Tù chung thân bao nhiêu năm được giảm án năm 2024

(LSVN) - Anh trai tôi đang thuộc diện được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Vậy, hiện nay pháp luật quy định như thế nào về mức giảm thời hạn chấp hành án phạt tù? Bạn đọc P.L. hỏi.

Tù chung thân bao nhiêu năm được giảm án năm 2024

Ảnh minh họa.

Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định rõ về giảm mức hình phạt đã tuyên. Theo đó, người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.

Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên.

Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.

Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.

Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.

Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.

Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.

Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu xuống tù có thời hạn đối với người đang chấp hành án phạt tù chung thân không được trừ vào thời gian để xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 66 BLHS.

Tức là, tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất: “Thời hạn đã chấp hành 15 năm tù không bao gồm thời hạn 12 năm đã chấp hành án phạt tù trước đó khi xét giảm mức hình phạt đã tuyên theo quy định tại Điều 63 của BLHS. Do đó, người đang chấp hành án phạt tù chung thân sau khi được giảm mức hình phạt đã tuyên xuống còn 30 năm tù, phải tiếp tục thi hành án ít nhất thêm 15 năm tù mới có thể được xét tha tù trước hạn có điều kiện. Như vậy, người chấp hành án phải thi hành thực tế tổng cộng ít nhất 27 năm tù là có thể được tha tù trước thời hạn”. Xuất phát từ những lý do sau:

Thứ nhất, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 63 BLHS, 12 năm chấp hành án phạt tù trước đó là điều kiện để người đang chấp hành án phạt tù chung thân được giảm mức hình phạt đã tuyên (xét giảm từ án phạt tù chung thân xuống tù có thời hạn). Tức là thời hạn 12 năm chấp hành án phạt tù đã được áp dụng một lần trong việc giảm án từ tù chung thân xuống tù có thời hạn, do vậy, nếu tiếp tục tính 12 năm này vào thời hạn 15 năm để làm điều kiện tha tù trước thời hạn có điều kiện thì vô hình trung thời hạn 12 năm được áp dụng 02 lần cho quá trình xét giảm án và xét tha tù trước thời hạn. Điều này làm giảm mức độ răn đe của hình phạt tù chung thân đối với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như không bảo đảm tính công bằng đối với từng loại tội phạm.

Thứ hai, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 63 BLHS: “Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm”. Theo quy định này, người chấp hành hình phạt tù chung thân cần phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm. Tuy nhiên, nếu áp dụng theo quan điểm thứ hai được nêu trong bài đăng của tác giả Song Mai: “Thời hạn đã chấp hành 15 năm tù bao gồm thời hạn 12 năm đã chấp hành án phạt tù trước đó khi xét giảm mức hình phạt đã tuyên theo quy định tại Điều 63 của BLHS. Do đó, người đang chấp hành án phạt tù chung thân sau khi được giảm mức hình phạt đã tuyên xuống còn 30 năm tù, cần tiếp tục thi hành án ít nhất thêm 03 năm tù mới có thể được xét tha tù trước hạn có điều kiện. Như vậy, người chấp hành án phải thi hành thực tế tổng cộng ít nhất 15 năm tù là có thể được tha tù trước thời hạn” thì thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 15 năm tù. Điều này gây ra sự mâu thuẫn, không thỏa mãn điều kiện được nêu tại khoản 2 Điều 63 BLHS.

Thứ ba, bảo đảm sự tương đồng, công bằng giữa hình phạt tù chung thân và tù có thời hạn được quy định trong BLHS. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 38 BLHS: “Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm”. Rõ ràng, hình phạt tù chung thân là loại hình phạt nặng hơn so với phạt tù có thời hạn, do vậy, dù áp dụng theo bất kỳ quan điểm nào, cũng cần phải bảo đảm việc chấp hành án phạt tù chung thân của người phạm tội phải cao hơn hoặc bằng so với mức áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Trong trường hợp này, áp dụng theo quan điểm thứ nhất được nêu trong bài viết của tác giả Song Mai (người chấp hành án phải thi hành thực tế tổng cộng ít nhất 27 năm tù) sẽ đảm bảo được tính hài hòa giữa hình phạt tù chung thân và hình phạt tù có thời hạn.

Trên đây là nội dung trao đổi về quy định tại điểm d khoản 1 Điều 66 BLHS của tác giả, rất mong nhận được sự góp ý từ bạn đọc và đồng nghiệp.

Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An công bố quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đợt 30/4 năm 2022- Ảnh: Thái Hoàng

Đi tù bao nhiêu năm thì được giảm án?

Như vậy, điều kiện để giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù thì phạm nhân đã chấp hành được ít nhất một phần ba thời hạn đối với hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống hoặc mười hai năm đối với tù chung thân.

Tù chung thân khi nào được giảm án?

Như vậy, đối với tù chung thân thì khi đã chấp hành được ít nhất 12 năm tù sẽ được xét giảm án lần đầu xuống còn 30 năm tù, sau đó có thể được giảm nhiều lần nhưng phải chấp hành thực tế ít nhất 20 năm.

Bao nhiêu năm là tù chung thân?

Như vậy, tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn tức là không có ngày ra tù và không có giới hạn bao nhiêu năm tù. Người bị kết án tù chung thân sẽ phải chấp hành hình phạt tù cho đến khi chết. Tuy nhiên, người bị kết án tù chung thân vẫn có thể được tha tù trước thời hạn nếu có đủ các điều kiện theo quy định.

Án tù chung thân như thế nào?

Chung thân, án chung thân hay tù chung thân (Tiếng Anh: life sentence, life imprisonment) là hình phạt tù không thời hạn, thông thường được hiểu là người bị kết án (phạm nhân) sẽ phải chấp hành án tù (lao động, học tập, cải tạo...) gần như là suốt phần đời còn lại của mình ở trong trại giam.