Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là gì
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế: Từ đâu và như thế nào?PGS., TS. Phạm Thị Túy, PGS., TS. Phạm Quốc Trung Show
(Tài chính) Đã có nhiều nghiên cứu về đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, cũng như không ít luận bàn về tái cấu trúc nền kinh tế cả ở phạm vi quốc gia lẫn khu vực và quốc tế, thế nhưng chưa có nghiên cứu nào đề cập tới việc phân định rõ sự khác biệt giữa đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế với tái cấu trúc nền kinh tế.Quan niệm về đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế theo nghĩa chung nhất có thể được hiểu là việc tạo ra nhiều của cải hơn nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng cần xác lập “Mô hình tăng trưởng”. Mô hình tăng trưởng kinh tế là phương tiện hay cách thức để đạt được các mục tiêu tăng trưởng. Tùy thuộc vào đặc điểm mỗi thời kỳ, các quốc gia có thể có mục tiêu tăng trưởng khác nhau, tuy nhiên, đều một mục đích là đem lại sự phồn thịnh cho xã hội. Thuật ngữ chuyển đổi, hay đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo nghĩa phổ biến là việc thay đổi cách thức vận hành nền kinh tế theo chiều hướng tiến bộ. Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là việc xác lập khung khổ chung, hay mô thức chung định hướng vận hành nền kinh tế trên cơ sở tối ưu hóa các nguồn lực của quốc gia với một cơ cấu nền kinh tế hợp lý, hiệu quả, hiện đại, nhằm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao theo hướng phát triển bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, bởi để thực hiện việc đổi mới mô hình tăng trưởng cần phải cơ cấu lại nền kinh tế, nhằm một mặt, khắc phục những khuyết tật, những hạn chế nảy sinh trong quá trình tăng trưởng; mặt khác, xây dựng một cơ cấu kinh tế đáp ứng yêu cầu của mô hình tăng trưởng. Việc tái cấu trúc hay cơ cấu lại nền kinh tế phải được xác định gắn với việc cơ cấu lại các ngành kinh tế, kỹ thuật, các lĩnh vực cho đến các bộ phận… của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, có thể nói, chuyển đổi hay đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là xác lập/định hướng cách thức vận hành nền kinh tế để đạt các mục tiêu tăng trưởng, phát triển, còn tái cấu trúc nền kinh tế là việc thực hiện hay hiện thực hóa cách thức vận hành nền kinh tế đã được lựa chọn. Trong điều kiện hiện nay, tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế phải là quá trình hiện thực hiệu quả 3 trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường. Đây là những tư tưởng quan trọng nhất, cũng là những nét mới trong tư duy phát triển hiện đại. Trên cơ sở lý luận trên, nhóm nghiên cứu đưa ra những phác thảo ban đầu về đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế như Bảng sau. Bảng: Đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế - Những phác thảo ban đầu
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả Điều kiện để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Để đổi mới mô hình tăng trưởng, cần nhìn nhận một cách khách quan về mô hình tăng trưởng đã có trên các phương diện: (1) Phát hiện những khuyết tật của mô hình cũ để có giải pháp loại bỏ; (2) Phát triển những thế mạnh, những ưu việt của mô hình đã có để hoàn thiện nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của mô hình mới. Việc phát triển này gắn với yêu cầu đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế để hình thành mô hình tăng trưởng mới. Những yêu cầu nên trên có thể coi như những điều kiện bắt buộc để thực hiện nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Bởi lẽ, nếu không xác định được yêu cầu rà soát mô hình tăng trưởng cũ để có sự điều chỉnh, vừa loại bỏ cái lỗi thời, vừa bổ sung phát triển cái mới, thì không thể xác định được chính xác nội dung của mô hình mới. Đồng thời, tăng trưởng có thể được thúc đẩy bởi nhiều nhân tố. Tùy từng giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế, mà một hay một số nhân tố này sẽ nổi lên trở thành nhân tố then chốt, hay còn gọi là động lực của tăng trưởng. Vì vậy, muốn thành công trong đổi mới mô hình tăng trưởng Nhà nước cần phải xác định được những động lực tăng trưởng phù hợp cho từng thời kỳ. Việc xác định động lực cho tăng trưởng, chẳng hạn việc xác định ưu tiên tập trung mọi nguồn lực (vốn, lao động, tài nguyên, cơ chế ưu đãi…) cho các động lực đã xác định, hoặc cho phép nền kinh tế phát triển có trọng tâm, có định hướng. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước, như: Nhật Bản, Hàn Quốc đều có chiến lược tăng trưởng có trọng tâm. Nhà nước đứng trước những lựa chọn về xác định động lực cho tăng trưởng kinh tế (dựa vào xuất khẩu hay tiêu dùng trong nước; phát triển nông nghiệp, công nghiệp lắp ráp hay dịch vụ, du lịch...). Việc xác định này cần được xem xét trên hai cơ sở: (i) đặc thù quốc gia (trình độ phát triển kinh tế - xã hội, năng lực cạnh tranh...) và (ii) đặc điểm, xu thế quốc tế (phân chia lao động quốc tế và khu vực, xu thế phát triển...). Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế không chỉ dừng lại ở việc xác định đâu là động lực tăng trưởng, mà còn phải định hình nên những định hướng chính sách chủ yếu nhằm phát triển tối ưu các động lực tăng trưởng này, tận dụng tối đa những lợi thế, cơ hội của giai đoạn đó. Một nền kinh tế có tăng trưởng chỉ khi những nhân tố đầu vào cơ bản (vốn, lao động, tài nguyên) được đảm bảo. Dựa trên cơ sở trọng tâm động lực tăng trưởng đã được xác định ở trên, Nhà nước cần ban hành các chính sách nhằm phát triển toàn diện và có định hướng các nguồn lực này. Nội dung này có thể có sự tham gia của cả khu vực tư nhân lẫn Nhà nước, với vai trò của Nhà nước là chủ đạo do có khả năng tập trung nguồn lực cao hơn. Ở các quốc gia tư bản truyền thống, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia có vai trò không thua kém nhà nước trong phát triển nguồn lực cho tăng trưởng. Ngoài việc xác định động lực, tối ưu hóa động lực thì một nhân tố đóng vai trò then chốt đối với tăng trưởng, phát triển kinh tế là thể chế và chính sách của Nhà nước. Vì vậy, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế cần phải gắn liền với việc thiết kế và triển khai hệ thống thể chế và chính sách một cách có hệ thống, hướng đến mục tiêu phát triển, tạo động lực tăng trưởng và qua đó đạt được các mục tiêu tăng trưởng. Cần xác định được vai trò của Nhà nước (trong mối quan hệ với thị trường), vai trò của khu vực nhà nước (trong mối quan hệ với khu vực dân doanh và dân sự) và vai trò của hệ thống thể chế kinh tế… Theo đó, Nhà nước cần thực hiện tốt các chức năng của mình, như: điều hành vĩ mô nền kinh tế, xây dựng hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội hữu hiệu, cơ chế thủ tục hành chính gọn nhẹ, hiệu quả... Qua nghiên cứu học thuật và kiểm chứng thực tiễn, nhất là qua hiện thực phát triển của các quốc gia phương Tây, cho thấy rằng, nền tảng thể chế (institutions) đóng vai trò quan trọng nhất trong sự thành bại của một quốc gia, một dân tộc. Bên cạnh đó, vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế có thể được thể hiện đặc biệt tại một số ngành, lĩnh vực then chốt, như: điện lực, giao thông, viễn thông... Nhà nước trực tiếp thực hiện khi khu vực tư nhân không đủ hoặc chưa đủ nguồn lực để hoạt động, trong khi đây lại là lĩnh vực không thể thiếu đối với nền kinh tế. Đây là lĩnh vực thuộc “quyền tự quyết” của nhà nước khi khu vực tư nhân ít có khả năng tác động trực tiếp (ở các nước tư bản, khu vực tư nhân có thể tác động thông qua vận động hành lang - lobby). Tại nội dung này, cải thiện cần hướng tới hiệu quả của vai trò nhà nước chứ không chỉ là gia tăng vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế. Những gợi mở cho Việt Nam Đối với một nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập như nền kinh tế Việt Nam hiện nay, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế bao hàm nhiệm vụ tiếp tục thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, song hành với nhiệm vụ khắc phục những yếu kém sai sót đã chính thức được xác nhận từ những chặng đường đầu của công cuộc đổi mới (1986-2001), nhưng cho đến nay (sau gần 30 năm đổi mới) vẫn chưa khắc phục được, cùng với việc hoàn thiện hệ thống thể chế và có sự tham khảo mô hình tăng trưởng của các nước, các nền kinh tế đi trước. Những yếu kém, sai sót sau hơn 25 năm đổi mới đất nước đã được nhận diện khá rõ nét, song vấn đề được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra tại phiên khai mạc Hội nghị Trung ương 5 khóa XI là cần phải làm rõ những nguyên nhân dẫn đến việc kéo dài những sai sót, yếu kém thì mới có thể xác định được những giải pháp thực sự có hiệu lực và hiệu quả để khắc phục những tồn tại đó. Tổng Bí thư có chỉ ra rằng, một trong những nguyên nhân đó là tình trạng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đã được phê duyệt đều bị chi phối ở những mức độ nhất định, bởi "tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí hay "lợi ích nhóm”. Do đó, việc rà soát, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách để khắc phục được những khuyết tật của mô hình tăng trưởng cũ là một quá trình chuyển đổi nhận thức, đấu tranh tư tưởng, đổi mới tư duy. Điều này có nghĩa rằng, nhận thức được vấn đề là quan trọng, song quan trọng hơn là cần tạo ra quyết tâm hành động với một sự đồng thuận cao (trong toàn xã hội, mà trước hết là sự đồng thuận trong đội ngũ những nhà lãnh đạo, quản lý đất nước và toàn thể hệ thống chính trị của đất nước) để khắc phục, giải quyết vấn đề. Đây có thể được coi là một trong những điều kiện tiên quyết để nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam có được nền tảng vững chắc ban đầu. Để thực hiện việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trước hết cần phải tiến hành rà soát lại quy trình và phương pháp xây dựng mô hình tăng trưởng đồng thời với việc điều chỉnh nội dung và các giải pháp thực hiện mô hình tăng trưởng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 Khóa XI. Cũng cần nhận thức thêm là quá trình này cũng là quá trình gay go và gian khổ, nhất là đấu tranh với các nhóm lợi ích - một thực thể xã hội đã có tiềm lực lớn, có chỗ đứng vững chắc, đã được thiết lập và củng cố qua hàng chục năm phát triển của đất nước. Cuộc đấu tranh này cần được tổ chức triển khai với tinh thần quyết liệt vì nó quyết định khả năng phát triển của nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu không làm được điều này thì mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng khó đạt kết quả như mong đợi. Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là một quá trình, không thể hành động theo ý muốn chủ quan, mà phải tạo ra các tiền đề và điều kiện cho quá trình chuyển đổi, nhất là phải nắm bắt để hành động đúng quy luật phát triển. Chính vì vậy, trong những năm đầu của thời kỳ thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011- 2020, cần có sự kết hợp giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu theo hướng chuyển mạnh sang chiều sâu./. Tài liệu tham khảo 1. William Eastely (2014). Truy tìm căn nguyên tăng trưởng, sách dịch, Nxb Lao động và Xã hội 2. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011). Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô trong một số năm trước mắt, ngày 28/9/2011 5. Nguyễn Đức Thành (2010). Lựa chọn để tăng trưởng bền vững, Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2010, Nxb Tri thức Theo kinhtevadubao.com.vn In bài viết
Tags
mô hình tăng trưởng nền kinh tế tăng trưởng kinh tế tái cấu trúc định hướng mục tiêu
THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM
Tin nổi bậtỦy ban Thường vụ Quốc hội bế mạc Phiên họp thường kỳ thứ 8
17/02/2022
Đảm bảo sẵn sàng nguồn lực đáp ứng kịp thời nhu cầu phục hồi và phát triển kinh tế
17/02/2022
Kiểm soát chặt chẽ, tái cơ cấu nợ công theo hướng bền vững
17/02/2022
Bộ Tài chính thực hiện đa mục tiêu trong phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội
16/02/2022
Hồ sơ khai, miễn lệ phí trước bạ đối với tài sản thuê tài chính gồm những gì?
16/02/2022
Một hướng nhìn về đổi mới mô hình tăng trưởngThứ Tư, 28-10-2020, 01:43 Facebook Email Bản in + Có thể thấy, sau gần 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đó trong 30 năm qua đang có xu hướng giảm dần. Nhiều nghị quyết của Ðảng trong gần 10 năm qua đã nhấn mạnh yêu cầu cấp bách phải đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng dựa vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo bên cạnh việc khai thác lao động và nguồn vốn. Cần đổi mới mô hình tăng trưởng Ðã có rất nhiều mô hình về tăng trưởng kinh tế, nhưng tựu trung lại các mô hình này đều tập trung vào các nhân tố cơ bản đó là: vốn, lao động, năng suất các yếu tố tổng hợp. Thước đo chủ yếu về hiệu quả của lao động đó là năng suất lao động, tức là sản lượng tính trên một đơn vị lao động. Yếu tố thứ hai là khối lượng vốn trên một đơn vị lao động. Ðó là cách tiếp cận truyền thống về tăng trưởng kinh tế dưới hai cấu phần vốn và lao động. Ngày nay các quốc gia tập trung vào năng suất các yếu tố tổng hợp do sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ. Ðổi mới mô hình tăng trưởng có hai cách tiếp cận. Cách tiếp cận thứ nhất là từ một mô hình tăng trưởng kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia mà họ cần thay đổi các nhân tố gì để tăng trưởng kinh tế đạt được tốc độ cao nhất có thể và mang tính bền vững. Cách tiếp cận thứ hai là xem xét các mô hình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới và đối chiếu các điều kiện đặc thù có tính tương đồng của nền kinh tế nước mình và sử dụng nó như một tham chiếu căn bản cho mô hình tăng trưởng của đất nước mình. Có lẽ việc kết hợp hai mô hình này là cách thức mà chúng ta nên tiếp cận khi đặt ra vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trước hết cần đặt vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm đạt được mục đích cuối cùng là gì? Nhằm để có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững hay mô hình tăng trưởng đổi mới đó là công cụ, phương tiện để nền kinh tế đạt tới các mục tiêu khác như công bằng xã hội, bảo vệ môi trường… Có lẽ nên tổng hợp các mục tiêu này khi đặt ra vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng. Về yêu cầu tăng năng suất lao động Các nền kinh tế phát triển đều dựa vào năng suất lao động để có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Chậm nâng cao năng suất lao động đồng nghĩa với việc làm tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại. So sánh năng suất lao động của Việt Nam với hầu hết các nước ASEAN cho thấy, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn từ hai lần so với Phi-li-pin đến 14 lần so với Xin-ga-po. Nguyên nhân chủ yếu đó là các ngành kinh tế của nước ta về cơ bản ít sử dụng tri thức, khoa học - công nghệ, lao động có kỹ năng, các ngành nghề dựa vào các ngành thâm dụng vốn. Lao động tập trung nhiều ở các khu vực nông, lâm, thủy sản và lao động chưa qua đào tạo còn lớn. Tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam đến nay chủ yếu là sự chuyển dịch cơ cấu từ ngành có năng suất lao động thấp sang ngành có năng suất lao động cao hơn. Còn năng suất nội bộ ngành có cải thiện nhưng rất chậm. Với thành quả của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam có nhiều điều kiện để có thể tiếp cận công nghệ kỹ thuật số, nền kinh tế số. Nó cho phép Việt Nam có các nhà máy thông minh, sản phẩm thông minh, chuỗi cung ứng thông minh đáp ứng nhu cầu của khách hàng linh hoạt và hiệu quả hơn. Hiện thực hóa các yêu cầu đòi hỏi này trong 5 năm, 10 năm tới bằng các chính sách cụ thể, mang tính khả thi sẽ là một cuộc đổi mới thực chất tạo cú huých cho năng suất lao động gia tăng đột biến, cũng như mô hình tăng trưởng được đổi mới một cách căn bản, thực chất. Về sáng tạo và đổi mới công nghệ Các nền văn minh phương Tây nói chung có truyền thống về đổi mới và sáng tạo. Ðiều này giải thích vì sao các cuộc cách mạng về khoa học - công nghệ đều khởi phát từ phương Tây. Các mô hình tăng trưởng kinh tế ngày nay đều coi trọng vai trò của đổi mới sáng tạo trước những thành tựu của khoa học - công nghệ. Ở Việt Nam, mức độ đóng góp của khoa học - công nghệ đối với nền kinh tế vẫn còn rất thấp. Mức độ sẵn sàng về công nghệ trong báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu cho thấy vị trí của Việt Nam còn ở mức rất khiêm tốn, đứng quanh mức 100 trong gần 150 quốc gia khảo sát. Riêng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu thì trong báo cáo thường niên ngày 2-9-2020 của Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn cầu (WIPO) đã xếp hạng Việt Nam thứ 42/131 quốc gia. Việt Nam đứng thứ ba sau Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a ở Ðông - Nam Á và đứng thứ chín ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ngoài ra, nhiều chỉ tiêu khác liên quan đến khoa học - công nghệ của Việt Nam vẫn còn ở mức rất khiêm tốn so với nhiều nước khác. Chẳng hạn như tổng chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển (R&D) so với GDP là chỉ tiêu rất quan trọng nhằm đánh giá cường độ nghiên cứu và phát triển của một quốc gia, tuy có được cải thiện từ mức 0,21% năm 2011 lên 0,55% năm 2017 nhưng so với các nước thì còn rất thấp. Chi cho nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp Việt Nam có tăng lên nhanh trong tổng chi nghiên cứu phát triển của cả nước nhưng so với các nước ASEAN vẫn còn rất thấp. Hơn nữa nghiên cứu phát triển ở nước ta tập trung phần lớn ở các doanh nghiệp lớn, còn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì hoạt động này rất hạn chế. Chất lượng nghiên cứu khoa học - công nghệ so với mặt bằng ASEAN và quốc tế cũng ở mức thấp. Tỷ lệ về bằng sáng chế và ứng dụng (trên một triệu dân) còn nhỏ bé. Ðây là những khó khăn, thách thức Việt Nam cần phải vượt qua nếu muốn đổi mới mô hình tăng trưởng có hiệu quả. Giáo sư Michael Porter, cha đẻ của lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia nhận định về mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta như sau: “Mô hình tăng trưởng của Việt Nam đã đạt tới đỉnh. Nếu Việt Nam tiếp tục tăng trưởng dựa vào mở rộng quy mô vốn, sử dụng nguồn nhân công giá rẻ với tay nghề thấp và giá trị gia tăng trong hàng hóa xuất khẩu thấp sẽ dẫn tới không thể cạnh tranh và nền kinh tế sẽ gặp nhiều rủi ro trong tương lai”. Nhận định này có vai trò như là một cảnh báo thuyết phục, và thực tế nó cũng khá quen thuộc trong nhận thức chung của xã hội, đặc biệt là tinh thần các nghị quyết của Ðảng về việc cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng qua chiều sâu để nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Một số giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng Ðổi mới hay chuyển đổi hay lựa chọn tối ưu một mô hình tăng trưởng kinh tế mới của Việt Nam, tùy theo cách gọi, cuối cùng phải bảo đảm được mục tiêu kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, bền vững, đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, giải quyết tốt các vấn đề về xã hội và môi trường, ứng phó hiệu quả trước những cú sốc nhiều mặt từ bên ngoài. Dưới đây xin được đóng góp một vài giải pháp vào hệ thống các giải pháp, chính sách toàn diện để đạt đến thành công của quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng. Trước hết, cần thể chế hóa khá cụ thể các yêu cầu mục tiêu đặt ra từ các nội hàm đổi mới của mô hình tăng trưởng. Ðặc biệt chú trọng vai trò của đổi mới sáng tạo và hoạt động khoa học - công nghệ nhằm từng bước đưa nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế số. Tiếp đến, cần thúc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Ðây là vấn đề đã được đặt ra từ lâu nhưng thực chất việc triển khai thực hiện do gặp phải nhiều khó khăn, nên tiến hành còn rất chậm. Ðể mô hình tăng trưởng mới phát huy tác dụng thì các cải cách về đầu tư công, về doanh nghiệp nhà nước, về thị trường tài chính, trong đó có các vấn đề về tài khóa và tiền tệ cần được đổi mới mạnh mẽ hơn nữa. Cuối cùng, cải cách hành chính theo hướng triệt để, quyết liệt nhưng phải hiệu quả hơn. Quan điểm giữa “cấm và cho” cần được dứt khoát trong tinh thần của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Pháp luật nên quy định rõ những gì các chủ thể không được làm, thay vì chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Cả nước đang hướng về đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XIII với nhiều kỳ vọng hết sức lớn lao. Trước bao nhiêu thách thức của biến động chính trị, kinh tế thế giới, nhất là đại dịch Covid-19 trong hơn chín tháng qua, Việt Nam đã cho thế giới thấy sức mạnh kiên cường, bền bỉ. Và điều đó tự thân nó như một lời cổ vũ mạnh mẽ cho toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta hướng tới sự thành công của Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XIII, tiếp tục mở ra một chương mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước huy hoàng hơn, chói lọi hơn. TS TRƯƠNG VĂN PHƯỚC Nguyên Quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia Facebook Twitter Link EmailQuay lại Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh và bền vữngThứ Ba, 06-04-2021, 02:03 Facebook Email Bản in + Để hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia thịnh vượng vào năm 2045, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu nhiều nhiệm vụ trọng tâm cụ thể, trong đó có nội dung đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng (MHTT), cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thách thức của việc đổi mới MHTT giai đoạn 2021-2025 không chỉ là khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập từ MHTT trước đây mà còn phải đề xuất những giải pháp mới. Nhiệm vụ khó khăn hơn TÔ HÀ Facebook Twitter Link EmailQuay lại |