Vì sao không chấp nhận đa nguyên đa đảng

.

Cập nhật lúc: 22:01, 21/07/2020 [GMT+7]

Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam hoàn toàn không phải sự áp đặt từ phía Đảng hay một lực lượng chính trị nào khác mà chính là sự lựa chọn của dân tộc, của nhân dân. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam cho phép khẳng định: Ở Việt Nam không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng.

Pa-nô tuyên truyền chào mừng đại hội Đảng các cấp tiến tới đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Ảnh: tuyengiao.vn

* Cảnh giác với âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền phá hoại cách mạng Việt Nam, trong những năm qua, các thế lực thù địch tung ra nhiều luận điệu đòi thực hiện đa đảng đối lập. Chúng lên án sự “bảo thủ” của Đảng ta vì không chịu “đổi mới” về chính trị, rằng: ở Việt Nam nếu cứ thực hiện chế độ một đảng duy nhất cầm quyền sẽ không bao giờ có dân chủ! Thậm chí, các thế lực thù địch còn tạo áp lực đòi chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp, xóa bỏ Điều 4, hiến định về Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội.

Để tăng tính thuyết phục cho những luận điệu chống phá này, chúng đã rất kỳ công tiến hành thống kê, tổng hợp lại toàn bộ những hạn chế, thiếu sót và cả những sai lầm của Đảng trong quá khứ, đặc biệt là trong lãnh đạo lĩnh vực kinh tế, quản lý xã hội để minh chứng cho sự cần thiết chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng ta. Chúng đồng thời ra sức khai thác, lợi dụng sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để kích động nhằm tạo sự phân hóa sâu sắc trong nội bộ Đảng, làm suy yếu sức mạnh khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân. Chúng hô hào, khuyến khích, thậm chí tạo áp lực buộc chúng ta phải thực hiện đa đảng đối lập!

Đằng sau tất cả những luận điệu tuyên truyền và hoạt động chống phá ấy đều nhằm  mục đích làm suy yếu và đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, loại bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Đó là mưu đồ hết sức thâm độc của các thế lực thù địch mà mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi một người dân phải tỉnh táo và luôn nêu cao tinh thần cảnh giác.

* Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của dân tộc

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Điều này được chính lịch sử dân tộc minh chứng. Bởi vì trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tính mốc thời điểm từ ngày 1-9-1858, giới sử học thống kê đã có hơn 300 cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân nổ ra để phản kháng ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp xâm lược, nhưng cuối cùng tất cả hơn 300 cuộc đấu tranh đó đều thất bại, đều bị thực dân Pháp “dìm trong biển máu”. Chỉ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi, mở đầu là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Tiếp theo là 9 năm toàn quốc kháng chiến, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, dân tộc ta đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy 5 châu chấn động địa cầu”. Sau đó là cuộc trường chinh 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Trải qua 5 đời tổng thống với 4 chiến lược chiến tranh, cuối cùng Mỹ cũng đành ngậm ngùi ngồi vào bàn đàm phán ký với ta Hiệp định Paris kết thúc quá trình xâm lược Việt Nam. Việc ta đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ đã làm cho cả thế giới sửng sốt, ngỡ ngàng, bàng hoàng, phải thốt lên rằng “Why Vietnam”.

Giai đoạn 1945-1975, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng song song tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam [ra đời năm 1944] và Đảng Xã hội Việt Nam [ra đời năm 1946] cả hai đảng này đều ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, đến năm 1988, tự nhận thấy không còn vai trò gì với dân tộc nên đã tuyên bố tự giải tán. Ngoài ra, trong thời gian này, còn có sự tồn tại của nhiều đảng phái thân Pháp, thân Mỹ công khai đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng cũng chính thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh không có một đảng nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ trình độ, năng lực, bản lĩnh và trí tuệ để có thể lãnh đạo cách mạng Việt Nam thành công. Vậy thì lý do gì, hà cớ gì khi cách mạng thành công, chúng ta giành được chính quyền rồi lại trao chính quyền ấy vào tay một đảng phái khác?

Từ sau năm 1975 đến nay, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện. Với bản lĩnh, trí tuệ của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội, trở thành một nước có trình độ phát triển trung bình. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng, an ninh được giữ vững; văn hóa, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của một đảng cầm quyền. Những thành tựu đó một lần nữa khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ có khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà còn có khả năng lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước trên con đường đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

* Với chế độ một đảng duy nhất cầm quyền hoàn toàn có thể đảm bảo và phát huy dân chủ

Luận điệu mà các thế lực thù địch tập trung cổ súy cho việc thực hiện đa đảng đối lập là để có dân chủ “thực sự”! Chúng ta đều biết rằng và thực tiễn cũng đã chứng minh vấn đề dân chủ hoàn toàn không phụ thuộc vào số lượng đảng của một nước mà nó sẽ phụ thuộc chế độ chính trị, cơ chế hoạt động của đảng cầm quyền, vào trình độ, năng lực, bản lĩnh của đảng cầm quyền, vào trình độ dân trí và dân chủ của xã hội. Trên thế giới hiện nay, có không ít những nước đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm. Như ở Việt Nam hiện nay, thực hiện chế độ một đảng duy nhất cầm quyền nhưng dân chủ luôn được đảm bảo và phát huy. Bởi vì mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đó cũng là ý chí, khát vọng cháy bỏng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Điều đó là cơ sở vững chắc bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng.

Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội bằng chủ trương, đường lối của Đảng. Trong quá trình xác định chủ trương, đường lối, Đảng tổ chức lấy ý kiến dân chủ rộng rãi trong xã hội. Khi mà mọi tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân đều có thể đóng góp ý kiến với Đảng, giám sát và phản biện cho Đảng thì không thể nói là dân chủ không được đảm bảo. Vì vậy, cần phải khách quan để nhìn nhận rằng việc còn để xảy ra tình trạng thiếu dân chủ ở chỗ này, chỗ khác đó chỉ là những hạn chế, thiếu sót cụ thể trong quá trình thực hiện dân chủ, chứ không phải là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa đang được thực hiện ở Việt Nam hiện nay.

Với tất cả những gì Đảng đã làm cho cách mạng, cho dân tộc Việt Nam, với những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội là cơ sở thực tiễn thuyết phục nhất, là minh chứng hùng hồn nhất để khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là nhân tố quan trọng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam và không một lực lượng nào, đảng phái nào có thể thay thế được vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam.

TS Vũ Thị Nghĩa

Trường Chính trị Đồng Nai

Bấy lâu nay các thế lực thù địch với Việt Nam vẫn rêu rao tư tưởng "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập", hòng truyền bá và kích động tư tưởng dân chủ vô chính phủ, loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Tuy nhiên, chúng ta đã nhiều lần khẳng định không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập với những lý do dưới đây:

1. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là chế độ chính trị của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đa nguyên chính trị là một khuynh hướng xã hội học - triết học, tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong đấu tranh chống độc quyền, bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản.

Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện, đa nguyên chính trị mất dần ý nghĩa ban đầu, trở thành thủ đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, tổ chức độc quyền có lực lượng ngang bằng nhau và là bình phong “dân chủ” che đậy sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản.

Khi chủ nghĩa xã hội xuất hiện, đa nguyên chính trị trở thành công cụ tư tưởng để giai cấp tư sản chống các nhà nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân và các trào lưu tiến bộ trên thế giới bằng việc đòi mở rộng quyền tự do dân chủ vô chính phủ, chống nguyên tắc tập trung dân chủ, đòi thực hiện chế độ đa đảng, nhằm vô hiệu hóa và từng bước đẩy Đảng Cộng sản khỏi vị trí lãnh đạo xã hội, đòi xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản - bề ngoài đại diện cho lợi ích của tất cả các nhóm, đảng phái đối lập, nhưng thực chất đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản.

Như vậy, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tất yếu không phải là mô hình chính trị của chế độ xã hội chủ nghĩa.

2. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bảo đảm được dân chủ đích thực. Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực hiện được nó thì trước tiên người lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ duy nhất đại diện cho quyền lực của mình. Với một chế độ xã hội, thì hoặc quyền lực thuộc về giai cấp bóc lột hoặc thuộc về giai cấp bị bóc lột mà thôi. Không có thứ quyền lực hay dân chủ cho mọi giai cấp. Bản chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong xã hội tư bản chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản bóc lột. Trả lời phỏng vấn và kết luận mới nhất của đoàn khảo sát Hoa Kỳ [6-2009] của các nhà khoa học Việt Nam cho thấy rõ điều này: Giáo sư Paul Mishler [Trường Đại học bang Indiana] khẳng định: “Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học… đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra”; “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân chủ”[*]… Với lý do đó, đa nguyên, đa đảng không bao giờ tiến tới một nền dân chủ đích thực.

3. Lịch sử cách mạng Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân, đế quốc đã xuất hiện và phủ định đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như một tất yếu tự nhiên. Năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa, giành chính quyền, thiết lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên hết nên trong những ngày đầu gìn giữ chính quyền và nền độc lập dân tộc, Đảng ta đã tự tuyên bố giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia lãnh đạo đất nước.

Song, trong quá trình cách mạng, các tổ chức đảng phái hoặc phản động, hoặc có đường lối không đúng đắn, không vì quyền lợi của quốc gia, dân tộc đã lần lượt bị chính nhân dân loại bỏ, chỉ còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Đông Dương do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo có đường lối cách mạng đúng đắn, vì quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động, vì nền độc lập và sự phát triển của đất nước đã được nhân dân lựa chọn là chính đảng duy nhất đại diện cho quyền lợi của mình.

Sau 1954, Đảng ta cũng chủ trương tổng tuyển cử tự do, thành lập chính phủ liên hiệp, thống nhất nước nhà, nhưng chính chính quyền Ngô Đình Diệm đã bác bỏ và phủ nhận thể chế đa nguyên đó. Mặt khác, được sự tiếp sức của đế quốc Mỹ, các thế lực phong kiến và phản động ở miền Nam cũng đã từng lập nên một chính thể đa nguyên với sự tham gia của nhiều đảng phái. Nhưng mục đích chính trị của các đảng phái đó lại chống lại nền độc lập dân tộc và quyền lợi của nhân dân lao động, nên nhân dân cả nước ta đã đứng lên lật đổ thể chế chính trị đó, thiết lập nên nền chính trị nhất nguyên và lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện duy nhất cho quyền lợi của nhân dân lao động và cả dân tộc. Tính tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên đó đã và đang được nhân dân ta khẳng định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã và đang không ngừng xây dựng và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế trong nền chính trị nhất nguyên. Nền chính trị nhất nguyên ở nước ta là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động. Đó là độc lập, tự do cho dân tộc; là quyền tự quyết dân tộc, quyền bình đẳng với mọi quốc gia khác trong việc lựa chọn con đường phát triển đi lên của mình; là quyền tự do lập hiến và lập pháp, lựa chọn và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân; là quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các thành phần kinh tế; quyền tự do làm giàu theo pháp luật, phát huy dân chủ gắn liền với giữ vững kỷ cương xã hội; là sự phát triển trong đa dạng các sắc màu văn hóa dân tộc; là sự tiến bộ trong giáo dục, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu vì sự tiến bộ và phát triển toàn diện con người… Những thành tựu không thể phủ nhận của nền chính trị nhất nguyên đó đã khẳng định và ngày càng củng cố vững chắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

5. Dư luận quốc tế, chính phủ và nhân dân các nước dân chủ, tiến bộ trên thế giới đánh giá cao, ủng hộ Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ nhất nguyên ở Việt Nam. Trước những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, dư luận quốc tế, chính phủ nhiều nước, các tổ chức quốc tế và nhân dân thế giới đã bày tỏ sự khâm phục và ủng hộ chế độ chính trị ở Việt Nam. Nhiều đoàn đại biểu quốc tế sang Việt Nam nghiên cứu và học tập kinh nghiệm về xây dựng sự ổn định chính trị xã hội. Nhân chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ngày 17-6-2007, tờ The Straits Times đã viết: “Việt Nam là đất nước ổn định, người dân làm việc chăm chỉ và đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Với những yếu tố này cộng lại, Việt Nam là mỏ vàng cho các nhà đầu tư Mỹ nào biết nắm bắt cơ hội”.

Dưới con mắt của Tiến sĩ Sổm Phắt Mana Rangsam [Thái Lan], 2 trong 4 thế mạnh của Việt Nam so với Thái Lan là các nhà lãnh đạo Chính phủ Việt Nam hiện nay là những nhân vật năng động, có khả năng điều hành kinh tế. Việt Nam có chế độ chính trị ổn định và nhất quán trong chiến lược phát triển kinh tế, Việt kiều đã có ý thức hướng về quê hương.

Còn cựu chiến binh Mỹ Thomas A.Hutchings - người đã từng tham chiến ở Việt Nam đã viết: “Việt Nam đang thay đổi và có một lịch sử đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước thật hào hùng. Bất cứ nỗ lực bên ngoài nào để áp đặt “những giá trị dân chủ kiểu Mỹ” và kêu gọi chấp nhận thể chế đa nguyên, đa đảng cho Việt Nam thì Việt Nam phải kiên quyết từ chối và bác bỏ”…

Còn nhiều lý do khác để khẳng định sự bác bỏ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam là có cơ sở lý luận và thực tiễn đúng đắn. Để củng cố quyết tâm chính trị này, cán bộ, chiến sĩ LLVT và nhân dân ta cần tiếp tục trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức chính trị, đề cao tinh thần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm và tư tưởng thù địch sai trái, giữ vững ổn định chính trị ở nước ta.

Thượng tá, Tiến sĩ NGUYỄN VĂN QUANG

Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng

[*] Phó giáo sư, Tiến sĩ Đinh Công Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 7 [106], 2009, tr.87-89.

Video liên quan

Chủ Đề