1% theo trị giá) hoặc khi khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp trên thực tế hoặc ước tính hoặc thiệt hại là không đáng kể. Trừ trường hợp đặc biệt, thủ tục điều tra phải được kết thúc trong thời hạn một năm, và trong mọi trường hợp không quá 18 tháng, kể từ ngày khởi xướng. Thuế đối kháng phải chấm dứt trong vòng 5 năm áp dụng trừ khi các cơ quan có thẩm quyền thông qua rà soát xét thấy việc ngừng áp thuế sẽ dẫn đến sự tiếp tục hay tái diễn trợ cấp và thiệt hại. Hiệp định này cũng công nhận rằng trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng trong các chương trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, và trong sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Những nước kém phát triển và những nước đang phát triển có Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu người ít hơn 1000 USD sẽ được miễn khỏi những quy tắc về trợ cấp xuất khẩu bị cấm và hưởng miễn trừ đối với trợ cấp bị cấp trong một khoảng thời gian nhất định. Đối vớ các nước đang phát triển khác, việc cấm trợ cấp xuất khẩu sẽ có hiều lực trong 8 năm kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực và những nước này được hưởng sự miễn trừ đối với trợ cấp bị cấm trong một khoảng thời gian nhất định ( khoảng thời gian này sẽ ngắn hơn thời gian của các nước kém phát triển hơn). Việc điều tra đối kháng đối với một sản phẩm xuất xứ từ một nước thành viên đang phát triển sẽ chấm dứt nếu tổng lượng trợ cấp không vượt quá 2% (và xuất xứ từ một số nước đang phát triển là 3%) tính trên trị giá sản phẩm, hoặc nếu khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp chiếm ít hơn 4% tổng lượng sản phẩm tương tự nhập khẩu của quốc gia nhập khẩu. Đối với những nước đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, trợ cấp bị cấm sẽ không bị tính trong vòng 7 năm kể từ ngày hiệp định này có hiệu lực. Theo hiệp định về trợ cấp này, trong quá trình đàm phán các quy tắc đặc biệt đối với ngành hàng không dân dụng, các sản phẩm hàng không dân dụng không tuân theo giả định rằng việc trợ cấp theo giá trị vượt quá 5% gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của các nước thành viên. Ngoài ra, hiệp định cũng quy định rằng việc hoàn trả tài chính trong lĩnh vực hàng không dân sự phụ thuộc vào mức độ doanh số sản phẩm bán ra và doanh thu dưới mức mong đợi, bản thân điều này không suy đoán gây thiệt hại nghiêm trọng. Các câu hỏi thường gặp: Trợ cấp là gì? Trong WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc một tổ chức công (trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức sau mang lại lợi ích cho doanh nghiệp/ngành sản xuất:
Các khoản hỗ trợ này được hiểu là mang lại lợi ích cho đối tượng được hưởng hỗ trợ nếu nó được thực hiện theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân, một ngân hàng thương mạibình thường sẽ không khi nào làm như vậy (vì đi ngược lại những tính toán thương mại thông thường). Trợ cấp có phải hiện tượng bị cấm không? Theo WTO, các chính phủ được phép trợ cấp, nhưng chỉ trong các giới hạn và điều kiện nhất định. WTO có 02 hệ thống quy định riêng về trợ cấp, áp dụng cho 02 nhóm sản phẩm:
Có những loại trợ cấp nào và cơ chế áp dụng ra sao? Có 03 loại trợ cấp, với quy chế áp dụng khác nhau:
Bao gồm:
Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp dụng.
Bao gồm:
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị thành viên khác khiếu kiện (tức là loại trợ cấp được phép vô điều kiện). 1. Trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn vàng) Bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn xanh).Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt hại cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước thành viên khác thì có thể bị kiện ra WTO.
Việt Nam cam kết gì về trợ cấp khi gia nhập WTO? Gia nhập WTO, về nguyên tắc Việt Nam phải tuân thủ đầy đủ các quy định tại Hiệp định SCM về trợ cấp. Tuy nhiên, Việt Nam đạt quy chế riêng trong một số vấn đề sau:
Việt Nam cam kết bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp này (bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu) từ thời điểm gia nhập. Riêng đối với các ưu đãi đầu tư (ưu đãi về thuế) dựa trên tiêu chí thành tích xuất khẩu và tỷ lệ nội địa hoá mà cơ quan Nhà nước đã cho phép doanh nghiệp được hưởng từ trước ngày gia nhập WTO thì sẽ được tiếp tục thực hiện cho đến hết 5 năm kể từ ngày gia nhập.
Như vậy, các doanh nghiệp nội địa và FDI đã thành lập và được hưởng ưu đãi thuế dựa trên tiêu chí xuất khẩu hoặc tỷ lệ nội địa hoá sẽ tiếp tục được hưởng ưu đãi đến hết 11/1/2012.Trừ ngoại lệ này, tất cả các hình thức trợ cấp khác mà doanh nghiệp được hưởng lợi sẽ tuân thủ các quy định tại Hiệp định SCM. Vụ kiện chống trợ cấp là gì? Đây thực chất là một quy trình Kiện - Điều tra - Kết luận - Áp dụng biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) mà nước nhập khẩu tiến hành đối với một loại hàng hoá nhập khẩu từ một nước nhất định khi có những nghi ngờ rằng hàng hoá được trợ cấp (trừ trợ cấp đèn xanh) và gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu. Mặc dù thường được gọi là vụ kiện (theo cách gọi ở Việt Nam), đây không phải thủ tục tố tụng tại Toà án mà là một thủ tục hành chính và do cơ quan hành chính nước nhập khẩu thực hiện. Thủ tục này liên quan đến một bên là ngành sản xuất nội địa và một bên là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài.Khác với thủ tục kiện chống bán phá giá, kiện chống trợ cấp liên quan đến cả Chính phủ nước xuất khẩu (vì liên quan đến khoản trợ cấp của Chính phủ). Thủ tục, trình tự kiện chống trợ cấp gần tương tự với thủ tục, trình tự kiện chống bán phá giá.Cần lưu ý là thủ tục này được quy định gần giống thủ tục tố tụng tại toà án (nên thường được gọi là vụ kiện). Khi cơ quan hành chính ra quyết định cuối cùng về việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp chống trợ cấp, các bên không đồng ý với quyết định này có thể kiện cơ quan này ra Toà án có thẩm quyền của nước nhập khẩu. (Xem thêm Phần về Kiện chống bán phá giá)
Thuế đối kháng là gì? Thuế đối kháng (theo ngôn ngữ thông thường là thuế chống trợ cấp) là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài được trợ cấp vào nước nhập khẩu. Đây là biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) nhằm vào các nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông qua thủ tục điều tra chống trợ cấp do nước nhập khẩu tiến hành và thuế trợ cấp, nếu có, áp dụng đối với nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài) chứ không nhằm vào chính phủ nước ngoài đã thực hiện việc trợ cấp (WTO quy định các cơ chế xử lý khác mang tính đa phương cho trường hợp này). Điều kiện áp dụng thuế đối kháng là gì? Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài được trợ cấp là nước nhập khẩu có thể áp dụng thuế đối kháng đối với hàng hoá đó. Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp đối kháng (mà chủ yếu là thuế đối kháng) chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra chống trợ cấp, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau:
Mức trợ cấp được xác định như thế nào? Để xác định hàng hoá nhập khẩu có được trợ cấp hay không, cơ quan điều tra nước nhập khẩu sẽ tiến hành tính toán mức trợ cấp của hàng hoá đó. Phương pháp tính toán chi tiết tuân thủ pháp luật của nước điều tra về vấn đề này, nhưng về cơ bản việc tính toán sẽ theo nguyên tắc sau đây của WTO:
Biên độ trợ cấp được tính theo phần trăm mức trợ cấp trên trị giá hàng hoá. Yếu tố thiệt hại được xác định như thế nào? Việc xác định thiệt hại là một bước không thể thiếu trong một vụ điều tra chống trợ cấp và chỉ khi kết luận điều tra khẳng định có thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu thì nước nhập khẩu mới có thể xem xét việc áp dụng các biện pháp chống trợ cấp.
Một mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu không nhiều có thể bị kiện chống trợ cấp không? Theo quy định của WTO, nước nhập khẩu không được tiến hành điều tra (và không được áp thuế đối kháng) nếu nước xuất khẩu là nước đang phát triển và có lượng nhập khẩu sản phẩm liên quan ít hơn 4% tổng nhập khẩu hàng hoá tương tự vào nước nhập khẩu đó.Là một nước đang phát triển, Việt Nam được hưởng quy chế này. Tuy nhiên, quy định này sẽ không được áp dụng nếu tổng lượng nhập khẩu từ tất cả các nước xuất khẩu có hoàn cảnh tương tự chiếm trên 9% tổng lượng nhập khẩu hàng hoá tương tự vào nước nhập khẩu.
Ai được quyền kiện chống trợ cấp? Một vụ kiện chống trợ cấp chỉ có thể được tiến hành nếu nó được bắt đầu bởi các chủ thể có quyền khởi kiện là:
Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: (i) Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít nhất 50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện; và (ii) Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản xuất trong nước.
Trình tự tiến hành một vụ kiện chống trợ cấp? Một vụ kiện chống trợ cấp thực chất là tổng hợp các bước điều tra xác minh các yêu cầu trong đơn kiện để kết luận có đủ điều kiện áp dụng các biện pháp chống trợ cấp đối với hàng hoá bị kiện hay không. Có thể tóm tắt các bước cơ bản của vụ kiện chống trợ cấp như sau:
Mức thuế đối kháng được xác định như thế nào cho từng nhà xuất khẩu?
Thuế đối kháng được áp dụng như thế nào? - Về việc rà soát lại mức thuế: Sau khi áp thuế một thời gian (thường là theo từng năm) cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra lại để xem xét tăng, giảm mức thuế hoặc chấm dứt việc áp thuế đối kháng nếu có yêu cầu; - Về thời hạn áp thuế: Việc áp thuế đối kháng không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có Quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát lại trừ khi cơ quan có thẩm quyền thấy rằng việc chấm dứt áp thuế sẽ dẫn tới việc tái trợ cấp hoặc gây thiệt hại; - Về hiệu lực của việc áp thuế: Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với hàng hoá liên quan nhập khẩu sau thời điểm ban hành Quyết định; việc áp dụng hồi tố (áp dụng cho những lô hàng nhập khẩu trước thời điểm ban hành Quyết định) chỉ được thực hiện nếu thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội địa là thiệt hại thực tế. Bảng 1 - Những nước thành viên WTO tiến hành kiện chống trợ cấp nhiều nhất (tính từ 1/1/1995 đến 31/12/2007)
Nguồn: http://www.wto.org Bảng 2 - Những nước thành viên WTO bị kiện chống trợ cấp nhiều nhất (tính từ 1/1/1995 đến 31/12/2007)
Nguồn: http://www.wto.org Nguy cơ hàng hoá Việt Nam bị kiện chống trợ cấp ở nước ngoài có lớn không? Nếu so với nguy cơ bị kiện chống bán phá giá, nguy cơ hàng Việt Nam xuất khẩu bị kiện chống trợ cấp ở nước ngoài thấp hơn. Xét trong bình diện chung, số vụ kiện chống trợ cấp ở tất cả các nước thành viên WTO cũng thấp hơn nhiều so với số vụ kiện chống bán phá giá. Trên thực tế, hàng hoá Việt Nam chưa từng bị kiện chống trợ cấp ở nước ngoài. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn cần thận trọng trước nguy cơ này bởi với nền kinh tế được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá trước kia, hàng hóa Việt Nam rất dễ bị quy chụp là được trợ cấp bởi nhiều lý do. Nguy cơ này càng tăng lên với sự tăng trưởng tương đối lớn về xuất khẩu và lợi thế cạnh tranh chủ yếu về giá của hàng hoá Việt Nam hiện nay. Cần làm gì để phòng tránh và đối phó với các vụ kiện chống trợ cấp ở nước ngoài? Về nguyên tắc, kiện chống trợ cấp là công cụ được nước nhập khẩu sử dụng để đối phó với các hiện tượng trợ cấp (cạnh tranh không lành mạnh) từ nước ngoài gây thiệt hại.Tuy nhiên, không loại trừ khả năng công cụ này được dùng để chống lại sự gia tăng của hàng nhập khẩu giá rẻ. Vì vậy, doanh nghiệp vẫn cần thực hiện những biện pháp phòng tránh và đối phó cần thiết để chủ động trước nguy cơ này.
Doanh nghiệp Việt Nam gặp bất lợi gì trong các vụ kiện chống trợ cấp? Bản thân việc bị kiện chống trợ cấp đã là một bất lợi (bởi việc kiện tụng thường tốn nhiều thời gian và tiền của, khả năng bị áp thuế cũng tương đối cao). Doanh nghiệp Việt Nam nếu bị kiện sẽ bất lợi hơn bình thường bởi trong cam kết gia nhập WTO, Việt Nam phải chấp nhận bị xem là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm kể từ ngày gia nhập (tức là đến hết năm 2018). Cụ thể, theo cam kết này, việc tính toán mức trợ cấp trong các vụ điều tra chống trợ cấp đối với hàng hoá Việt Nam sẽ được thực hiện như sau:
Pháp luật Việt Nam về điều tra chống trợ cấp đối với hàng hoá nước ngoài? Văn bản pháp luật
Nội dung: Các quy định về chống trợ cấp ở Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc và quy định của WTO về vấn đề này. Cơ quan có thẩm quyền
In bài viết Gửi Email Các tin khác
|