Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Chính trong lúc chính quyền cách mạng non trẻ ở thế ngàn cân treo sợi tóc, thù trong giặc ngoài, khó khăn trăm bề đó, ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ, đã đóng vai trò tiên phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đối với công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay, những bài học lịch sử quý báu của giai đoạn đấu tranh ngoại giao thời kỳ tiền kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị.

Sức mạnh của ngoại giao trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước hết sức khó khăn, phức tạp. Ngay khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai còn chưa kết thúc, các cường quốc đã bàn cách sắp xếp lại thế giới và phân chia vùng ảnh hưởng. Các nước nhỏ, các dân tộc thuộc địa mới giành được độc lập, nhưng tiềm lực kinh tế, quân sự còn rất yếu ớt và do đó trở thành đối tượng của các thỏa hiệp, cạnh tranh giữa các nước lớn. Việt Nam đã bị cuốn vào vòng xoáy đó. Thách thức nghiêm trọng đối với cách mạng Việt Nam trong thời điểm này là phải đối phó cùng lúc với nhiều thế lực quân sự đối địch của các nước lớn có mặt tại Việt Nam.

Bên cạnh giặc ngoại xâm còn là giặc đói và giặc dốt. Chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh và sự vơ vét bóc lột của phát-xít Nhật và thực dân Pháp đã làm cho nền kinh tế Việt Nam bị kiệt quệ, ngân khố trống rỗng, hơn hai triệu người chết đói, 95% số dân Việt Nam không biết chữ. Lực lượng vũ trang cách mạng của ta lúc Tổng khởi nghĩa chỉ có khoảng năm nghìn người, đến tháng 10-1945 phát triển lên thành 50 nghìn người, nhưng trang bị rất thiếu thốn, một bộ phận khá lớn vẫn dùng mã tấu, gậy tầm vông. (1) Chính trong thời điểm vô vàn khó khăn đó, ngoại giao đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta sử dụng như một vũ khí sắc bén để thực hiện thành công nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân, phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Trước hết, ngoại giao Việt Nam đã vận dụng nhuần nhuyễn phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ cuộc đấu tranh ngoại giao của ta trong giai đoạn này là: “Đối với Pháp, độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. (2) Thông qua các biện pháp ngoại giao, Chính phủ ta đã ký kết với thực dân Pháp hai văn kiện hết sức quan trọng là Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946. Ta nhân nhượng với Pháp một số điều kiện để kéo dài thời gian hòa hoãn, củng cố và chuẩn bị lực lượng, nhưng không thỏa hiệp các vấn đề nguyên tắc về độc lập và thống nhất quốc gia.

Thứ hai, phương châm hòa hiếu, “thêm bạn bớt thù” đã hình thành và trở thành nguyên tắc của ngoại giao Việt Nam. Ngoại giao đã triển khai hàng loạt biện pháp để thực hiện mục tiêu quan trọng đó. Chính phủ đã triệt để khai thác cam kết của các nước Đồng minh nêu ra trong chiến tranh, đặc biệt là quyền độc lập, tự quyết và bình đẳng giữa các dân tộc. Chính phủ ta cũng kịp thời ra tuyên bố làm rõ chính sách ngoại giao để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Một tháng sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập và nhân dịp một phái bộ quan trọng của Đồng minh đến Hà Nội, ngày 3-10-1945, Bộ Ngoại giao Chính phủ lâm thời đã ra Thông cáo về chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Thông cáo đồng thời khẳng định mục tiêu phấn đấu cho nền “độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn” của Việt Nam. Tóm tắt chính sách đối ngoại của Việt Nam, Bác Hồ khẳng định: Việt Nam chủ trương “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.(3) Thứ ba, ngoại giao giai đoạn này đã khôn khéo, tận dụng mâu thuẫn trong nội bộ đối phương, kiềm chế và hòa hoãn với Tưởng, tập trung chống thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Trong hoàn cảnh phải đấu tranh chống lại nhiều đối thủ mạnh, việc hiểu rõ các mâu thuẫn và lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ các đối thủ và giữa các đối thủ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta lúc đó.

Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, ngoại giao Việt Nam hết sức vinh dự và cũng vô cùng may mắn khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh, “một nhà ngoại giao lỗi lạc cả về trí tuệ và nhân cách”,(4) trực tiếp lãnh đạo, dìu dắt, trực tiếp tham gia. Người đã dẫn đầu đoàn đàm phán sang Pháp để tìm kiếm cơ hội vãn hồi hòa bình, trực tiếp đàm phán hai thỏa ước với thực dân Pháp và đấu tranh vận động dư luận Pháp ngay trên đất Pháp.

Tài ngoại giao của Người còn thể hiện ở việc nhìn nhận đúng thời cơ và việc sáng suốt đưa ra những quyết sách kịp thời. Để tránh cuộc xung đột mở rộng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt khoảnh khắc lịch sử, kịp thời ký bản Hiệp định sơ bộ chiều ngày 6-3-1946 theo những điều kiện có lợi nhất có thể được với Việt Nam, phù hợp tình hình trong nước và quốc tế cũng như tương quan lực lượng lúc bấy giờ. Với việc ký Hiệp định sơ bộ, chúng ta đã biến thỏa thuận tay đôi giữa Pháp - Tưởng thành thỏa thuận tay ba, sử dụng điều khoản thay quân của Hiệp ước Hoa - Pháp thành thời cơ để đẩy 20 vạn quân Tưởng ra khỏi Việt Nam, loại trừ cho cách mạng một kẻ địch nguy hiểm là quân đội Tưởng và các nhóm tay sai của chúng.

Bên cạnh Bác Hồ, nền ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đó còn có sự tham gia của các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phan Anh, Hoàng Minh Giám và nhiều đồng chí khác. Với tấm lòng yêu nước nồng nàn và nhiệt tình cách mạng tràn đầy, thế hệ các nhà cách mạng ấy đã trực tiếp tham gia công tác đối ngoại bằng cách phát huy trí tuệ của mình, cùng góp sức với Trung ương Đảng và Bác Hồ sáng suốt nhận định tình hình, đề ra những chủ trương hết sức đúng đắn, triển khai chính sách ngoại giao, góp phần làm nên những thành tích ngoại giao vẻ vang.

Vận dụng những bài học kinh nghiệm ngoại giao giai đoạn 1945-1946 trong thời kỳ hiện nay

70 năm kể từ ngày “ai có gươm dùng gươm, ai có súng dùng súng” nghe theo tiếng gọi của Đảng, của Bác Hồ, trường kỳ kháng chiến đến thắng lợi, và nhất là sau 30 năm Đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn trước. Kinh tế liên tục tăng trưởng và gắn kết với kinh tế khu vực và thế giới; chính trị - xã hội ổn định; quan hệ đối ngoại được triển khai rộng khắp, đa tầng nấc; vị thế và uy tín Việt Nam trong khu vực và quốc tế không ngừng nâng cao. Nước ta đang có nhiều thuận lợi để đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, hiệu quả cả trên các kênh song phương và đa phương. Đặc biệt, nước ta đã xây dựng quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với cả năm nước thường trực Hội đồng Bảo an LHQ.

Tuy nhiên, các thách thức đa chiều do tình hình thế giới diễn biến phức tạp đã và đang tác động trực tiếp đến môi trường an ninh - phát triển của nước ta. Trên thế giới và ở khu vực, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ nét, theo đó, các nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh kiềm chế lẫn nhau ngày càng gay gắt. Bên cạnh đó, các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là thiên tai, khủng bố, an ninh mạng, ngày càng phức tạp hơn.

Đại hội XII của Đảng đã đề ra các nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn hiện nay là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội ở khu vực và trên thế giới. (5) Trong bối cảnh hiện nay, để thực hiện những nhiệm vụ nêu trên, chúng ta cần vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm đối ngoại của giai đoạn 1945 - 1946.

Hơn 70 năm qua, dưới ánh sáng soi đường của Đảng, của Bác Hồ, ngoại giao Việt Nam đã lập nên nhiều thành tích vẻ vang. Bối cảnh ngày nay đã khác so với những ngày đầu lập nước, nhưng những bài học ngoại giao trong giai đoạn lịch sử trước ngày toàn quốc kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị. 70 năm trước, ngoại giao khó khăn trăm bề nhưng vẫn tỏ rõ tính hiệu quả. Ngày nay, đối ngoại đã trở thành một mặt trận toàn diện và đang được hưởng các điều kiện bên trong và bên ngoài thuận lợi hơn nhiều. Đó là cơ sở để chúng ta có niềm tin rằng đối ngoại tiếp tục phát huy vai trò và sứ mệnh là mặt trận hàng đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

TS ĐẶNG ĐÌNH QUÝ

Thứ trưởng Ngoại giao

(1) Bộ Ngoại giao, Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005, trang 46.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: “Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc”, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, trang 27.

(3) Bộ Ngoại giao, Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn các nhà báo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, (2015), trang 10. (4) Phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 (8-2016).

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

Khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Thế nhưng, niềm vui độc lập mà nhân dân Việt Nam được hưởng thật ngắn ngủi! Với dã tâm xâm lược, chỉ hơn 10 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập (2-9-1945), ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp dưới bóng quân Anh, quay lại gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Đồng chí THÂN THỊ THƯ, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy TP Hồ Chí Minh

Trước thực tế đó, bằng tất cả khả năng có thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng đã tìm mọi cách để giữ gìn hòa bình. Nhưng những cố gắng đầy thiện chí đó của Chính phủ Việt Nam đều không được người Pháp đáp lại. Ngược lại, thực dân Pháp còn cố tình mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả nước, gửi tối hậu thư đòi giải tán chính quyền và tước khí giới của Quân đội ta. Trước tình thế không thể lùi được nữa, ngày 19-12-1946, đại diện cho ý chí độc lập của cả dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước đoàn kết đứng lên chống kẻ thù xâm lược.

... Ngày 26-9-1945, đứng trên vị trí chiến đấu của mình, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ đã được nghe những lời thiết tha của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam: “… Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ... Tôi chắc và đồng bào Nam Bộ cũng chắc rằng Chính phủ và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà... Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc tranh đấu của chúng ta là chính đáng…”[1]. Lời của Người đã hòa cùng tiếng vọng của núi sông, hòa cùng nhịp đập cháy bỏng của những trái tim yêu nước nồng nàn, như một lời khẳng định ý chí và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc và khẳng định kháng chiến nhất định sẽ đi đến thắng lợi.

Từ khi cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ bùng nổ cho đến khi toàn quốc kháng chiến, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân trong điều kiện phải đương đầu với muôn vàn thử thách. Với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua biết bao ghềnh thác chông gai vì mục đích cuối cùng, giữ cho được độc lập dân tộc... Hình ảnh về bóng cờ đỏ sao vàng bay trong gió ngày giành chính quyền, bóng cờ ám khói trên chiến lũy giữa lòng thành phố Sài Gòn mãi mãi khắc sâu vào trang vàng lịch sử dân tộc. Đồng bào Nam Bộ hiểu rằng, cuộc kháng chiến sẽ còn rất gian khổ và lâu dài, nhưng những chiến sĩ cách mạng với ý chí và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc vẫn vững tin vào một ngày toàn thắng.

VIỆT BẮC (lược ghi).

[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 29.

* Tiếp tục phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam

Ngày 19-12-1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động cuộc chiến tranh tự vệ, chống lại âm mưu xâm lược nước ta của thực dân Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân và quân ta đã giành được những thắng lợi quan trọng, tạo điều kiện cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến lâu dài. Có nhiều yếu tố dẫn tới thành công đó như: Đảng ta có chủ trương, đường lối kháng chiến đúng đắn; có phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện; xây dựng LLVT nhân dân; phát huy sức mạnh toàn dân, toàn quân; có nghệ thuật quân sự phù hợp...

Nghệ thuật quân sự mưu lược, tài tình của Đảng, thể hiện ở việc xác định rõ kẻ thù và phân hóa kẻ thù; chủ động phát động toàn quốc kháng chiến (TQKC) chính là nghệ thuật lựa chọn thời cơ mở đầu cuộc chiến tranh tự vệ đạt mục đích đã xác định; nghệ thuật tổ chức xây dựng kế hoạch và điều hành tác chiến; nghệ thuật sử dụng lực lượng; nghệ thuật vận dụng các hình thức chiến thuật, phương thức hoạt động tác chiến phù hợp.

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Đại tá, PGS, TS ĐỖ VĂN ĐƠ, Viện trưởng Viện Khoa học Nghệ thuật Quân sự (Học viện Quốc phòng):

Nghệ thuật quân sự trong mở đầu TQKC đã được cơ quan chiến lược chỉ đạo trực tiếp. Sự phát triển và những thành công bước đầu của chiến thuật đã minh chứng cho sự chỉ đạo đúng đắn mang tầm chiến lược. Các nhiệm vụ mà chiến thuật thực hiện có kết quả đã góp phần vào thắng lợi của chiến lược trong TQKC; là cơ sở cho chiến thuật nói riêng, cho nghệ thuật quân sự phát triển ở những năm tiếp theo.

Việc chủ động mở đầu TQKC năm 1946 thắng lợi gắn liền với sự kế thừa, vận dụng và phát triển, sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là nghệ thuật đánh thắng địch về quân sự trên chiến trường. Để giành thắng lợi, các lực lượng đã quyết đánh, biết đánh và biết thắng. Đây là yêu cầu rất cao đối với nghệ thuật quân sự của ta chống lại kẻ địch đông quân hơn, vũ khí trang bị hiện đại hơn. Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong TQKC là nghệ thuật tổ chức toàn dân đánh giặc, lấy LLVT nhân dân gồm ba thứ quân làm nòng cốt. Đánh địch bằng mưu kế, kết hợp lực thế và thời cơ để giành thắng lợi trên chiến trường.

Những giá trị của chủ nghĩa yêu nước, những kho tàng khoa học lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam trong lịch sử đấu tranh giành, giữ độc lập, tự do của cả dân tộc nói chung, trong mở đầu TQKC 1946 nói riêng vẫn còn nguyên giá trị. Các thế hệ chúng ta hiện tại và tương lai cần nghiên cứu, học tập nghiêm túc nhằm kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo để phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

HUY ĐẠT (lược ghi)

* Nam Bộ Thành đồng góp sức cùng cả nước

Từ ngày 23-9-1945 - ngày Nam Bộ kháng chiến, cho đến ngày 19-12-1946 - ngày Toàn quốc kháng chiến (TQKC), là một chặng đường không dài trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc. Nhưng 15 tháng đó đã tô thắm những nét son của quân và dân Nam Bộ-“Thành đồng Tổ quốc” trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Trung tướng PHẠM VĂN DỸ, Chính ủy Quân khu 7:

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tính đến cuối năm 1946, về tổ chức, trên toàn chiến trường Nam Bộ có tổng cộng 30 đơn vị vũ trang tập trung cấp chi đội và tiểu đoàn với khoảng 15.000 người, chưa kể ba đơn vị hải ngoại tại ba khu 7, 8, 9 và các ban công tác tại thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn. Quân số nêu trên ngày càng được bổ sung dựa vào nhiều nguồn: Thanh niên tòng quân từ các địa phương, các khóa huấn luyện từ các trường quân chính của các khu và các chi đội hải ngoại từ Thái Lan, Cam-pu-chia tiếp tục về quê hương chiến đấu. Trang bị vũ khí của bộ đội chủ yếu là súng trường, có một ít súng ngắn, súng máy và lựu đạn thu được của quân Nhật, quân Pháp trước đó. Số vũ khí trang bị này được tăng thêm trong năm 1946 từ nguồn Trung ương chi viện, tổ chức thu mua vận chuyển ở nước ngoài về và thu được của địch trong các trận đánh. Ngoài ra, các khu, các chi đội đều chủ động xây dựng xưởng quân giới làm nhiệm vụ nhồi lại đạn, sản xuất lựu đạn, sửa chữa súng trường, súng máy. Mặc dù tổ chức chưa thật chặt chẽ, thống nhất, trang bị vũ khí và kiến thức quân sự chưa nhiều, nhưng hầu hết cán bộ, chiến sĩ trong các đơn vị vũ trang tập trung, có tinh thần chiến đấu đặc biệt hăng hái; và hoạt động của họ đã góp phần hết sức quan trọng trong giai đoạn Nam Bộ “đi trước” kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Từ đây, LLVT Nam Bộ khẩn trương bước vào giai đoạn lịch sử mới, cùng nhân dân và LLVT cả nước tiến hành TQKC. Hướng về Hà Nội và phối hợp cùng chia lửa với Thủ đô Hà Nội, ngay sau khi nhận lệnh TQKC, ngày 20-12-1946 các Đội tự vệ thành và Đội cảm tử ở Sài Gòn đồng loạt nổ súng tiến công địch. Tiếp đó, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ trong hai ngày 27 và 28-2-1947 quyết định mở cuộc Tổng tiến công địch trên các địa bàn. Khắp các địa phương phía Nam diễn ra những trận “kinh tế chiến”, “giao thông chiến”..., giam chân 40.000 quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Nam Bộ, góp phần làm phá sản ý đồ hòng tiến công ra miền Bắc của địch...

Đã tròn 70 năm, nhưng âm hưởng lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” vẫn còn vang vọng mãi trong mỗi chúng ta, thúc đẩy ý chí độc lập, tự lực, tự cường. Đó cũng là khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến và kiến quốc, không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

HƯNG BÌNH (lược ghi)

* Kế thừa truyền thống, xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại

Thực hiện mệnh lệnh của Tổng chỉ huy, 20 giờ 3 phút ngày 19-12-1946, quân dân Hà Nội nổ súng, mở đầu Toàn quốc kháng chiến (TQKC), Mặt trận Hà Nội trở thành chiến trường chính trong cuộc tổng giao chiến đầu tiên của cuộc chiến tranh cách mạng. Với quyết tâm “Cảm tử để Tổ quốc quyết sinh”, trong 60 ngày đêm chiến đấu, quân dân Hà Nội đã đánh bại âm mưu "đánh nhanh, thắng nhanh" của địch, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương lân cận có thời gian huy động lực lượng đối phó âm mưu đánh chiếm của thực dân Pháp, đồng thời động viên và cổ vũ nhân dân cả nước đi vào cuộc kháng chiến lâu dài. Thắng lợi của quân dân Hà Nội đã tác động đến dư luận thế giới, trong đó có nhân dân yêu chuộng hòa bình tại Pháp.

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Đồng chí NGÔ THỊ THANH HẰNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội:

Trận chiến oai hùng 60 ngày đêm của quân dân Thủ đô Hà Nội mở đầu kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp, là một trong những trang sử chói lọi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Trong 60 ngày đêm chiến đấu, ta đã tiêu diệt 2.000 tên địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới. Qua chiến đấu, LLVT Thủ đô không những được bảo toàn mà còn phát triển, từ 5 tiểu đoàn Vệ Quốc quân lúc mới nổ súng, sau hơn hai tháng đã xây dựng thành ba trung đoàn. Đảng bộ và quân dân Hà Nội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, kìm chân địch hai tháng (19-12-1946/17-2-1947) trong thành phố, gấp đôi thời gian Trung ương giao cho Thủ đô. Chiến thắng đó đã tạo điều kiện cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. 60 ngày đêm chiến đấu giam chân địch trong thành phố Hà Nội đã đi vào lịch sử dân tộc như một bản anh hùng ca bất tử. Tầm vóc lớn lao và ý nghĩa sâu sắc của sự kiện lịch sử vĩ đại này soi rọi vào công cuộc đổi mới để hội nhập hôm nay.

Với vị trí, vai trò là trung tâm chính trị-hành chính quốc gia, trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa và giao dịch quốc tế của cả nước, Hà Nội là nơi thường xuyên diễn ra nhiều sự kiện chính trị, văn hóa của quốc gia, quốc tế. Sau khi mở rộng địa giới hành chính, đời sống kinh tế-văn hóa-xã hội Thủ đô có nhiều đổi thay và chuyển dịch lớn. Với dân số hơn 7 triệu người, trong đó có gần 40 vạn đảng viên (tương đương 10% số lượng đảng viên cả nước) là điều kiện thuận lợi để Hà Nội phát triển. Nhưng Thủ đô Hà Nội cũng là một trong những địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt... Trước tình hình đó, Đảng bộ, quân dân Hà Nội luôn phát huy bài học kinh nghiệm chuẩn bị cho TQKC để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong toàn đảng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền; xây dựng chính quyền thật sự là chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân để xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, xứng đáng với truyền thống văn hiến, xứng đáng là Thủ đô Anh hùng-Thành phố vì hòa bình...

XUÂN HÒA (lược ghi)

* Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh

Cách mạng Tháng Tám thành công, tôi tham gia Đội Tự vệ chiến đấu cứu quốc thành Hoàng Diệu và vinh dự được tham gia bảo vệ lễ đài tại Quảng trường Ba Đình trong ngày Lễ Độc lập 2-9-1945. Không thể tả được sự xúc động dâng trào trong lòng khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó là niềm hạnh phúc vô biên mà chỉ những ai đã trải qua đời nô lệ mới thấu hiểu và cảm nhận hết. Nhưng với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, từ ngày 23-9-1945, thực dân Pháp đã nổ súng ở Nam Bộ.

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

Trước ngày Toàn quốc kháng chiến, tôi được kết nạp Đảng, chuyển từ Trung đội trưởng Trung đội Tự vệ chiến đấu cứu quốc thành Hoàng Diệu sang làm Chính trị viên Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 140, có nhiệm vụ bảo vệ Bộ Tổng tham mưu. Trong cuộc đời quân ngũ, tôi có một kỷ niệm sâu sắc nhất, đó là “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ” chính là nội dung bài giảng chính trị đầu tiên của tôi trên cương vị người sĩ quan chính trị. Tôi nhận được từ cấp trên bản sao in bằng li-tô “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” kèm theo một chỉ thị yêu cầu nhanh chóng phổ biến đến từng chiến sĩ và nhân dân khu vực đóng quân. Lúc ấy, chúng tôi không có ra-đi-ô, nên không được nghe trực tiếp lời của Bác. 70 năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ như in cảm xúc mãnh liệt của mình khi được đọc lời kêu gọi của Bác ngày ấy. Tôi tự nhủ sao mà hả dạ, thật hợp với lòng mình, phải đứng dậy thôi, kháng chiến thôi, không thể khác! Với thế hệ chúng tôi ngày ấy, lời Bác chính là lời hịch của non sông vào lúc sơn hà nguy biến.

Tôi nghiên cứu kỹ lời kêu gọi và phân tích nội dung lời kêu gọi thành 5 điểm để lên lớp cho toàn đơn vị. Từ đây kháng chiến toàn quốc bắt đầu, ai nấy đều xúc động. Mọi người đứng dậy hô vang: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”, “Kháng chiến nhất định thắng lợi!”. Chúng tôi biểu thị quyết tâm đáp lại lời kêu gọi của Bác bằng tinh thần sẵn sàng ra trận, bằng những lời hát: “Tiến lên đường tới sa trường/ Ta xứng danh là cảm tử quân/ Tiến lên đường tới sa trường/ Trong súng gươm chúng ta coi thường/... Ta cùng nhau tiến khó khăn không lùi/ Da ngựa bọc thây lòng ta vẫn vui” (bài hát Cứu quốc quân của nhạc sĩ Hoàng Quý-PV)...

Thế hệ chúng tôi, thế hệ của lời thề độc lập, mang theo lời thề trong trái tim mình, đã cùng với toàn thể dân tộc đáp “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Bác Hồ, bước vào hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ dài 30 năm, tức hơn 10 nghìn ngày chiến đấu không ngưng nghỉ cho tới Ngày Toàn thắng 30-4-1975 thì thực hiện trọn vẹn lời thề độc lập. Đó là thế hệ “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, là thế hệ “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trải qua bao nhiêu hy sinh gian khổ, thế hệ lời thề độc lập đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử mà Tổ quốc giao cho.

VÂN HƯƠNG (lược ghi)

*Lời thề thiêng liêng của dân tộc

Đêm 19-12-1946, Thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu Toàn quốc kháng chiến (TQKC). Để động viên toàn dân bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi TQKC. Mở đầu Lời kêu gọi, Người nêu rõ thiện chí hòa bình của ta và dã tâm cướp nước ta của thực dân Pháp: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!”. Trước hành động xâm lược hiếu chiến của giặc Pháp, Người khẳng định ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Đại tá, PGS, TS VŨ NHƯ KHÔI, nguyên cán bộ Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân sự.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân và dân cả nước “Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”, “Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”. Lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phục dựng lời thề “Dựng lại nghiệp xưa họ Hùng” của cuộc Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, lời tuyên cáo trong bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” thời Lý,… tiếp nối bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó vừa là lời của Tổ quốc, của dân tộc thiết tha kêu gọi mọi con Lạc, cháu Hồng đứng lên giữ nước, vừa là lời tuyên bố đanh thép với bọn thực dân cướp nước và toàn thế giới ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam. Đó còn là lời thề thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam.

Đáp lời kêu gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc ta nhất tề đứng lên chiến đấu giữ nước với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh!”. Trải qua 9 năm chiến đấu gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Tiếp nối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước...

Lời kêu gọi TQKC cách đây đã 70 năm, đất nước ta đã trải qua nhiều sự kiện lớn và tiến lên những bước dài, tình thế đã biến đổi, nhưng lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc của Bác Hồ vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam, quán triệt trong ý thức bảo vệ Tổ quốc của thế hệ hôm nay và mai sau.

HOÀNG ÂN (lược ghi)

* Đối sách mềm dẻo bảo vệ nền độc lập

Việt Nam cuối năm 1945 đầu năm 1946 rơi vào tình thế hết sức hiểm nguy. Trên đất nước hiện diện gần 30 vạn quân nước ngoài gồm quân Anh vào miền Nam, 1.500 quân Pháp bị Nhật bắt nay được thả, chưa kể số các đơn vị lính Pháp trà trộn trong lực lượng của Anh dưới danh nghĩa Đồng minh, 200.000 quân Tưởng vào miền Bắc và 60.000 quân Nhật chưa rút về nước có thể bị sử dụng để chống lại Cách mạng Việt Nam. Đi theo các đội quân trên còn có một lực lượng người Việt làm tay sai cho nước ngoài.

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Giáo sư, NGND VŨ DƯƠNG NINH, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

Trong khi đó, về mặt ngoại giao, Việt Nam cũng bị bao vây, cô lập. Các nước lớn nếu không ra mặt ủng hộ kế hoạch tái xâm lược của Pháp thì cũng tiếp tay cho Pháp, hoặc giữ thái độ trung lập, hoặc im lặng. Những nguy cơ này đã được dự báo từ trước. Tại Hội nghị Tân Trào ngày 13-8-1945, Đảng ta đã thấy trước tình hình, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, xác định nhiệm vụ đối ngoại là: Lợi dụng mâu thuẫn giữa hai phe Đồng minh về vấn đề Đông Dương (Mỹ-Tưởng và Anh-Pháp) nhưng phải thấy mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với Liên Xô có thể làm cho Anh-Mỹ nhân nhượng để Pháp trở lại Đông Dương. Hết sức tránh trường hợp ta phải đối phó cùng một lúc với nhiều lực lượng Đồng minh tràn vào nước ta và dựng chính phủ tay sai của họ. Tranh thủ sự đồng tình của một số nước để chống âm mưu của Pháp và Tưởng. Khẳng định rằng, chỉ có thực lực của ta mới quyết định thắng lợi cho ta...

Nội dung trên phản ánh sự sáng suốt của Đảng trong việc phân tích những mâu thuẫn chính trên đất nước ta, dự báo khả năng tái chiếm Đông Dương của quân Pháp và kế hoạch “nhập Việt” của quân Tưởng.

Như vậy, chỉ trong hơn 15 tháng từ ngày tuyên bố độc lập đến ngày TQKC, hoạt động đối ngoại của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vô cùng khẩn trương và phức tạp. Trong khi quân dân ta phải tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, Đảng và Chính phủ vẫn đẩy mạnh công tác ngoại giao với các nước. Việc ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 là sự thể hiện sách lược “hòa để tiến”, tránh tình thế phải đối phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù. Ta đẩy quân Tưởng về nước, kéo dài thời gian hòa bình để củng cố lực lượng, chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Trong quan hệ với Pháp, từ Hội nghị Đà Lạt đến Hội nghị Fontainebleau, từ chuyến đi của phái đoàn Quốc hội đến cuộc thăm chính thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, Việt Nam luôn bày tỏ một lập trường nhất quán: Độc lập và thống nhất đất nước, hữu nghị và hợp tác với nước Pháp.

Hiểu rõ bản chất hiếu chiến của thực dân phản động, ta vẫn đưa ra đối sách mềm dẻo cần thiết từ Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3 đến Tạm ước ngày 14-9 để tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc chiến tranh nhân dân chống xâm lược. Khoảng thời gian không dài nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng và thiết thực đối với một dân tộc vừa giành được chính quyền, phải đối phó với thù trong giặc ngoài, sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến đầy thử thách. Đó cũng là thời gian để lại nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng về sự kết hợp giữa đối nội và đối ngoại, giữa lập trường kiên định với biện pháp mềm dẻo, giữa nhân nhượng sách lược với quyết tâm chiến lược, giữa tranh thủ khả năng hòa bình với chuẩn bị tiến hành chiến tranh. Nhờ đó, toàn thể nhân dân vững bước tiến vào cuộc kháng chiến gìn giữ nền độc lập của Tổ quốc.

SƠN HÀ (lược ghi)

* Bài học về ngoại giao trong thời kỳ mới

Cách đây hơn 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ vĩ đại, nhân dân ta đã vùng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hơn một năm sau đó, ngày 19-12-1946, hưởng ứng “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" (TQKC) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc.

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946
Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn 1945-1946

Đồng chí TS ĐẶNG ĐÌNH QUÝ, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.

Có thể nói, giai đoạn từ những ngày đầu lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến khi TQKC bùng nổ là giai đoạn đặc biệt trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, cũng là giai đoạn hết sức đặc biệt đối với nền ngoại giao Việt Nam hiện đại nói riêng. Chính trong lúc chính quyền cách mạng non trẻ ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong giặc ngoài, khó khăn trăm bề, ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng vai trò tiên phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, để lại những bài học quý báu cho công tác đối ngoại giai đoạn hiện nay.

Sau 70 năm kể từ ngày ấy, và nhất là sau 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn trước. Vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và quốc tế không ngừng nâng cao. Ta đang có nhiều thuận lợi để đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, hiệu quả cả song phương và đa phương. Tuy nhiên, các thách thức đa chiều do tình hình thế giới diễn biến phức tạp đã và đang tác động trực tiếp đến môi trường an ninh-phát triển của nước ta. Trong bối cảnh hiện nay, để thực hiện những nhiệm vụ trên, chúng ta có thể vận dụng những bài học kinh nghiệm đối ngoại của giai đoạn 1945-1946 trên một số mặt cụ thể sau: Ngoại giao phải luôn xác định, quán triệt nguyên tắc vì lợi ích quốc gia-dân tộc. Tiếp tục vận dụng khéo léo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì về nguyên tắc, nhưng linh hoạt về sách lược và bước đi. Vận dụng phương châm “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” như đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát huy trong giai đoạn 1945-1946. Phát huy cao độ tính chủ động, tích cực của ngoại giao Hồ Chí Minh. Vận dụng bài học về chú trọng công tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo, đồng thời không ngừng bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại.

70 năm trước, ngoại giao tuy là một mặt trận “đơn độc” nhưng vẫn rất hiệu quả. Ngày nay, mặt trận ngoại giao đang được hưởng các điều kiện bên trong và bên ngoài rất thuận lợi. Đó là cơ sở để chúng ta có niềm tin rằng, ngoại giao tiếp tục phát huy vai trò và sứ mệnh là một trong những mặt trận hàng đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

THANH TUẤN (lược ghi)